Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Lớp 10 Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh khi vận dụng phương pháp dạy học the...

Tài liệu Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh khi vận dụng phương pháp dạy học theo dự án vào dạy học chương “các định luật bảo toàn” vật lý 10”

.DOCX
100
782
113

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU TRƯỜNG THPT NGUYỄN VĂN CỪ BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN Cấp cơ sở phục vụ thi đua khen thưởng năm 2016 Giải pháp: “ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CHO HỌC SINH KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VÀO DẠY HỌC CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” - VẬT LÝ 10” TÁC GIẢ SÁNG KIẾN: Hoàng Thị Nguyên – Cử nhân, Giáo viên Châu Đức, 2016 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CNTT : Công nghệ thông tin HS : Học sinh GV : Giáo viên PGS.TS : Phó giáo sư, tiến sĩ PPDH : Phương pháp dạy học PP DHTDA : Phương pháp dạy học theo dự án SGK : Sách giáo khoa THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông Chương 1 CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp Như chúng ta thấy, giáo dục truyền thống vẫn là một phương pháp đang được dạy và học trong thời đại ngày nay. Việc học tập của học sinh không thể là thụ động tiếp thu bài giảng của giáo viên mà phải là sự tham gia tích cực vào hoạt động học tập để tạo một tâm thế có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất và xã hội sau này. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, ta thấy rằng giáo dục hiện đại đang đứng trước yêu cầu và thách thức lớn lao của xã hội. Việc làm sao để có thể cải tạo phương pháp truyền thống trở thành một phương pháp mới hiệu quả có tác dụng tốt trong quá trình dạy học đã và đang được rất nhiều nhà giáo dục quan tâm. Để làm được điều này chúng ta cần phải đổi mới toàn diện các nhiệm vụ dạy học: nội dung, phương tiện, phương pháp… Một phương pháp có thể làm được điều đó, có thể nói đến là dạy học theo dự án. Đây là phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, chính vì vậy nó sẽ làm cho học sinh tham gia tích cực vào bài học, làm thay đổi vai trò của giáo viên và học sinh. Giáo viên giờ đây chỉ là người hướng dẫn giúp cho học sinh tự tìm ra tri thức cho mình. Chính vì vậy, Tôi quyết định nghiên cứu phương pháp này. Đặc biệt, vận dụng nó thế nào vào dạy học các kiến thức vật lý chương “Các định luật bảo toàn”. Đó chính là nội dung của đề tài: “PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CHO HỌC SINH KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VÀO DẠY HỌC CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” - VẬT LÝ 10” 1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan Khi bàn về phương pháp giáo dục, J. Piaget (1896-1980) một nhà tâm lý học người Pháp nổi tiếng đã nói: “Trẻ em được phú cho tính hoạt động thực sự và giáo dục không thể thành công nếu không sử dụng và không thực sự kéo dài tính hoạt động đó” Như vậy, hoạt động là yếu tố không thể thiếu cho sự phát triển của trẻ trong quá trình giáo dục và giáo dưỡng. Thuyết hoạt động cũng đề cập: để cho HS phát triển toàn diện thì phải cho chúng hoạt động. Chúng ta nhận thấy rằng để cho HS có thể hoạt động học tập tự lực, sáng tạo thì cần phải tổ chức, định hướng, tạo điều kiện cho HS tự giải quyết các vấn đề, tự lực suy nghĩ, đề xuất các phương án, và đưa ra kiến thức mới,… Dạy học theo dự án là phương pháp đáp ứng được điều này. Có thể nói, việc ứng dụng phương pháp này đã được thực hiện khá phổ biến trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam chỉ mới bắt đầu trong những năm gần đây, phương pháp này đã được bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với công ty Intel Việt Nam triển khai thí điểm tại nhiều trường học trên cả nước theo chương trình Dạy học cho tương lai của Intel (Intel Teach to the Future). Trong những năm gần đây, các giảng viên ở các trường ĐHSP Thành Phố Hồ Chí Minh, ĐHSP Hà Nội đã giảng cho sinh viên về mô hình dạy học dự án và tổ chức thực hiện dạy học dự án cho đối tượng sinh viên, thu hút được sự tham gia tích cực, khơi dậy lòng say mê, hứng thú của người học. Ngày 26/03/2005, Sở GD-ĐT TPHCM đã tổ chức hội thảo về mô hình dạy học dự án tại trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai - nơi mô hình dạy học này được triển khai mạnh mẽ nhất. Ở các trường đại học chủ yếu là trường Sư phạm đã có những lớp học tập huấn dành cho GV và sinh viên tiếp cận với PP DHTDA. Chẳng hạn như ở trường ĐHSP Thành Phố Hồ Chí Minh, có lớp tập huấn giành cho các giảng viên ở các khoa, còn đối với sinh viên thì cũng có triển khai và áp dụng học ở một số khoa như khoa Sinh, khoa Toán, khoa Sử… Ở trường phổ thông các cấp, trong những năm gần đây thì GV cũng được tập huấn và triển khai thí điểm ở một vài trường. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác và một số học viên cao học đã vận dụng quan điểm của dạy học dự án vào tổ chức dạy học ở một số trường tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội…bước đầu đã thu được nhiều thành công trong việc đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, tự chủ của người học, lôi cuốn người học vào thực hiện dự án học tập một cách tự giác. Những công trình nghiên cứu liên quan tới dạy học theo dự án ở Việt Nam như: “Project-Based Learning (PBL) và việc ứng dụng vào dạy học môn Vật lý ở trường phổ thông Việt Nam trong tương lai” của tác giả Hồ Thanh Liêm, luận văn tốt nghiệp ĐH tháng 6/2005 ĐHSP Thành Phố Hồ Chí Minh, trong đó đã tổ chức soạn thảo dạy học dự án chương “Dòng điện trong các môi trường” thuộc chương trình Vật lý lớp 11 nhưng chưa tiến hành thực nghiệm sư phạm. Bài viết “Dạy học theo dự án – một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên” của Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Diệu Thảo (2004), đề tài “Những định luật cơ bản của dòng điện không đổi” cho HS lớp 11 theo quan điểm dạy học dự án của Nguyễn Văn Nghĩa (2006), đề tài “Tổ chức dạy học theo dự án một số nội dung kết thúc chương “Sự bảo toàn và chuyển hóa năng lượng” theo Sách giáo khoa Vật lí lớp 9 nhằm phát triển hoạt động nhận thức tích cực, tự chủ của HS trong học tập” của Trần Thúy Hằng (2006).... 1.3. Mục đích Vận dụng PPDHDA vào dạy chương “Các định luật bảo toàn” nhằm phát huy tính tích cực học tập, nâng cao hiệu quả dạy và học vật lý cho HS trong trường THPT Nguyễn Văn Cừ. 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng Quá trình dạy học vật lý ở trường phổ thông: nội dung, kiến thức… Hoạt động dạy và học vật lý của giáo viên và học sinh ở trường THPT Nguyễn Văn Cừ. 1.3.2. Phạm vi Quá trình dạy học vật lý chương “Các định luật bảo toàn” lớp 10 1.5. Giả thiết nghiên cứu Nếu vận dụng mô hình dạy học dự án một cách thích hợp vào dạy học ở chương “Các định luật bảo toàn” thì sẽ phát huy tính tích cực học tập và nâng cao hiệu quả dạy và học vật lý cho HS trong trường THPT Nguyễn Văn Cừ 1.6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu lý thuyết về khái niệm dự án và PPDHDA - Ứng dụng nó vào trong dạy học vật lý. Nghiên cứu về thực trạng sử dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học vật lý ở trường phổ thông. - Nghiên cứu xây dựng các quy trình vận dụng PPDHDA vào dạy học vật lý. - Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa vật lý phần định luật bảo toàn. Thiết kế phương án dạy học chương “Các định luật bảo toàn” theo PPDHDA. Thực nghiệm sư phạm đối với phương án đã xây dựng cho phương pháp này. 1.7. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận: + Các tài liệu, công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu. + Tìm hiểu về phương pháp dạy học dự án này bằng lý thuyết từ đó rút ra những phương pháp chung để nghiên cứu - Thực nghiêm sư phạm: Thực hiện các bài dạy đã thiết kế, so sánh với lớp đối chứng để rút ra những cần thiết, chỉnh lý thiết kế đề xuất hướng áp dụng vào thực tiễn, mở rộng kết quả nghiên cứu. Chương 2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP 2.1. Quá trình hình thành Để hiểu rõ những đặc trưng và sự tiến bộ của phương pháp dạy học dự án, ta hãy xem bảng so sánh nó với phương pháp dạy học truyền thống: Bảng 2.1: So sánh PPDH truyền thống và PP DHTDA Phương pháp dạy học truyền thống Phương pháp dạy học theo dự án Chương trình học - Là vấn đề (nếu có) nảy sinh từ chương trình học, nhiều khi không hấp dẫn, không thiết thực với người học, vấn đề mang tính lý thuyết không gắn với thực tế. Soạn thảo bài trước theo một chương trình và một khuôn mẩu định sẵn. - Một vấn đề gần gũi với cuộc sống. Mỗi dự án đưa ra một vấn đề cần được giải quyết để đưa đến một kết quả. - Tuyến tính, duy lí - Dạy học là truyền thụ - Học tập là tiếp thu - Mạnh lạc, phù hợp - Môi trường kết cấu - Dạy học là tạo điều kiện - Học tập là tìm hiểu, đi đến kiến thức - Môi trường linh động Vai trò của giáo viên - Chủ đạo (người truyền thụ) - Như một nhà tư vấn, một học viên cộng tác. - Hướng dẫn suy nghĩ - Đưa ra dự án,đặt câu hỏi, hướng dẫn, giúp học sinh hoàn thành sản phẩm - Nắm giữ và truyền thụ kiến thức - Cung cấp tài liệu cần thiết, giám sát việc học, chia sẽ thông tin - Quản lý học sinh trong giờ học - Theo dõi quá trình học tập, quản lý hoạt động nhóm, quản lý quá trình học tập - Đánh giá quá trình học tập của từng nhóm - Đánh giá việc học Vai trò của học sinh - Là người tiếp thu - Là người tham gia + Không chủ động + Không bị động + Thụ động theo sự hướng dẫn của giáo viên và đi theo kết cấu bài học trong sách giáo khoa + Chủ động trong việc tham gia quyết định và tự quyết định các giai đoạn của quá trình + Tái tạo kiến thức, thu nhận và kiểm nghiệm thông qua những ví dụ do giáo viên đưa ra hoặc gợi ý trong sách giáo khoa. + Tự tìm ra kiến thức. Sau đó thể hiện thành quả của mình và kiểm nghiệm thành quả thông qua đánh giá của giáo viên. Vai trò của thông tin Được tổ chức và giới thiệu của người dạy Vô cùng quan trọng, cung cấp cho học sinh, giúp hoàn thành sản phẩm. Từ sự so sánh trên ta thấy được rằng, nếu chúng ta biết cách tổ chức và vận dụng phương pháp này một cách thích hợp thì sẽ phát huy hiệu quả của nó. Như chúng ta thấy, hiện nay nhu cầu của con người ngày càng tăng, khả năng tiếp cận tri thức rất cao. Do đó, CNTT là một phương tiện hữu ích trong việc vận dụng tìm kiếm thông tin cho quá trình dạy và học. Nhiều người đã nói, chỉ cần cho tôi một chiếc máy tính, tôi có thể biết được tất cả mọi thông tin cần thiết. Chính vì thế, khi HS sử dụng CNTT để làm bài tập thì cập nhật được các thông tin mới nhất, tìm hiểu được nhiều thông tin đa chiều thông qua internet, thấy được nhiều hình ảnh trực quan sinh động, đẹp mắt và có tính thực tế, cập nhật, từ đó có thể hiểu một cách sâu sắc bài học và đặc biệt là những kiến thức thu được không xa rời hiện thực. Lúc đó, GV không phải cung cấp thông tin mà chỉ là người hướng dẫn các em tìm kiếm thông tin, lắng nghe, chắt lọc, chốt lại và hướng các em tới kiến thức mà các em cần nắm được. Tuy nhiên, nhiệm vụ đặt ra cho GV là định hướng giúp cho HS có cái nhìn đúng đắn khi tiếp cận thông tin trong thời đại ngày nay. Dạy học dự án là phương pháp giúp cho HS tiếp cận kiến thức thông qua sự hướng dẫn của GV. Do đó, các em phải tìm kiếm các dữ kiện liên quan đến kiến thức, nhu cầu phải tiếp cận với CNTT từ trong quá trình này các em sẽ tự nhận ra kiến thức cho mình. Thứ hai là khi hoàn thành sản phẩm, HS phải báo cáo trước lớp bằng các hình thức như là thuyết trình PowerPoint, một Pulisher hay một trang Web, một trang Blog, cho mọi người đến thăm, chính điều này sẽ phát huy được năng của từng em, tạo một tâm thế cho các em mạnh dạn hơn khi giao tiếp ngoài xã hội sau này. ð Dựa vào sự so sánh với dạy học truyền thống thì mô hình này cũng thể hiện những ưu điểm. Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án: - Giúp HS hình thành và phát các kĩ năng cần thiết trong thời đại ngày nay như kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm… - Giúp HS chuyển: + Từ nghiên cứu lí thuyết sang vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn. + Từ hình thức học tập thụ động sang hình thức học tập chủ động có định hướng. + Từ hình thức thụ đông ghi nhớ, lặp lại sang khám phá, tích hợp và trình bày + Từ kiến thức đơn thuần về sự kiện, thuật ngữ, nội dung sang hiểu rõ quá trình. + Từ phụ thuộc vào giáo viên sang chủ động tổ chức - Là hình thức dạy học phù hợp với mục tiêu giáo dục theo quan điểm của UNESCO: học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự hoàn thiện. - Là hoạt đông học tập không chỉ giới hạn trong một bộ môn mà liên quan đến nhiều bộ môn khác nhau, do đó, tạo nên mối liên hệ liên môn. ð Có thể nói rằng, trong phương pháp này, GV là người hướng dẫn cho HS tìm ra tri thức của mình. Vì vậy, chính HS là người phải tìm hiểu vấn đề mà mình hướng đến. Mặt khác, dự án là một vấn đề gắn liền với thực tiễn và phải kích thích hứng thú của HS, do đó, nó sẽ kích thích sự tìm hiểu của HS, chính điều này giúp cho học sinh hình thành nhiều kĩ năng: tìm kiếm thông tin, đọc tài liệu…. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện dự án, HS sẽ phải gặp nhiều tình huống vấn đề, những tình huống này sẽ giúp cho HS giải quyết vấn đề, vì thế phải tư duy, lập luận, phân tích, tổng hợp, chọn lọc thông tin… đây là những kĩ năng rất cần cho mỗi con người khi bước vào cuộc sống sau này. Trong mỗi lần giải quyết, HS sẽ bật ra những ý tưởng mới sáng tạo hơn. Cuối cùng cho ra đời sản phẩm – một sự sáng tạo của cả một tập thể. 2.2. Nội dung giải pháp 2.2.1. Cơ sở lý luận Dạy học theo dự án (Project based learning) được hiểu như là một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó người học giữ vai trò trung tâm thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của dạy học dự án, có ứng dụng CNTT, dưới dự hướng dẫn, hỗ trợ, cộng tác của giáo viên. Học sinh lĩnh hội kiến thức và kĩ năng thông qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống gắn với thực tiễn – dự án. Kết thúc dự án sẽ cho ra sản phẩm. Quan điểm DH là những định hướng tổng thể cho các hoạt động DH, trong đó, có sự kết hợp giữa các nguyên tắc DH làm nền tảng, những cơ sở lí thuyết của lí luận DH, những điều kiện DH và tổ chức cũng như các định hướng về vai trò của GV và HS trong quá trình DH. Ba quan điểm của DHDA là: - Quan điểm DH hướng vào người học: HS là trung tâm của quá trình dạy học. HS tự mình tìm ra kiến thức, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, tự kiểm tra đánh giá và điều chỉnh hoạt động nhận thức. - Quan điểm DH định hướng hành động: Dạy học định hướng hành động dựa trên lí thuyết hành động nhận thức, lí thuyết hoạt động. Cơ sở của lí thuyết là trong quá trình nhận thức cần có sự kết hợp giữa tư duy và hành động, lí thuyết và thực tiễn. Quan điểm dạy học này cũng dựa trên lí thuyết kiến tạo, thông qua hành động tự lực, HS tự lĩnh hội và kiến tạo tri thức. Việc tổ chức quá trình DH được chi phối bởi những sản phẩm hành động đã được thỏa thuận giữa GV và HS. - Quan điểm DH tích hợp: Tích hợp (integration) có ý nghĩa là sự hợp nhất, sự hòa nhập, sự kết hợp. Tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên kết với nhau và liên hệ mật thiết với nhau là tính liên kết và tính toàn vẹn. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất. Như vậy, cũng như các PPDH tích cực khác, dạy học dự án thực chất là một quá trình: - Biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục. HS tự lực nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, tức là cá nhân hóa việc học. - HS cộng tác với các HS khác trong nhóm, trong lớp làm cho kiến thức mà cá nhân tự tìm ra mang tính xã hội, khách quan hơn, tức là xã hội hóa việc học. - GV là người hướng dẫn, tổ chức quá trình cá nhân hóa việc học và xã hội hóa việc học. Mục tiêu dạy học theo dự án: Ø Về kiến thức Hướng tới các vấn đề thực tiễn, gắn kết nội dung bài học với thực tế. Ø Về kĩ năng - Phát triển cho học sinh kĩ năng: + Phát hiện và giải quyết vấn đề + Tư duy bậc cao (phân tích, tổng hợp, đánh giá…) từ các nguồn thông tin, tư liệu thu thập được. - Rèn luyện nhiều kĩ năng: + Tổ chức kiến thức + Kĩ năng sống + Kĩ năng làm việc nhóm + Kĩ năng giao tiếp - Cho phép HS làm việc “một cách độc lập” để hình thành kiến thức và cho ra những kết quả thực tế. - Nâng cao kĩ năng sử dụng CNTT vào quá trình học tập và tạo ra sản phẩm. Ø Về thái độ - Giúp cho HS cảm thấy yêu thích môn học hơn - Nhận thấy những giá trị của hoạt đông nhóm, chấp nhận những quan điểm khác nhau, phát triển tư duy phê phán, không ngừng nỗ lực học tập Như chúng ta thấy, hiện nay nhu cầu của con người ngày càng tăng, khả năng tiếp cận tri thức rất cao. Do đó, CNTT là một phương tiện hữu ích trong việc vận dụng tìm kiếm thông tin cho quá trình dạy và học. Nhu cầu học tập của người dân ngày càng nhiều, trình độ dân trí ngày càng cao, mô hình xã hội học tập đang hình thành và phát triển. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã mở ra khả năng và điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng phương tiện CNTT vào quá trình dạy học. Việc sử dụng những thành quả của khoa học công nghệ sẽ làm thay đổi hiệu quả của quá trình dạy học, hiệu quả của việc sử dụng phương pháp dạy học Dạy học dự án là phương pháp giúp cho HS tiếp cận kiến thức thông qua sự hướng dẫn của GV. Do đó, các em phải tìm kiếm các dữ kiện liên quan đến kiến thức, nhu cầu phải tiếp cận với CNTT từ trong quá trình này các em sẽ tự nhận ra kiến thức cho mình. Thứ hai là khi hoàn thành sản phẩm, HS phải báo cáo trước lớp bằng các hình thức như là thuyết trình PowerPoint, một Pulisher hay một trang Web, một trang Blog, cho mọi người đến thăm, chính điều này sẽ phát huy được năng của từng em, tạo một tâm thế cho các em mạnh dạn hơn khi giao tiếp ngoài xã hội sau này. 2.2.2. Xây dựng quy trình dạy học dự án trong dạy học Vật lý Nghiên cứu một số quy trình dạy học PP DHTDA, nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng vào dạy học vật lý, Tôi đưa ra quy trình dạy học theo dự án trong vật lý như sau: Giai đoạn 1: Quyết định vấn đề, hình thành dự án. Giai đoạn 2: Lập dự án Giai đoạn 3: Lập kế hoạch thực hiện Giai đoạn 4: Thực hiện dự án Giai đoạn 5: Trình bày sản phẩm Giai đoạn 6: Tổng kết, đánh giá. Dưới đây là mô tả chi tiết về nội dung, nhiệm vụ của GV và HS trong mỗi bước cụ thể. 2.2.2.1. Quyết định vấn đề, hình thành dự án Đây là giai đoạn rất quan trọng nhưng cũng đầy khó khăn. Thông thường GV và HS cùng nhau suy nghĩ đề xuất vấn đề, xác định đề tài song thực tế GV phải có sự định hướng trước HS. GV có thể gợi ý một số vấn đề liên quan đến thực tiễn mang tính chất kích thích trí tò mò của HS, sau đó GV và HS cùng nhau thảo luận vấn đề, đôi khi trong quá trình đó, HS có thể bật ra những ý tưởng táo bạo nhưng hấp dẫn liên quan đến nội dung bài học. Để làm được điều này GV: - Phải thực sự nắm vững kiến thức và liên hệ thực tế tốt có khả năng xâu chuổi sự kiện gắn kết với mục tiêu mà GV muốn hướng đến. - Dựa vào chương trình học của môn, cụ thể là nội dung của bài học mà mình dự định làm dự án, GV xác định các chuẩn kiến thức, xác định mục tiêu bài học: kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần đạt - Suy nghĩ, tìm ý tưởng về dự án của mình phải mang tính thực tiễn liên quan đến cuộc sống và thể hiện nội dung bài học. Một dự án tốt có khả năng mang lại hiệu quả là một dự án nghiên cứu sâu về các chủ đề thực tế và các vấn đề mà người học thực sự muốn tìm hiểu, thể hiện được vai trò trung tâm của HS nhằm giúp các em hiểu được nội dung bài học và liên hệ những điều các em quan tâm. Trong thực tiễn dự án, có một số loại dự án thường được tổ chức như sau: Học thông qua việc phục vụ cộng đồng: đây là những dự án thường gắn liền với cộng đồng địa phương và HS có thể áp dụng bài học trong lớp học vào tình hình thực tế. Ví dụ, tìm hiểu ô nhiễm nguồn nước ở địa phương, hay xây dựng kế hoạch mọi người mọi nhà dùng nguồn nước sách thông qua hệ thống lọc nước đơn giản. Mô phỏng – đóng vai: đây là những dự án giúp HS hóa thân vào vai một người khác, sống trong một tình huống mô phỏng lại tái tạo lại thời gian và không gian nhất định. Mô phỏng và đóng vai là cách rất hữu hiệu để phản ánh lịch sử, mang lại nhiều hiệu quả hay tạo được sự thấu cảm tốt. Ví dụ, để nâng cao ý thức an toàn giao thông tránh phóng nhanh vượt ẩu, GV cho HS hóa thân vào một vở kịch tái hiện hậu quả của một HS đua xe. Xây dựng và thiết kế: đây là những dự án dựa trên nhu cầu thực tế hay có thể được tạo nên bởi chuỗi sự kiện đáng tin cậy. Các dự án này đòi hỏi HS phải xây dựng được mô hình thực sự hay lập kế hoạch đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực tế. Ví dụ như chế tạo tên lửa nước, tuy nó mang tính chất trình diễn song nó cũng giúp HS phát triển nhiều kĩ năng, xây dựng mô hình thực tế. Giải quyết vấn đề: đây là những dự án yêu cầu HS đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực tế. Thông thường là những vấn đề nóng bỏng trong xã hội gây nhiều tranh cãi. Ví dụ hiện tượng hiệu ứng nhà kính, sự nóng lên của trái đất… Hợp tác trực tuyến: Những dự án này là các nhiệm vụ giáo dục thực hiện trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác trực tuyến với các lớp khác, các chuyên gia hay cả cộng đồng. Tra cứu web: Đây là các hoạt động yêu cầu định hướng trong đó một số hay tất cả các thông tin mà người học sử dụng lấy từ nguồn Internet. Các dự án này được thiết kế nhắm đến việc lĩnh hội và tích hợp kiến thức. 2.2.2.2. Lập dự án Có thể hiểu đây là bước chuẩn bị của GV và HS (chủ yếu là của GV) trước khi HS bắt tay vào thực hiện dự án. Bước này có vai trò lớn trong việc quyết định đến sự thành công của toàn bộ dự án. Về cơ bản, khâu lập kế hoạch dự án bao gồm các nhiệm vụ sau: Bước 1: Xác định mục tiêu dự án - Đưa ra mục tiêu của dự án dựa vào chuẩn kiến thức và mục tiêu bài học - Từ mục tiêu của dự án lựa chọn các nội dung thích hợp và chỉnh sửa chúng cho vào dự án. Bước 2: Xây dựng bộ câu hỏi định hướng để thu hút học sinh Có thể nói, để phát triển tư duy cho HS bên cạnh việc hiểu nội dung bài học, thì với bô câu hỏi định hướng sẽ làm được điều này. Trong một dự án không thể thiếu bộ câu hỏi này, nó làm cho HS hứng thú hơn và HS sẽ tìm thấy mối liên hệ giữa các kiến thức mà các em đã học. Bộ câu hỏi định hướng bao gồm các câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung. - Câu hỏi khái quát: Câu hỏi Khái quát là những câu hỏi mở, hướng đến những ý tưởng lớn và những khái niệm mang tính bền vững. Câu hỏi Khái quát thường mang tính liên môn và giúp HS thấy được sự liên quan giữa các môn học với nhau Ví dụ: Dự án “Chế tạo tên lửa nước – đơn giản và thách thức” - Con người có thể chu du trong vũ trụ hay không? Ta thấy rằng với câu hỏi khái quát, có nhiều câu trả lời, mang tính thực tế. Như vậy, câu hỏi khái quát chính là cầu nối cầu nối giữa các bài, phạm vi môn học. Chính vì vậy, sẽ thu hút HS và từ đó HS sẽ tư duy, liên hệ các kiến thức với cuộc sống hằng ngày. Câu hỏi khái quát có thể dẫn đến những câu hỏi quan trọng khác. Vì vậy, những câu hỏi cụ thể hơn thường được sử dụng để hướng dẫn HS thực hiện một bài học cụ thể nào đó. - Câu hỏi bài học Câu hỏi bài học có liên quan trực tiếp đến dự án và hỗ trợ viêc nghiên cứu câu hỏi khái quát. Các câu hỏi bài học cũng là các câu hỏi mở giúp HS thể hiện hiểu biết của mình về những khái niệm cốt lõi của một dự án Hay nói cách khác, câu hỏi bài học là những câu hỏi thường gắn với nội dung một bài học cụ thể. Ví dụ: Dự án “Tìm hiểu về chuyển động bằng phản lực” - Con người có thể bay ra khỏi Trái Đất hay không? Có thể nói, loại câu hỏi này hướng các em vào một chủ đề, một bài học cụ thể. Kích thích thảo luận cho phép HS trả lời theo cách tiếp cận sáng tạo, độc đáo, hỗ trợ cho câu hỏi khái quát. Câu hỏi bài học và câu hỏi khái quát khác biệt không quá rõ ràng, ngược lại chúng được xem như là một thể thống nhất. Cả hai loại câu hỏi này đều có chung mục đích, đó là: định hướng, khuyến khích cho học sinh học, dẫn đến nhiều câu hỏi hay hơn và hướng dẫn HS khám phá, khai thác những ý tưởng hay, quan trọng. - Câu hỏi nội dung Câu hỏi nội dung là những câu hỏi cụ thể, mang tính sự kiện với một số lượng giới hạn các câu trả lời đúng. Thường thì câu hỏi nội dung liên quan đến định nghĩa, sự nhận biết và gợi nhớ thông tin mang tính tổng quát – tương tự như loại câu hỏi mà bạn thường thấy trong các bài kiểm tra. Câu hỏi nội dung là những câu hỏi hỗ trợ quan trọng cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học Ví dụ: Dự án “Tìm hiểu về chuyển động bằng phản lực” + Hệ kín là gì? + Cho biết biểu thức động lượng. Nêu biểu thức tính động lượng tổng cộng của hệ. + Từ khái niệm động lượng hãy biểu diễn định luật II Newton ở dạng khác. + Nêu định luật bảo toàn động lượng. Điều kiện áp dụng. + Nêu một số ứng dụng của định luật bảo toàn động lượng Có thể nói, loại câu hỏi này giúp cho HS xác định “ai”, “cái gì”, “ở đâu”, và “khi nào” , tìm hiểu vấn đề hỗ trợ cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học bằng cách nhấn mạnh vào việc hiểu nội dung bài học. Đáp ứng mục tiêu của bài học. Do đó nó đặc điểm cơ bản như sau: - Có câu trả lời rõ ràng. - Đáp ứng tiêu chuẩn về nội dung bài học, mục tiêu bài dạy. - HS thường xuyên xác định “ai”, “cái gì”, “ở đâu”, và “khi nào”, tránh tình trạng lạc đề. - HS phải có kiến thức và kĩ năng, tìm hiểu để cho ra câu trả lời Bước 3: Thiết kế dự án Sau khi chúng ta đã có ý tưởng đề tài và vạch ra bộ câu hỏi định hướng, thì chúng ta phải bắt tay vào việc thiết kế dự án, để làm đực điều này GV cần phải nghiêm túc trả lời: - Đề tài dự án có thiết thật với thực tế không? Vai trò của nó như thế nào? - Lợi ích thực hiện dự án là ai? Như chúng ta biết một dự án thì học sinh đóng vai trò là người tự quyết định mọi việc của mình thông qua sự hướng dẫn của GV. Do đó, GV cần lưu ý đến những vấn đề: - Chủ thể trong dự án (công việc chính học sinh cần thực hiện chẳng hạn như các bạn hãy đóng vai là tổ chức nào), khách thể trong dự án (thực hiện mục đích gì) - Nhiệm vụ mà nhóm phải hoàn thành - Sản phẩm (kết quả) mà nhóm đạt được Bước 4: Xây dựng tài liệu tham khảo hỗ trợ hỗ trợ học sinh GV là người chuẩn bị cho HS những tài kiệu cần thiết để hỗ trợ trong quá trình thực hiện dự án: - Tài liệu kĩ thuật số: CD, DVD, phần mềm... - Tài liệu giấy: Các bài tập mẫu, nội dung bài học, các mẫu phiếu phân công công việc trong nhóm, các mẫu phiếu đánh giá từng sản phẩm, … - Các nguồn tài liệu tham khảo: các trang Web Những tài liệu này phải đáp ứng xác thực việc giải quyết các nhiệm vụ của dự án. Bước 5: Chuẩn bị các điều kiện thực hiện dự án - Đối với GV: Trao đổi, thu thập ý kiến của đồng nghiệp, vận động mọi người tham dự, chuẩn bị kinh phí, cơ sở vật chất cần thiết, … - Đối với HS: Chuẩn bị những kĩ năng cơ bản (biết sử dụng Word, PowerPoint...) đáp ứng cho việc thực hiện dự án. 2.2.2.3. Xây dựng kế hoạch thực hiện Trong giai đoạn này, HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương, kế hoạch cho việc thực hiện dự án: công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm… Vì vậy, giáo viên phải có đề cương chi tiết rõ ràng, điều này rất quan trọng trong việc thực hiện dự án, có kế hoạch thì thực hiện mới hiệu quả. - Đối với GV: Khi giao bài tập cụ thể, GV hướng dẫn HS thực hiện: + Tùy số lượng HS từ đó quy định số HS trong một nhóm + Phổ biến cách thức phân công nhiệm vụ trong nhóm + Gợi ý cho từng nhóm cách làm việc. + Cung cấp tài liệu tham khảo, tạo điều kiện thuận lợi cho HS trong quá trình xây dựng kế hoạch + Cung cấp tiêu chí đánh giá cho các bài tập cụ thể nhằm giúp HS có được định hướng đúng đắn khi xây dựng kế hoạch + Phổ biến kế hoạch thực hiện: thời gian thực hiện Ví dụ: tuần 1: phổ biến đề tài; tuần 2: thu thập và xử lý thông tin; tuần 3: hoàn chỉnh nội dung; tuần 4: thuyết trình - Đối với HS: + Chia nhóm + Chọn chủ đề + Thảo luận, thống nhất xây dựng kế hoạch thực hiện dự án. + Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bạn trong nhóm (tùy theo năng lực của mỗi bạn) + Đối với những bạn mới làm quen với dự án: thì hãy xem những dự án mẫu, từng bước tiếp cận với đề tài nhận được. + Dựa vào tiêu chí đánh giá của GV, HS lên kế hoạch cụ thể: thời gian tiến hành, trình tự thực hiện, thời gian hoàn thành dự án 2.2.2.4. Thực hiện dự án Đây là giai đoạn các HS thực hiện dự án theo sự phân công và kế hoạch chung. Trong quá trình thực hiện dự án, HS phải tìm cách giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học và cuộc sống xã hội mà GV và nhóm đã xác định. Cũng từ đó sản phẩm của dự án được hình thành. - Đối với GV: + Theo dõi quá trình thực hiện của các em chẳng hạn như tìm kiếm thông tin, phân tích những thông tin đúng vá không chính xác, vì hiện nay, nguồn thông tin rất đa dạng, chú ý nguồn mà HS lấy. + Giải quyết những câu hỏi mà HS gặp phải trong quá trình thực - Đối với HS: Thực hiện theo kế hoạch đề ra. Cụ thể: + Thu thập thông tin + Xử lý thông tin + Học nhóm, giải quyết các vấn đề khó khăn + Tổng hợp thông tin, đó là việc kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, hình thành sản phẩm 2.2.2.5. Thu thập kết quả và công bố sản phẩm Đây chính là giai đoạn HS đã hoàn thành dự án của mình và có thể đem ra sử dụng. Là sự kết tinh của cả một quá trình => mục tiêu dự án sẽ được thể hiện ở đây. Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo,...Sản phẩm của dự án có thể là sản phẩm vật chất được tạo ra từ hoạt đông làm việc nhóm và cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Trình bày sản phẩm cho GV trước lớp hoặc trong hội trường cho các GV trong tổ bộ môn và các bạn cùng khối. - Đối với GV: + Tổ chức cho HS trình bày kết quả + Tổ chức cho các nhóm trao đổi ý kiến + Đặt ra các câu hỏi yêu cầu chủ dự án giải trình + GV cũng có thể bổ sung, góp ý cho các nhóm thực hiện nhằm hoàn thiện dự án cho HS. - Đối với HS: + Có thể trình bày như một buổi thuyết trình (có thể nói đây là hình thức thường làm ở các trường vì nó đơn giản đỡ tốn kém) + Tùy theo dự án của các nhóm, mà có hình thức trình bày phù hợp. Nhưng mục đích cuối cùng mỗi nhóm là phải bảo vệ có sức thuyết phục dự án của mình, giải trình lí do lựa chọn dự án, tính khả thi và khả năng áp dụng vào cuộc sống của dự án. => Rèn luyện cho HS kĩ năng trình bày quan điểm của mình trước nhiều người. 2.2.2.6. Xây dựng chuẩn đánh giá dự án Đánh giá chính là thước đo cho việc phân tích những mặt được hay chưa được của HS trong quá trình học tập. Vì hiện nay không có một chuẩn đánh giá chung cho PPDH này, do đó là GV chúng ta phải nghiên cứu kĩ để cho cho ra một chuẩn đánh giá phù hợp và khách quan. Thông thường, chúng ta xây dựng đánh giá cho nhóm HS và từng HS thông qua việc xây dựng những tiêu chí. Những tiêu chí này tùy thuộc vào sản phẩm của dự án làm ra mà ta quy định, việc đưa ra tiêu chí cần đảm bảo công bằng, minh bạch, rõ ràng. Có thể nói ở giai đoạn này không những GV mà chính HS và cả những người tham gia khác cũng có thể tham gia đánh giá quá trình thực hiện dự án cũng như kết quả dự án. Từ đó đánh giá vai trò, năng lực của từng HS và rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện những dự án tiếp theo. 2.2.3. THIẾT KẾ DỰ ÁN GIẢNG DẠY MỘT SỐ ĐƠN VỊ KIẾN THỨC CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” 2.2.3.1. Phân tích kiến thức của chương “Các định luật bảo toàn” Với cách dạy truyền thống thì GV là người phải dạy tuần tự từng đơn vị kiến thức theo đơn vị bài học của SGK vì kiến thức sau sẽ liên quan đến kiến thức trước. Vì vậy, HS dễ dàng tiếp cận kiến thức mà không bị bỡ ngỡ trong môi trường “bốn bức tường lạnh lẽo” - người thầy làm trung tâm của lớp học. Cụ thể, GV phải dạy tuần tự như sau: Bảng 2.2: Cấu trúc nội dung theo cách dạy truyền thống Bài 23: Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng Động lượng: - Xung lượng của lực - Động lượng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan