Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc...

Tài liệu Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc

.PDF
94
567
112

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHÙNG QUỐC BAN PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ MAI LAN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Những nội dung trong luận văn này là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của PGS.TS Nguyễn Thị Mai Lan. Các nội dung tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công trình, thời gian và địa điểm công bố. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2016 NGƯỜI THỰC HIỆN Phùng Quốc Ban DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BVCSTE Bảo vệ chăm sóc trẻ em Công ước 138 Công ước số 138 của ILO về tuổi lao động tối thiểu (ILO Convention No. 138 on the Minimum Age for Admission to Employment and Work), 1973 Công ước 182 Công ước số 182 của ILO về xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Worst Forms of Child Labour Convention) 1999 ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (the International Labour Organization) IPEC Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của ILO (International Programme on the Elimination of Child Labour) LĐ-TB&XH Lao động - Thương binh và Xã hội LĐTE Lao động trẻ em LHQ Liên hợp quốc UBND Uỷ ban nhân dân UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (United Nations’ Children Fund) CTXH Công tác xã hội MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................... ................ .1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM. .................................................................................... 7 1.1. Sử dụng lao động trẻ em ...................................................................................... 7 1.2. Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em ................................................................. 17 1.3. Công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em .......................... 26 1.4. Khách thể và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 29 Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TỈNH VĨNH PHÚC................................................. 34 2.1. Thực trạng sử dụng lao động trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc ......................................... 34 2.2. Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc ....................................... 46 2.3. Thực trạng công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em tại Vĩnh Phúc .................................................................................................................. 49 Chương 3. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TỈNH VĨNH PHÚC................................................................................................. ..56 3.1. Dự báo các yếu tố vận động lao động trẻ em ..................................................... 56 3.2. Phương hướng phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em giai đoạn 2016- 2020 .... .59 3.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em ................................................................................................................ 64 3.4. Kiến nghị ............................................................................................................ 73 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO; PHỤ LỤC. .................................................... 77 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Trẻ em khi sinh ra đều có quyền được hưởng sự thương yêu, chăm sóc của bố mẹ, cộng đồng. Nhưng vẫn còn rất nhiều trẻ em vì hoàn cảnh gia đình phải bỏ học để đi làm thêm phụ giúp gia đình, lang thang kiếm sống rồi nảy sinh ra các tệ nạn xã hội như trộm cắp, hút chích, bị lạm dụng sức lao động, bị xâm hại tình dục… Trẻ em lao động sớm đang là vấn về bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đây cũng là một trong những vấn đề được Chính phủ quan tâm đặc biệt và đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm can thiệp và hỗ trợ có hiệu quả đối với nhóm trẻ em thiệt thòi này. Sự quan tâm này được thể hiện: Việt Nam là một trong những Quốc gia đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em (1990). Việc phê chuẩn Công ước này đã đặt ra trách nhiệm pháp lý của nước ta trước cộng đồng quốc tế và tạo ra sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về thực hiện quyền cơ bản, đặc biệt là quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác hoặc tinh thần, bị bỏ mặc xao nhãng, bị tổn thương hay lạm dụng. Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình Ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục, trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010 (Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004). Nhằm hướng tới trợ giúp cho tất cả mọi trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 267/QĐTTg phê duyệt Chương trình Quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015, trong đó có việc tiếp tục duy trì và phát triển mô hình trợ giúp trẻ em lang thang, trẻ em phải làm việc nặng nhọc, tiếp xúc với chất độc hại Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã giúp nền kinh tế Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, GDP liên tục tăng trưởng ở mức cao và tương đối ổn định. Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo, đời sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc, phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh những thành tựu về phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đạt những kết quả đáng ghi nhận về xã hội, trong đó có mục tiêu vì trẻ em giai đoạn 2001- 2010 về cơ bản đã đạt và vượt kế hoạch. Song cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, sự phân hoá giàu 1 nghèo ngày càng tăng. Nhiều trẻ em đã phải bỏ học để tự kiếm sống và giúp đỡ gia đình. Một số trẻ em may mắn hơn khi không phải bỏ học thì phải chọn cho mình một công việc nào đó để tự lo liệu tiền trang trải việc học tập của mình. Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương chính sách của nhà nước, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nhiều năm liền được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đứng đầu trong cả nước làm thay đổi diện mạo kinh tế- xã hội của tỉnh, từng bước cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư được nâng cao. Vì vậy, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã được các cấp, các ngành quan tâm hơn, nhiều chính sách trợ giúp trẻ em được triển khai đạt hiệu quả. Các hoạt động bảo vệ trẻ em bước đầu được triển khai thực hiện ở cả 3 cấp độ: phòng ngừa; can thiệp giảm thiểu các nguy cơ; hỗ trợ phục hồi, hòa nhập cho trẻ em bị tổn thương và hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, kết quả thực hiện các mục tiêu bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em đến nay chưa đạt theo kết quả mong muốn, trong số 36 chỉ tiêu đặt ra thì có tới 14 chỉ tiêu chưa đạt, trong đó có tới 5 chỉ tiêu thuộc về Bảo vệ chăm sóc trẻ em, trong đó có chỉ tiêu về lao động trẻ em. Vẫn còn tình trạng trẻ em phải lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, trẻ em có nguy cơ cao tham gia lao động sớm do hoàn cảnh gia đình khó khăn… Thực trạng trên cho thấy công tác phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng còn nhiều bất cập. Tình hình lao động trẻ em vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế và những vấn đề xã hội nảy sinh như hiện nay. Khi mà gần đây rất nhiều vụ việc lao động trẻ em bị ngược đãi, bạo hành, lạm dụng... bị phát hiện và xử lí, mà phát hiện đầu tiên lại là cơ quan báo chí, mạng xã hội và lên tiếng của người dân. Những vụ việc đó có thể chỉ là con số nhỏ trong tảng băng chìm mà lao động trẻ em đang phải đối mặt. Điều đó đòi hỏi những giải pháp mang tính hiệu quả hơn đối với công tác xã hội trong phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trong bối cảnh hiện nay. Tuy chưa có vụ việc nghiêm trọng nào xẩy ra trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, song với mong muốn hoàn thiện các hoạt động về công tác xã hội trong phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trong thực thi chính sách Bảo vệ chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nhằm tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi để trẻ em được bảo vệ, được tham gia, học tập để phát triển. 2 Từ những nhận thức trên, với mong muốn đề xuất những biện pháp công tác xã hội nhằm hoàn thiện việc phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Công tác xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tổng quan tình hình nghiên cứu về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em cho thấy các hướng nghiên cứu lý luận và thực tiễn về sử dụng lao động trẻ em và phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em đã được tiến hành nghiên cứu. Các nghiên cứu cụ thể về vấn đề này được nêu dẫn cụ thể dưới đây: Các nghiên cứu cụ thể về lao động trẻ em và sử dụng lao động trẻ em đã được tiến hành nghiên cứu rất bài bản bởi các nhà nghiên cứu thuộc Bộ Lao động – TTB & XH. Các nghiên cứu cụ thể như: Bộ Lao Động- Thương binh và Xã hội Việt Nam được sự giúp đỡ của UNICEF tổ chức biên soạn tài liệu: Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam: “Đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam” vào năm 2009. Bản đánh giá đã phân tích các cơ chế chính sách, văn bản pháp luật của Việt Nam về trẻ em, nhóm trẻ em đã bị thiệt thòi ở Việt Nam để sử dụng sự giúp đỡ của UNICEF [2]. Báo cáo kết quả điều tra về lao động trẻ em tại 8 tỉnh, thành phố năm 2010 của Bộ Lao động- TB&XH và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Báo cáo đã đề cập đến thực trạng về lao động trẻ em tại các tỉnh thành phố đặc trưng, đây là cơ sở để nhà nước có các giải pháp về lao động trẻ em [11]. Tác giả Nguyễn Hải Hữu đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học: “Tình hình lao động trẻ em- Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng lao động trẻ em trong những năm 2010 và đưa ra các giải pháp căn bản về bảo vệ lao động trẻ em [18]. Tiếp theo các nghiên cứu trên, tác giả Quách Thị Quế Viện Khoa học Lao động xã hội đã có bài viết “Giải quyết vấn đề lao động trẻ em và trẻ em lang thang trong chiến lược bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em” Bài viết đã cung cấp những thông tin về giải quyết vấn đề lao động trẻ em và trẻ em lang thang nhằm xác định những chính sách về bảo vệ quyền trẻ em theo các dự án hưởng lợi [24] 3 Năm 2012, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Tổng cục thống kê và Tổ chức lao động quốc tế đã kết hợp để tổ chức cuộc điều tra quốc gia về lao động trẻ em. Đây là kết quả điều tra tổng hợp về lao động trẻ em ở tất cả các tỉnh, thành phố của Việt Nam [10]. Chùm nghiên cứu về đề tài trẻ em (Viện nghiên cứu và phát triển xã hội) trong đó đề cập đến vấn đề sức khỏe của trẻ lao động sớm. Qua các đề tài và công trình nghiên cứu trên có thể hình dung ra bức tranh tổng quan về tình hình lao động trẻ em hiện nay, cũng như những tác động từ gia đình, xã hội đến trẻ em lao động sớm. Một số đề tài, nghiên cứu đã đề cập đến một số kỹ năng thực hành công tác xã hội đối với trẻ em lao động sớm, bên cạnh đó đã đề cập đến một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng lao động trẻ em. Báo cáo nghiên cứu về trẻ em làm việc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm năm 2001 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. Báo cáo đã đề cập đến thực trạng về trẻ em phải làm việc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm, đây là cơ sở để nhà nước có các chính sách và giải pháp về lao động trẻ em [4]. Tác giả Phan Thị Lan Phương năm 2014 đã có bài viết “Phòng, chống lạm dụng lao động trẻ em góp phần thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam” Bài viết đã cung cấp những thông tin về thực trạng lao động trẻ em và giải pháp phòng chống lạm dụng lao động trẻ em ở Việt Nam [23]. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về tình hình lao động trẻ em dưới góc độ công tác xã hội để đưa ra được các giải pháp đồng bộ, thống nhất nhằm ngăn ngừa, giải quyết tình trạng lao động trẻ em từ các khâu phòng ngừa, phát hiện, can thiệp sớm nhằm chủ động phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trong hoạt động công tác xã hội, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng công tác xã hội về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu công tác xã hội về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em; Phân tích thực trạng nhiệm vụ công tác xã hội trong phòng ngừa lao động trẻ em tại tỉnh Vĩnh Phúc; Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Có rất nhiều khía cạnh có thể nghiên cứu phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em. Tuy nhiên, trong nội dung luận văn này chúng tôi sẽ nghiên cứu sâu lý luận và thực tiễn về phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em từ góc độ khoa học công tác xã hội. Trong đó, sẽ đi sâu vào việc xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em, xác định rõ các nhiệm vụ công tác xã hội đối với phòng ngừa lao động trẻ em. Nghiên cứu này sẽ được tiến hành trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Để nghiên cứu được thực trạng công tác xã hội trong phòng ngừa lao động trẻ em tác giả sẽ tiến hành điều tra trên các khách thể chính như: 100 trẻ em, 100 nhân viên công tác xã hội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác xít, đường lối, chủ chương của Đảng. Chính sách pháp luật của nhà nước về quyền con người, quyền công dân, về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu về công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em nghiên cứu này sử dụng thuyết vai trò. Để tìm hiểu thực trạng về lao động trẻ em, công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 5 tổng số lượng khách thể là 200 người. Trong đó gồm có: 100 trẻ em; 100 nhân viên công tác xã hội tỉnh Vĩnh Phúc. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã chỉ ra được khung lý thuyết nghiên cứu công tác xã hội với phòng ngừa lao động trẻ em. Trong đó, xác định được các khái niệm công cụ (công tác xã hội; phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em; công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em). Luận văn cũng đã chỉ ra được những vấn đề lí luận cơ bản về các nhiệm vụ của công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể bổ sung thêm một số vấn đề lí luận về công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em vào những vấn đề lí luận của chung của công tác xã hội với trẻ em. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đã phân tích và chỉ ra được thực trạng lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, thực trạng công tác xã hội đối với phòng ngừa lao động trẻ em. Kết quả nghiên cứu của luận văn là bằng chứng khoa học quan trọng cho các cơ quan hữu quan trong việc áp dụng nhiều biện pháp trong thực hành công tác xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả việc phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em; đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế hiện tại để đáp ứng yêu cầu về phòng ngừa từ xa cho mọi đối tượng trẻ em. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương: - Chương 1. Cơ sở lý luận về công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em. - Chương 2. Thực trạng công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc. - Chương 3. Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với phòng ngừa sử dụng lao động trẻ em tại tỉnh Vĩnh Phúc. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM 1.1. Sử dụng lao động trẻ em 1.1.1. Lao động trẻ em 1.1.1.1. Khái niệm trẻ em Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi” [17]. Tại Việt Nam, căn cứ vào những điều kiện, đặc điểm của con người Việt Nam, luật của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 25/2004/QH11 ngày 15/6/2004 về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (BVCSTE) quy định: “trẻ em là những công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [25]. * Công ước về quyền trẻ em: là luật Quốc tế để bảo vệ Quyền trẻ em bao gồm 54 điều khoản. Công ước đề ra các Quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên toàn Thế giới đều được hưởng và được Liên hiệp quốc thông qua năm 1989. Công ước đã được hầu hết các nước trên thế giới đồng tình và phê chuẩn. Việt Nam là nước đầu tiên ở Đông Nam Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em. Trong đó nêu lên bốn nhóm quyền chính của trẻ em là : - Quyền được sống còn - Quyền được bảo vệ - Quyền được phát triển - Quyền được tham gia Việc phân chia bốn nhóm quyền này chỉ mang ý nghĩa tương đối, trên thực tế các nhóm quyền này có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau[17]. 1.1.1.2.Khái niệm lao động trẻ em Hiện tại chưa có một định nghĩa thống nhất về lao động trẻ em (LĐTE), nhưng ở cấp độ chung thì LĐTE được hiểu là: bất cứ trẻ em làm công việc nào có tính chất bóc lột và gây ra tổn hại về thể chất, tâm lí, tình cảm, đạo đức,... cho trẻ em. 7 Ở phạm vi quốc tế, không có định nghĩa chung nào về lao động trẻ em (child labour). Thay vào đó, thuật ngữ LĐTE thường được hiểu là bất kì công việc nào gây tổn hại cho trẻ em mà được nêu ra trong Công ước 138, 182 của tổ chức Lao động quốc tế ILO. [25] Các tiêu chuẩn của ILO về độ tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc hoặc lao động không quy định một độ tuổi tối thiểu, duy nhất mà với 3 độ tuổi tối thiểu khác nhau phụ thuộc vào bản chất của việc làm hoặc công việc được thực hiện. Những độ tuổi này được thiết lập theo nguyên tắc không thấp hơn độ tuổi hoàn thành giáo dục bắt buộc trong mọi trường hợp, có nghĩa là không thấp hơn 15 đối với độ tuổi tối thiểu chung, 13 đối với công việc nhẹ nhàng, (16 tuổi với những điều kiện nhất định) và 18 đối với công việc độc hại. Theo quan niệm của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), trẻ em bị coi là lao động trẻ em nếu trẻ em phải lao động trong những trường hợp sau: - Lao động khi còn quá bé, công việc trọn thời gian; - Làm quá nhiều giờ, cường độ cao ảnh hưởng đến việc học hành, vui chơi, giải trí; - Lao động và sống trên đường phố trong những hoàn cảnh tồi tệ; - Quá căng thẳng ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, tinh thần và tâm lí; - Thù lao không tương ứng với công sức bỏ ra; - Ảnh hưởng đến nhân phẩm như làm nô lệ, gán nợ, mại dâm, đi ăn xin; - Làm công việc hay gánh vác trách nhiệm của người lớn [28] Ở Việt Nam chưa có khái niệm thống nhất về lao động trẻ em. Tuy nhiên, quan điểm của Việt Nam phù hợp với quan điểm của các tổ chức quốc tế về lao động trẻ em. Những quy định tại Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua năm 2012 về cơ bản phù hợp với những điều ước quốc tế về lao động trẻ em, quy định ở độ tuổi lao động tối thiểu là 15, với những công việc nặng nhọc, độc hại là 18. Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ Lao động- Thương binh & Xã hội (LĐTBXH) 8 quy định. Không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi làm việc, trừ một số công việc cụ thể do Bộ Lao động-TB&XH quy định (Điều 163, 164) [27]. Bộ Luật lao động cũng quy định: Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi và người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách… và không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ, theo danh mục của Bộ Lao động-TB&XH chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành (quy định chi tiết tại Điều 165) [8]. Tuy nhiên Luật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Theo đó, lao động trẻ em có thể hiểu là người lao động dưới 16 tuổi. Như vậy, có sự bất cập về độ tuổi trẻ em giữa Luật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em với độ tuổi lao động chưa thành niên của Bộ Luật lao động. Như vậy có thể thấy, cùng một nhóm đối tượng dưới 16 tuổi trong hai văn bản luật lại được gọi khác nhau (lao động trẻ em và lao động chưa thành niên). Vì vậy để hài hòa giữa luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam, trong nghiên cứu đề tài này, đối tượng nghiên cứu chỉ giới hạn về lao động trẻ em được xác định là lao động của người dưới 16 tuổi, phải làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Từ việc phân tích các khái niệm nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm như sau: Lao động trẻ em là chỉ những người dưới 16 tuổi phải làm những công việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, lao động trong điều kiện bị cưỡng bức, bóc lột sức lao động hoặc làm quá nhiều thời gian so với độ tuổi của trẻ em; việc lao động này gây ảnh hưởng tới việc phát triển về thể chất, tâm lí, tình cảm, nhận thức, đạo đức và xã hội của trẻ em. Để xác định là trẻ em tham gia lao động hay lao động trẻ em có thể căn cứ vào các nhóm yếu tố đó là: tính chất công việc ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em; điều kiện làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; độ tuổi và thời gian làm việc tương ứng với độ tuổi [25]. 9 1.1.1.3.Các hình thức lao động trẻ em Tổ chức lao động quốc tế ( ILO) không đưa một khái niệm cụ thể về các hình thức lao động trẻ em, mà chỉ xác định các hình thức lao động trẻ em nói chung gồm: - Trẻ em trực tiếp hoặc gián tiếp làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; - Trẻ em làm việc ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực, trí tuệ, tinh thần, đao đức và xã hội của trẻ; - Trẻ em làm việc quá nhiều thời gian ở độ tuổi quá nhỏ, không có thời gian cần thiết để học tập, vui chơi Tuy nhiên ILO lại chỉ ra các hình thức lao động trẻ em tồi tệ. Theo Công ước 182 của ILO xác định rõ hình thức lao động trẻ em tồi tệ, những hình thức này đôi khi cũng được dùng để chỉ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ vô thức, các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất có thể kể đến: - Tất cả những hình thức nô lệ hay những tập tục giống như nô lệ, như buôn bán trẻ em, giam cầm thiếu nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng ép, hay bắt buộc để sử dụng trong các cuộc xung đột vũ trang. - Việc sử dụng ma túy hay chào mời trẻ em cho các mục đích mại dâm, cho việc sản xuất sách báo hay các chương trình khiêu dâm. - Việc sử dụng ma túy hay mời chào trẻ em cho các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt cho việc sản xuất và buôn lậu ma túy như đã được định nghĩa trong các hiệp ước quốc tế liên quan. - Những công việc có khả năng làm hại đến sức khỏe, sự an toàn hay đạo đức của trẻ em, do bản chất của công việc hay do hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc. Bảng 1.1. Phân biệt công việc của trẻ em TT 1 Tiêu chí Có thể chấp nhận được Tính chất công việc Không thể chấp nhận được Quá nặng nhọc hoặc phức tạp so Phù hợp với độ tuổi và khả năng với khả năng thể chất và tinh thần thể chất,tinh thần của trẻ của trẻ Không lương thiện hoặc bất hợp Lương thiện, hợp pháp, có ích pháp, xâm phạm an ninh, trật tự cho bản thân, gia đình và xã hội hoặc đạo đức xã hội 10 2 3 Điều kiện và môi trường làm việc Được người lớn kèm cặp, giúp đỡ trong quá trình làm việc Thời gian làm việc ngắn, không ảnh hưởng đến thời gian học tập, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí Điều kiện làm việc an toàn, môi trường làm việc không độc hại, ô nhiễm Môi trường xã hội ở nơi làm việc lành mạnh, không ảnh hưởng đến sự phát triển về tinh thần, đạo đức, xã hội Được bù đắp thích đáng về vật chất và tinh thần Làm việc trên cơ sở tự nguyện, nhằm rèn luyện bản thân và giúp đỡ gia đình Bị người lớn giám sát, kìm kẹp hoặc khống chế trong quá trình làm việc Trong thời gian làm việc dài nên thiếu hoặc không có thời gian học tập, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí Điều kiện làm việc nguy hiểm, môi trường làm việc độc hại, ô nhiễm Môi trường xã hội ở nơi làm việc không lành mạnh, dễ bị lạm dụng thể xác, tình cảm hoặc tha hóa về đạo đức, tinh thần Không được động viên và trả công thích đáng Làm việc do bị người khác hoặc hoàn cảnh bắt buộc, nhằm kiếm sống cho mình hoặc gia đình Tâm lý, hoàn cảnh & mức độ Tham gia làm việc ở độ tuổi Phải làm việc quá sớm, ở độ tuổi trường thích hợp theo quy định của quá nhỏ, thấp hơn tuổi lao động tối thành pháp luật thiểu trong pháp luật của trẻ (Nguồn: Vũ Ngọc Bình (2002) Vấn đề lao động trẻ em) [36] 1.1.1.4.Phân biệt trẻ em tham gia lao động với lao động trẻ em Không phải trẻ em nào tham gia làm việc cũng được coi là lao động trẻ em. Mặc dù hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất nào về lao động trẻ em, nhưng hầu hết các cách tiếp cận đều thống nhất rằng các tiêu chí chính để phân biệt giữa LĐTE và trẻ em tham gia lao động chính là tính chất công việc dẫn đến việc ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của trẻ, như: thời gian làm việc của trẻ, độ tuổi và điều kiện làm việc có nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hay không. Trên thực tế, trẻ em tham gia lao động là khái niệm để chỉ sự tham gia không mang tính chất bóc lột của trẻ em vào các hoạt động kinh tế, không gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em và pháp luật quốc gia không cấm. Trong khi khái niệm “lao động trẻ em” được hiểu rộng rãi với ý nghĩa là sự lạm dụng, mang tính chất bóc lột sức lao động của trẻ em vì mục đích lợi nhuận. 11 Bảng 1.2. Phân biệt trẻ em tham gia lao động và lao động trẻ em Trẻ tham gia lao động Lao động trẻ em Công việc phù hợp với tuổi, khả năng thể Công việc nặng nhọc quá sức đối với chất và trí tuệ của trẻ em tuổi và khả năng của trẻ em. Được người lớn chăm sóc và chịu trách Trẻ em lao động dưới sự giám sát của nhiệm giám sát người sử dụng lao động Thời gian làm việc hạn chế, không cản trở trẻ em đến trường, vui chơi và nghỉ ngơi Làm việc nhiều giờ, trẻ em bị hạn chế hoặc không có thời gian đi học, vui chơi và nghỉ ngơi Nơi làm việc an toàn và môi trường bạn bè thân thiện, không độc hại với sức khỏe và cuộc sống trẻ em Môi trường làm việc góp phần nuôi dưỡng và phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ và tinh thần của trẻ em Nơi làm việc độc hại đến sức khỏe và cuộc sống của trẻ em Trẻ em có nguy cơ cao bị ngược đãi, xâm hại tình dục, bạo lực và bóc lột Trẻ em làm việc tự nguyện để duy trì công việc và phát triển sản suất, tăng thu nhập Hoàn cảnh bắt buộc hay trẻ em phải lao cho gia đình hoặc ngay cả khi là người động cùng với những người khác kiếm sống chính trong gia đình Trẻ em bị hạn chế hoặc không được Trẻ em được bù đắp về tinh thần và vật chất khuyến khích về tinh thần và vật chất Công việc của trẻ em như một phương tiện cho sự tiến bộ xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống của trẻ em Công việc trẻ em làm không nằm trong phạm vi luật pháp cho phép Những công việc trẻ làm phục vụ các mục Công việc trẻ em làm bị sử dụng cho đích nhân văn hợp pháp mục đích bóc lột hoặc bất hợp pháp (Nguồn: Nguyễn Hải Hữu (2012), Sơ đồ nhận dạng trẻ em) [18] 1.1.1.5. Nguyên nhân dẫn đến lao động trẻ em Sự lạm dụng lao động trẻ em xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân cơ bản dưới đây: 12 Một là, độ tuổi trẻ em trong luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa thống nhất với quy định về của lao động chưa thành niên trong Bộ luật lao động và độ tuổi trẻ em theo quy định của tổ chức ILO vì vậy các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong việc theo dõi, kiểm soát, thống kê và đánh giá, xử lý các vi phạm về lao động trẻ em. Hai là, hệ thống pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể quản lý trong việc phòng ngừa, xóa bỏ lao động trẻ em; còn thiếu những quy định cụ thể về cơ chế phát hiện, tố giác, xử lý vi phạm lao động trẻ em. Ba là, việc xử lý những trường hợp lạm dụng lao động trẻ em còn nhẹ, chủ yếu mới dừng lại ở mức xử phạt hành chính, rất ít vụ bị xử lý hình sự do vi phạm pháp luật lao động trẻ em. Chính quyền địa phương chậm và bị động trong phát hiện và xử lý những trường hợp sử dụng lao động trẻ em, chỉ những vụ việc xảy ra hậu quả nghiêm trọng mới được bị phát hiện và xử phạt. Bốn là, các cơ quan chức năng còn gặp khó khăn trong việc xử lý những cơ sở sử dụng lao động trẻ em vì người sử dụng lao động không xuất trình được giấy tờ tùy thân của lao động trẻ em, nên chỉ căn cứ vào lời khai của các bên liên quan để xác định độ tuổi của các em. Tuy nhiên độ tuổi thường được khai tăng lên trên 15 tuổi vì vậy không đủ căn cứ để xử lý. Năm là, do nhận thức và hiểu biết pháp luật về lao động trẻ em của gia đình, cộng đồng, người sử dụng lao động còn hạn chế dẫn đến vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em, như: Gia đình khó khăn về kinh tế nên cho con nghỉ học để đi làm, trẻ em học kém nên bỏ học đi làm, người sử dụng lao động vì lợi nhuận nên lạm dụng lao động trẻ em. Nhiều gia đình quan niệm rằng sự tham gia của trẻ em trong công việc gia đình được coi là một phần của quá trình xã hội hóa, trẻ em cần phải lao động mới có thể phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách. Sáu là, trẻ em là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần vì vậy khi tham gia lao động thường dễ sai bảo, ít có sự phản kháng hay tự vệ. Mặt khác, tiền công trả cho người lao động là trẻ em thường thấp nên người sử dụng lao động đương nhiên ưu tiên lựa chọn lao động trẻ em. 13 Bảng 1.3. Nguyên nhân dẫn đến lao động trẻ em Nguyên nhân bên trong Nguyên nhân bên ngoài - Hoàn cảnh gia đình khó khăn - Gia đình thuộc về một nhóm thiểu số + Gia đình chỉ có cha hoặc mẹ nhất định. + Gia đình có cha hoặc mẹ bị bệnh hoặc - Trẻ em chịu ảnh hưởng tiêu cực của không có khả năng làm việc. các bạn đồng trang lứa; cha mẹ/trẻ em + Gia đình mất kiểm soát. có nhiều tham vọng về vật chất. + Gia đình không được trợ cấp hoặc bảo - Tác động của khủng hoảng kinh tế, trợ xã hội. chính trị, xã hội. - Gia đình nghèo đói. - Ảnh hưởng của HIV/AIDS, bệnh - Trình độ học vấn của bố mẹ (hoặc con dịch. cái) thấp, thiếu kỹ năng làm cha mẹ. - Yếu tố về chính sách, pháp luật 1.1.1.6. Hậu quả của lao động trẻ em - Tác động tiêu cực của lao động trẻ em đến quốc gia Lao động trẻ em thường có ở những quốc gia có nền kinh tế kém phát triển và khoa học kĩ thuật còn lạc hậu. Chính tình trạng nghèo đói, thất nghiệp, thất học, thu nhập thấp và tỉ lệ sinh sản cao ở nhiều quốc gia đã đẩy trẻ em vào việc tham gia lao động trước độ tuổi cho phép. Lao động trẻ em thường là lao động của những trẻ em không có văn hóa đầy đủ, thiếu kiến thức, còn non nớt về thể chất và tinh thần, không qua đào tạo và thiếu những kĩ năng nghề nghiệp chuyên môn cần thiết để giúp các em có một nghề ổn định và có thu nhập cao khi trưởng thành. Lao động trẻ em có thể xem là một hiện tượng của sự không ổn định về kinh tế. Từ đó sẽ tạo ra những trở ngại lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia như: mất ổn định về an ninh kinh tế, về trật tự xã hội, ảnh hưởng tới sự hoạt động thương mại quốc tế trong trường hợp trẻ em tham gia sản xuất hàng hóa xuất khẩu, vì cộng đồng quốc tế không khuyến khích trẻ em lao động. Các em thiếu hiểu biết và nhận thức xã hội sẽ hình thành những con người lao động trong tương lai thiếu sự phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần và xã hội. Lao động trẻ em sẽ có ảnh hưởng tiêu 14 cực đến chất lượng nguồn nhân lực của một quốc gia khiến cho năng lực cạnh tranh của quốc gia đó giảm sút khi tham gia vào thị trường thế giới. - Tác động tiêu cực đối với gia đình và xã hội Lao động trẻ em sẽ gây ra những hậu quả bất lợi trước mắt và lâu dài cho sự phát triển của mỗi gia đình và toàn xã hội. Nếu tình trạng này diễn ra khá phổ biến thì không chỉ là sự thiệt thòi lớn đối với bản thân và gia đình các em còn là nguy cơ đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và cả cộng đồng. Các nhà nghiên cứu đã cảnh báo rằng, một quốc gia không ngăn chặn và xóa bỏ được tình trạng lao động trẻ em sẽ không có một lực lượng lao động khỏe mạnh và lành nghề để có một nền kinh tế có thế cạnh tranh. Đối với cộng đồng quốc tế, nếu không ngăn chặn và xóa bỏ được tình trạng lao động trẻ em thì sẽ lâm vào khủng hoảng thị trường lao động chất lượng cao, đây đang là một nghịch lý cần sớm được giải quyết. - Tác động tiêu cực của lao động trẻ em đến bản thân trẻ em: Tác động về thể chất: Do còn non nớt về thể chất và tinh thần, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp, sức khỏe và sự dẻo dai còn hạn chế, trẻ em dễ bị tổn thương và gặp nhiều rủi ro về thể chất hơn người lớn khi làm việc. Tuy nhiên phần lớn các trường hợp, những trẻ em này không được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe một cách tương xứng. Tác động tâm lý: Trong một số trường hợp, hậu quả tâm lý gây ra cho lao động trẻ em có thể bao gồm chậm phát triển trí tuệ, thiếu tự tin, khó hòa nhập xã hội; gặp khó khăn trong việc tạo lập các mối quan hệ, suy giảm lòng tự tin; thái độ bạo lực hoặc tâm trạng trầm cảm, lo lắng, thậm chí có ý định tự hủy hoại bản thân... Tác động về nhận thức: Trong nhiều trường hợp, khả năng nhận thức của trẻ em bị ảnh hưởng do công việc mà trẻ phải làm, ví dụ như suy giảm năng lực nhận thức, giao tiếp và thực hành – những yếu tố cốt yếu để thích nghi xã hội và có cuộc sống tốt đẹp. Tác động về giáo dục: Lao động nặng nhọc hoặc nhiều thời gian khiến trẻ em phải bỏ học sớm hoặc giảm khả năng tiếp thu trong quá trình học tập. Tuy nhiên, phổ biến là lao động tước đi của trẻ em thời gian cần thiết cho việc học tập, và vì 15 vậy thành tích học tập của các em sút giảm, kỹ năng học tập yếu, bị thụt lùi so với bạn bè, bị bỏ mặc hoặc gặp khó khăn khi hòa nhập với bạn học. Tác động về kinh tế - xã hội: Lao động trẻ em ảnh hưởng tiêu cực đến việc nắm bắt các cơ hội kinh tế- xã hội của trẻ về sau. Nói cách khác, lao động trẻ em tước đoạt cơ hội của trẻ thoát khỏi vòng đói nghèo do trước đó nó đã tước đoạt cơ hội của trẻ học tập. Ngoài ra, trẻ em còn có thể gặp phải những rủi ro khi tham gia lao động: - Thể lực, sức khỏe kém, mắc bệnh nghề nghiệp. - Bỏ học và nguy cơ bỏ học cao, học vấn thấp, tay nghề thấp, vậy là lại luẩn quẩn trong vòng nghèo đói. - Bị kỳ thị, coi thường. - Nguy cơ cao bị ngược đãi, bạo lực, xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động. - Nguy cơ cao mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. - Nguy cơ lệch chuẩn, xa rời các chuẩn mực đạo đức xã hội. Chính vì những tác động tiêu cực của lao động trẻ em đối với quốc gia, gia đình và bản thân trẻ nên cần thiết phải có những biện pháp can thiệp sớm nhằm ngăn ngừa và giải quyết lao động trẻ em, đó chính vai trò quản lý nhà nước về phòng, chống sử dụng lao động trẻ em. 1.1.2. Sử dụng lao động trẻ em 1.1.2.1. Khái niệm sử dụng lao động trẻ em “Sử dụng lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những người dưới 16 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia làm những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập và vui chơi”. (Nguồn: Phạm Thị Lan Phương/ Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 4 (2014) tr58-64 [23]). Khái niệm “Sử dụng lao động trẻ em” theo nghĩa rộng là việc chấp nhận, yêu cầu hoặc bắt buộc trẻ em tham gia lao động, có thể bao hàm cả công việc trẻ em tham gia phụ giúp các công việc gia đình, những hoạt động mang tính phi lợi nhuận 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan