Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống việt nam trong xây dựng gia đình ...

Tài liệu Phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống việt nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh lâm đồng hiện nay

.PDF
81
545
111

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN THỊ THANH HÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI Ở TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẨN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG MAI HÀ NỘI – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả điều tra là trung thực và chưa từng công bố ở công trình nào khác. Các trích dẫn, nguồn tải liệu trong luận văn đều ghi rõ ràng để bảo đảm tính khách quan và quyền tác giả. Học viên Nguyễn Thị Thanh Hà LỜI CẢM ƠN Luận văn “ Phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, là kết quả học tập suốt hai năm tại Học viện khoa xã hội (Phân viện TP.HCM) của tác giả dưới sự giúp đỡ của các thầy cô bộ môn. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến tất cả các thầy cô đã truyền đạt những kiến thức quý giá để tôi có thể áp dụng trong luận văn của mình. Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành tới cô TS.Nguyễn Thị Phương Mai là giáo viên đã trực tiếp hướng dẫn tôi. Cô đã nhiệt tình, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến ba mẹ đã là điểm tựa cũng như động viên, hỗ trợ cho tôi về mặt tinh thần để tôi có thời gian học tập và thực hiện thành công đề tài này. Tôi xin trân trọng gửi lời tri ân đến tất cả! Học viên Nguyễn Thị Thanh Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬNVÀ NHỮNG NỘIDUNGCƠ BẢN CỦAĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNGVIỆT NAM ..................... 9 1.1. Một số quan niệm về “gia đình”, “đạo đức gia đình” ................................ 9 1.2. Những điều kiện hình thành đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam ... 22 1.3. Một số chuần mực cơ bản của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam từ góc độ các mối quan hệ trong gia đình ........................................................... 26 Chƣơng 2 : PHÁT HUY ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI Ở TỈNH LÂM ĐỒNG- THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP.................... 36 2.1. Thực trạng việc xây dựng, phát triển gia đình ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay .. 36 2.2. Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay .................................................................................. 53 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, nhưng xã hội không đơn thuần được tạo thành từ tổng số các cá nhân, mà phản ánh tổng thể các mối quan hệ của các cá nhân đó với nhau. Do đó gia đình là xã hội thu nhỏ với những con người có mối quan hệ mật thiết với nhau và là một tiểu hệ thống hết sức phức tạp bởi ở đó không chỉ có các mối quan hệ huyết thống. Đó cũng là nền tảng văn hóa của xã hội mà con người có những trải nghiệm đầu tiên khi ứng xử với người khác. Sự ủng hộ của gia đình có tầm quan trọng rất lớn không chỉ đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, mà còn có tác động nhất định đến việc hoạch định chính sách của xã hội, bởi gia đình có thể được xem như là nguồn vốn nhân lực của xã hội. Sự ổn định và phát triển của gia đình là cơ sở để đảm bảo sự ổn định, công bằng và phát triển của xã hội. Không những vậy, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [11, tr. 106]. Để làm được điều này, đạo đức gia đình phải được củng cố và duy trì là nền tảng vững chắc trong quá trình xây dựng đạo đức cá nhân. Nhằm bảo vệ và phát huy những giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam hướng tới mục tiêu hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, mỗi tế bào của xã hội phải thực sự có lối sống lành mạnh, ở đó mọi người quan tâm đến nhau, người già được kính trọng và trẻ em được đùm bọc yêu thương. Những giá trị này được coi là chuẩn mực và đạo lý xử thế trong 1 đạo làm người của người Việt Nam. Đạo đức gia đình truyền thống là yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện cốt cách văn hóa dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, khi những điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, những giá trị đạo đức gia đình truyền thống cũng có thể thay đổi theo. Các giá trị đó có thể bị phủ định từng phần, hoặc bị thay thế bởi những giá trị mớido nhu cầu của thời đại haydo bản thân các giá trị đó. Chính vì vậy, để phát huy các giá trị truyền thống thì trước hết các giá trị đó phải được thẩm định lại, được kế thừa một cách biện chứng. Hiện nay, những giá trị đạo đức truyền thống trong gia đình Việt Nam nói chung, trong các gia đình ở tỉnh Lâm Đồng nói riêng cũng có những thay đổi nhất định. Do sự biến đổi của tồn tại xã hội, trước hết là sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một số yếu tố của đạo đức gia đình truyền thống đang trở nên bất cập. Ngoài ra cũng do những điều kiện khách quan chi phối đời sống hiện thực của gia đình như sự thâm nhập của các loại hình văn hóa, tôn giáo, sự tác động của cơ chế, chính sách xã hội về giáo dục, các hình thức hoạt động đoàn thể, v.v., cũng làm cho đạo đức gia đình Việt Nam nói chung, ở tỉnh Lâm Đồng nói riêng có sự thay đổi rất nhiều. Theo triết lý “đến hiện đại từ truyền thống”, trên cơ sở kế thừa biện chứng và phát huy các giá trị đạo đức gia đình truyền thống trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước ta hiện nay, đồng thời, xuất phát từ thực tế nêu trên, đề tài “Phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong việc xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” được lựa chọn nghiên cứu. 2 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Gia đình truyền thống, gia đình hiện đại và đạo đức gia đình truyền thống được quan tâm và được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi của đề tài, tình hình nghiên cứu có thể khái quát theo các vấn đề sau: Thứ nhất, những công trình đề cập đến quan niệm và những yếu tố ảnh hưởng đến gia đình truyền thống, gia đình hiện đại của Việt Nam nói chung. Trước năm 1991, những công trình nghiên cứu về gia đình truyền thống Việt Nam đã xuất hiện. Đến năm 1991, Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam [53] được Viện Xã hội học cho xuất bản. Đây là công trình tập hợp bài viết của nhiều học giả về chủ đề gia đình. Trong số đó, đáng chú ý là các bài viết của Trần Đình Hượu (Về gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng Nho giáo), Nguyễn Từ Chi (Nhận xét bước đầu về gia đình của người Việt), Đỗ Thái Đồng (Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam Bộ Việt Nam),… Đến năm 1996,Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam[24]tập 2 được xuất bản. Trong đó, những bài viết có nội dung mang tính chất lý luận về gia đình có thể kể đến là: Tương Lai với “Đi tìm định nghĩa về khái niệm gia đình”, Hoàng Thiệu Khang với “Gia đình là tế bào xã hội?” hay Vũ Tuấn Huy với “Những khía cạnh của sự biến đổi gia đình”, v.v.. Nhiều nhà khoa học khẳng định, truyền thống Nho giáo ảnh hưởng đến gia đình ở mọi khía cạnh. Điều này được các tác giả Vũ Khiêu, Đặng Nhứ và Lê Thị Quý làm sáng tỏ trong công trình Nho giáo và gia đình [21]. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu những quan điểm của Nho giáo về gia đình, trên cơ sở này, những ảnh hưởng từ Nho giáo đến vấn đề gia đình được chỉ ra. Trong số đó, những nhận định cho rằng: Gia đình là cơ sở của xã hội; Quan hệ gia đình bắt đầu từ quan hệ cha mẹ - con cái, và là trung tâm của mọi quan hệ xã hội; Sự giáo dục trong gia đình là trường học đầu tiên để giáo dục con người đi vào xã hội; HIẾU là phẩm hạnh đứng đầu trong hệ thống đạo đức 3 Nho giáo;… Những vấn đề này còn được thể hiện qua những câu nói của các nhà tư tưởng cận - hiện đại Việt Nam như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Chí Minh. Trong Văn hóa gia đình Việt Nam [20], tác giả Vũ Ngọc Khánh công bố nhiều tư liệu quý về gia đình Việt Nam truyền thống và khẳng định, đó là di sản văn hóa của người Việt. Từ góc độ triết học, tác giả nghiên cứu văn hóa gia đình Việt Nam và đề cập đến những ảnh hưởng từ các khuynh hướng tôn giáo triết học. Cũng đồng quan điểm với các tác giả của Nho giáo và gia đình,với lập trường tư tưởng Nho giáo, Vũ Ngọc Khánh giúp người đọc có cái nhìn thấu đáo hơn về vấn đề giáo dục trong gia đình Việt Nam xưa nhưng ý nghĩa và giá trị vẫn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Là công trình khoa học công phu, nghiên cứu có tính chất hệ thống, được biên soạn dưới hình thức một giáo trình giảng dạy và nghiên cứu, Gia đình học [19] của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý đã tổng kết các vấn đề cơ bản của gia đình Việt Nam dưới góc độ văn hoá học, xã hội học, sử học,… Trong đó, phần “Gia đình học với tính cách là một khoa học” trình bày các khái niệm liên quan như “gia đình”, “gia đình học”, vị trí, vai trò và chức năng của gia đình, những đặc trưng của gia đình truyền thống Việt Nam. Những nội dung liên quan đến mối quan hệ của gia đình - dòng họ làng xã, mức độ ảnh hưởng tác động của nền kinh tế thị trường đến các giá trị truyền thống được trình bày trong Con người Việt Nam truyền thống - Những giá trị đối với sự phát triển [26]. Điểm đáng chú ý của công trình này là phạm vi nghiên cứu gồm cả tộc người thiểu số, khi đề cập đến tín ngưỡng phồn thực trong sinh hoạt văn hóa truyền thống. Dựa trên những tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, lịch sử và văn hóa của con người Việt Nam truyền thống, tác giả làm rõ những nội dung trên, đồng thời, đề xuất một số giải pháp để xây dựng và hoàn 4 thiện những chủ trương, chính sách nhằm kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong thời gian gần đây,vấn đề liên quan đến vai trò của gia đình truyền thống nói chung cũng nhận được nhiều sự quan tâm. Với đề tài Phát huy vai trò gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay [2], Hà Thị Bắc đã chỉ ra một số giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, tác giả có nêu ra phương hướng và đưa ra một số giải pháp để phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại. Thứ hai, những công trình đề cập đến đạo đức gia đình truyền thống. Trong số những công trình nghiên về đạo đức gia đình truyền thống, Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường [22] của Nguyễn Thị Khoa đề cập trực tiếp đến khái niệm đạo đức gia đình là gì. Theo đó, “Đạo đức gia đình là toàn bộ những quan niệm về giá trị và quy phạm về hành vi của con người trong vấn đề hôn nhân và gia đình. Mọi cử chỉ, hành vi, thái độ của mỗi người về hôn nhân và gia đình vừa thể hiện bản chất đạo đức cá nhân, vừa cho biết bản chất đạo đức của mối quan hệ trong gia đình. Sự hình thành đạo đức gia đình không chỉ dựa trên những quy định của pháp luật, của phong tục tập quán và truyền thống dân tộc, mà còn dựa trên niềm tin và dư luận xã hội” [22, tr. 20]. Trong Từ đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay [42], tác giả Nguyễn Thị Thọ khẳng định đạo hiếu là yếu tố cơ bản trong đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam. Từ đó, tác giả đề cập ảnh hưởng của Nho giáo đến việc hình thành chuẩn mực đạo đức cũng như việc kế thừa “hiếu” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến cuốn sách Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay[43], tác giả Nguyễn Thị Thọ khai thác yếu tố đạo đức gia đình 5 truyền thống dưới sự tác động tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp định hướng đối với việc xây dựng nền đạo đức gia đình mới ở nước ta hiện nay với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đạo đức xã hội. Bài Sự biến đổi của gia đình truyền thống Việt Nam [44] của tác giả Phạm Hồng Toàn đề cập đến sự thay đổi trong quan niệm của con người về giá trị gia đình. Sự biến đổi trong mối quan hệ gia đình dưới sự tác động của xã hội và của nền kinh tế thị trường, sự thay đổi về mô hình gia đìnhtruyền thống đến mô hình gia đình hiện đại cùng với sự xuống cấp đạo đức gia đình trong bối cảnh xã hội hiện đại được trình bày. Luận vănNhững biến đổi của đạo đức gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [55] của tác giả Hà Thị Yến chỉ ra và làm rõ những biến đổi của đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngoài ra, tác giả cũng đã đưa ra những hạn chế và giải pháp để bảo tồn đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam. Thứ ba, những công trình đề cập đến đạo đức gia đình ở tỉnh Lâm Đồng Trong bối cảnh xã hội có những thay đổi, hình thức của gia đình cũng có những thay đổi theo, trong đó, đạo đức gia đình cũng là yếu tố cần được xem xét. Tuy nhiên, vấn đề về đạo đức gia đình ở tỉnh Lâm Đồngchưa được nghiên cứu và thể hiện trong công trình nghiên cứu khoa học nào. Đây là một khoảng trống cần được bổ sung. Như vậy, dưới những góc độ khác nhau, các công trình kể trên đã tập trung đề cập đến đặc điểm, chức năng của đạo đức gia đình Việt Nam, vai trò của giáo dục gia đình. Đồng thời, các đề tài cũng chỉ ra được những phương 6 hướng, giải pháp thiết thực góp phần xây dựng đạo đức gia đình, phát huy vai trò to lớn của gia đình Việt Nam nói chung đối với xã hội. Tuy nhiên, những phương hướng và giải pháp đó còn mang tính chất chung chung, khó có thể vận dụng vào điều kiện riêng của từng tỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn: Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về giá trị đạo đức gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm Đồng. Qua đó đề xuất một số giải pháp phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống của tỉnh Lâm Đồng trong gia đoạn hiện nay Nhiệm vụ của luận văn Thứ nhất, trình bày và phân tích một số giá trị cơ bản của đạo đức gia đình truyền thống. Thứ hai, thực trạng phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam ở tỉnh Lâm Đồng Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn : nghiên cứu các giá trị đạo đức gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay Phạm vi nghiên cứu của luận văn: nghiên cứu các giá trị đạo đức gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay ( từ 2010 cho đến nay) 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cở sở lý luận của luận văn: Luận văn dựa trêncác nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình và xây dựng gia đình Việt Nam. 7 Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, điều tra, thống kê,… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: Luận văn làm sáng tỏ vấn đề phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống trong việc xây dựng gia đình hiện đại. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn là nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu đạo đức gia đình truyền thống trong việc xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng nói riêng và xây dựng gia đình hiện đại ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1: Cơ sở lý luận và những nội dung cơ bản của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam Chương 2: Phát huy đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng – Thực trạng, phương hướng, giải pháp 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬNVÀ NHỮNG NỘIDUNGCƠ BẢN CỦAĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNGVIỆT NAM 1.1. Một số quan niệm về “gia đình”, “đạo đức gia đình” 1.1.1. Một số quan niệm về“gia đình”, “gia đình truyền thống”, “gia đình hiện đại” Khái niệm “gia đình” có từ lâu và có những thay đổi cùng với sự biến đổi và vận động không ngừng của lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử có những quan niệm khác nhau về gia đình. Theo từ nguyên Hán-Việt, “gia đình” là “nhà” và “sân”, là “đơn vị xã hội thành lập theo dòng máu thường gồm có cha mẹ và con cái” [4, tr.168]. Đi cùng với “gia đình”, nhiều thuật ngữ khác mang ý nghĩa, nội hàm có liên quan như “gia cảnh” (tình cảnh trong nhà); “gia bảo” (của quý trong nhà); “gia nghiệp” (nghề nghiệp của ông cha để lại); “gia phả” (sách ghi chép lai lịch, thân thế và sự nghiệp của từng người trong gia tộc theo thứ tự các đời); “gia phong” (thói nhà, tập quán và nề nếp riêng của một nhà); “gia thế” (thanh thế, ảnh hưởng của một gia đình); “gia trưởng” (người đàn ông đứng đầu, nắm quyền trong một gia đình), v.v.. Đồng thời, “gia đình” được định nghĩa từ nhiều góc độ nghiên cứu, nhiều chuyên ngành khác nhau. Ở đây, luận văn đề cập đến khái niệm “gia đình” theo quan điểm của Nho giáo, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thứ nhất, theo quan điểm của Nho giáo Nho giáo ảnh hưởng khá sâu sắc tới văn hóa và đời sống người Việt. Dù khó tìm thấy khái niệm “gia đình” trong các kinh điển của Nho giáo, song theo quan điểm của truyền thống này,“gia đình” là yếu tố nền tảng của xã hội, ảnh hưởng đặc biệt đến đời sống, đạo đức và sự ổn định của xã hội. Đồng thời, 9 đây cũng là nơi tu dưỡng và rèn luyện bản thân của mỗi người trước khi tham gia vào các hoạt động xã hội với những mối liên hệ và quan hệ rộng hơn. Theo quan điểm của Khổng Tử, các mối quan hệ giữa con người với con người như cha mẹ - con cái, chồng - vợ, anh - em là mối quan hệ cơ bản và tự nhiên của con người. Đây là những mối quan hệ cơ bản của gia đình,và mở rộng ra, đó chính là mối quan hệ của con người trong xã hội. Đồng thời, trong nội dung đạo đức của con người, Khổng Tử đề cao nội dung hiếu với cha mẹ, trung với vua. Điều này có thể hiểu, ông đề cập đến gia đình như là điểm xuất phát đầu tiên, là gốc của xã hội. Gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở Nho giáo. Gốc có vững thì cây mới khỏe, do đó, trong sách Đại học, Khổng Tử đề cập đến vai trò của việc tu thân. Bởi có tu thân mới tề được gia, tức là làm cho gia đình được êm ấm; có tề được gia mới trị được quốc, tức là quản lý được đất nước và cuối cùng là bình thiên hạ, tức là làm cho thiên hạ được thái bình. Tất cả các nấc thang đó của cá nhân con người theo chủ trương của Nho giáo được gọi là “bát điều mục”: cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Quá trình xây dựng đạo đức của cá nhân được thể hiện từng bước từ cách vật, trí tri, thành ý và chính tâm. Theo đó, “sự vật được nghiên cứu kỹ thì sau sự hiểu biết mới tới. Hiểu biết thấu đáo thì sau ý nghĩ mới thành thật. Ý nghĩ thành thật thì sau tâm mới ngay thẳng. Tâm ngay thẳng thì sau bản thân mới tu sửa” (Đại học, 1) [18, tr.17]. Bốn điều mục này là tiền đề cho quá trình tu thân của con người, từ đó, con người có cơ sở để thực hiện trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, với xã hội, hướng tới thực hiện tu thân, tề gia, thực hiện trách nhiệm của người quân tử trong việc thiết lập và duy trì trật tự trong gia đình. Không những vậy, Nho giáo còn nhấn mạnh, “Tề gia ở chỗ tu thân” có nghĩa: người ta thường vì chỗ thân yêu mà thiên lệch, vì chỗ 10 khinh ghét mà thiên lệch, vì chỗ kính sợ mà thiên lệch, vì chỗ thương xót mà thiên lệch, vì chỗ khinh nhờn mà thiên lệch. Vì thế, với người ưa thích mà vẫn nhìn ra (biết được) tật xấu (của người đó),với người ghét bỏ mà vẫn nhìn ra chỗ tốt, người như thế là hiếm có trong thiên hạ vậy” (Đại học, 9) [18, tr.41]. Chính vì vậy, “từ thiên tử tới thường dân, ai cũng lấy việc tu thân làm gốc” (Đại học, 1) [18, tr. 18]. Nho giáo cũng cho rằng, trong mối quan hệ của con người có “tam cương” và “ngũ thường”.Trong “tam cương”, mối quan hệ gia đình được thể hiện trong hai cươnglà quan hệ cha con - chồng vợ. Còn trong “ngũ thường”, mối quan hệ của con người trong gia đình gồm cha -con, chồng-vợ và anh em. Như vậy, “gia đình” chính là xã hội thu nhỏ, điều đó dẫn đến quan điểm cho rằng, “một nhà nhân hậu, cả nước phát huy lòng nhân. Một nhà từ nhượng, cả nước phát huy lòng từ nhượng. Một người tham lam ngang ngược, cả nước làm loạn” (Đại học, 10) [18, tr. 44].Điều này cũng được Mạnh Tử khẳng định thêm: “Gốc của thiên hạ là đất nước, gốc của đất nước là gia đình, gốc của gia đình là bản thân” (Mạnh Tử, chương VII: Ly lâu, chương cú thượng, 5) [18, tr. 1024]. Việc quy nạp như vậy có nguyên nhân từ tôn chỉ mục đích của học thuyết này, khi Nho giáo cho rằng dùng đạo đức có thể cảm hóa được con người, làm cho xã hội được yên ổn. Đạo đức xã hội được bắt nguồn từ hạt nhân của xã hội là cá nhân, với việc thực hiện đầy đủ các chuẩn mực đạo đức, còn cá nhân được tôi luyện đạo đức từ trong gia đình. Như vậy, học thuyết của Nho giáo nhấn mạnh và đề cao vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cá nhân, cũng như giáo dục đạo đức trong xã hội nói chung. Không có môi trường nào tốt hơn để rèn luyện đạo đức con người bằng môi trường gia đình. Trong gia đình, mỗi thành viên đều có nhiệm 11 vụ và vai trò nhất định trong quá trình hình thành và rèn dũa đạo đức của cá nhân. Thứ hai, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin Cùng với quan điểm của Nho giáo, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng Việt Nam nói chung. Đồng thời, quan điểm này được đánh giá là khách quan, toàn diện hơn và phản ánh chân thực về gia đình và vai trò của gia đình trong sự vận động của xã hội. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845 - 1846), “gia đình”được khẳng định là kết quả của các mối quan hệ của con người trong quá trình phát triển lịch sử của nhân loại. Ngoài các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người trong quá trình sản xuất, mối quan hệ giữa con người với con người trong gia đình “tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển của lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nẩy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái” [29, tr. 41]. Đến tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1844), Ph.Ănghen chỉ rõ vai trò tế bào xã hội của gia đình, mối quan hệ không thể tách rời giữa gia đình và xã hội. Ông cho rằng, gia đình là sản phẩm của sự phát triển lâu dài, đầy những mâu thuẫn gắn liền với chế độ tư hữu và nhà nước. Không những vậy, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau ảnh hưởng đến kết cấu và tổ chức của gia đình. Đồng thời, gia đình và trình độ phát triển của gia đình cũng tác động không nhỏ đến sự tồn tại và sự phát triển của xã hội. Chính gia đình cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc duy trì nòi giống và tái sản xuất sức lao động: “nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, 12 quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống” [32, tr. 44]. Như vậy, C.Mác và Ph.Ănghen không những đề cập đến chức năng tái sản xuất con người mà còn đề cập đến vai trò kinh tế trong gia đình, đòn bẩy thúc đẩy xã hội phát triển. Nói cách khác, gia đình là nhóm xã hội nhỏ xét về mặt lịch sử có tính tổ chức nhất định, các thành viên của nó liên quan với nhau bằng hôn nhân hoặc các quan hệ thân tộc, có đặc điểm chung về sinh hoạt và cùng chịu trách nhiệm đạo đức, cũng như trách nhiệm xã hội mà nhu cầu xã hội đặt ra về tái sản xuất thể chất và tinh thần của nhân dân. Với tư cách là một nhóm xã hội, một cộng đồng xã hội, gia đình luôn chịu ảnh hưởng và cũng mang tính quyết định đến đời sống sản xuất vật chất xã hội.Với tư cách là một đơn vị cộng đồng xã hội, điều quan trọng nhất trong gia đình là nhân tố nhận thức chủ quan liên kết các thành viên của nó với nhau. Tình yêu thương, quan tâm đến nhau, sự hiểu biết lẫn nhau cũng như về các mục tiêu cuộc sống chung, trách nhiệm với xã hội, v.v. luôn được thể hiện một cách mạnh mẽ trong gia đình. Theo Ph.Ăngghen, hôn nhân và cuộc sống gia đình muốn bền vững phải dựa trên nền tảng của tình thương yêu. Nói như vậy không có nghĩa là các quan hệ kinh tế, điều kiện sinh sống bị xem là thứ yếu. Ôngcho rằng: “trong lý thuyết đạo đức cũng như trong thơ ca, không một quan niệm nào được xác lập bất di bất dịch và vững chắc bằng quan niệm cho rằng bất cứ cuộc hôn nhân nào không dựa trên tình thương yêu lẫn nhau và trên sự thoả thuận thật sự tự do giữa hai vợ chồng, đều là vô đạo đức cả” [32, tr. 126]. Để nhấn mạnh vai trò của tình yêu, ông viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới là hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới là hợp đạo đức mà thôi” [32, tr. 128]. 13 Như vậy, khái niệm “gia đình” được thể hiện ở hai nội dung cơ bản. Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân con người. Thứ hai, quan hệ gia đình gồm hai mối quan hệ chính là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Hay nói một cách khác đó chính là mối quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau. Thứ ba, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam Trong bối cảnh toàn cầu hóa cũng như sự vận động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, gia đình Việt Nam có những sự biến đổi mạnh mẽ. Đặc biệt từ giai đoạn đổi mới đất nước, từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến nay, vấn đề gia đình luôn được quan tâm và đề cập đến trong các văn bản chính thức. Văn kiện Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hóa của gia đình” [8, tr. 95-96]. Như vậy, không thể xây dựng và phát triển đất nước nếu không quan tâm, không chú ý đến môi trường gia đình, đồng thời, không có môi trường nào tốt hơn để phát triển con người mới ngoài môi trường gia đình. Điều này tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991): “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước 14 phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người” [5, tr. 15]. Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh đó, tinh thần này được tiếp tục khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung năm 2011: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [12, tr. 77]. Thống nhất quan điểm này, Nhà nước đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình với 133 điều. Trong đó, điều 3 khẳng định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau” [27, tr. 8]. Như vậy, từ góc độ tư tưởng đến các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước, gia đình là nguồn cội, là môi trường tốt nhất để giáo dục và phát triển con người. Đồng thời, gia đình cũng là cơ sở, là viên gạch để xây nền móng và phát triển đất nước trong mọi hoàn cảnh. Ngoài ba cách tiếp cận trên đây, các công trình nghiên cứu khoa học và các tác phẩm về gia đình còn được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: triết học, tâm lý học, giáo dục học, sử học,…đã có sự kế thừa và có điểm mới khi đề cập đến khái niệm gia đình. Từ góc độ triết học, giáo sư Lê Thi trong tác phẩm Vai trò gia đình trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam cho rằng: “Gia đình là một khái niệm dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống. Đồng thời gia đình có thể bao gồm một số người được nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên trong gia đình gắn bó nhau về trách nhiệm và quyền lợi” [40, tr. 42]. 15 Ở góc độ tâm lý học,trong tác phẩmTâm lý gia đình, giáo sư Nguyễn Khắc Viện đưa ra định nghĩa:“Gia đình đó là sự chung sống giữa hai nhóm người, cha mẹ, con cái, nó cùng một mối quan hệ là những người sinh ra và những người nối dõi” [54, tr. 20]. Cùng với sự thăng trầm và biến đổi của lịch sử, quan niệm gia đình cũng có sự thay đổi mà chúng ta có thể phân biệt một cách ước lệ giữa gia đình hạt nhân, gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. Tuy nhiên, sự thay đổi này chỉ trên bình diện quy mô và cấu trúc của gia đình. Theo đó, gia đình hạt nhân là loại hình gia đình có cơ cấu nền tảng, bao gồm vợ chồng và con cái chung sống với nhau. Gia đình truyền thống là kiểu mẫu gia đình theo hình thức tam, tứ hay ngũ đại đồng đường, là sản phẩm kết tinh từ nhiều yếu tố và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và tạo nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc. Gia đình truyền thống có một số đặc trưng như: Thứ nhất, lễ giáo và đạo đức được coi trọng. Nó xuất phát từ lối sống, cách ứng xử hàng ngày của các thành viên và trở thành dấu ấn đậm nét trong cuộc sống gia đình. Thứ hai, các thành viên trong gia đình không chỉ liên kết về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần. Khi nói đến sự liên kết của gia đình truyền thống là nói đến mối quan hệ tình cảm huyết thống giữa ông bà, cha mẹ và con cái, phong tục thờ cúng tổ tiên, nề nếp kính trên nhường dưới, thủy chung,…Điều này chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Nho giáo. Đồng thời có thể nói rằng, ngoài sự liên kết của các thế hệ còn là sự liên kết, ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm đối với dòng họ, là khởi nguồn cho những truyền thống đạo đức gia đình mang đậm nét người Việt Nam. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan