Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở việt nam hiện nay

.PDF
84
182
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THANH TÂM PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THANH TÂM PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng được bảo vệ ở bất kỳ học vị nào. Tôi xin cam đoan mọi thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc và đảm bảo tính thực tiễn. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo chương trình và thực hiện các nghĩa vụ về tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Đà Nẵng, ngày tháng Tác giả luận văn Phạm Thị Thanh Tâm năm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT, LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT ........................................................................7 1.1. Người khuyết tật...................................................................................................7 1.2. Lao động là người khuyết tật .............................................................................11 1.3. Điều chỉnh của pháp luật về lao động là người khuyết tật .................................16 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..........................................................................................................................33 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay .....................................................................................................................33 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay .....................................................................................................................44 2.3. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ...................................................54 CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......61 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ....................61 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật .......................64 KẾT LUẬN ..............................................................................................................74 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADA : The American with Đạo luật người Mỹ khuyết tật Disabilities Act ADAAA : The American with Disabilities Act Amendments Act Luật sửa đổi Đạo luật người Mỹ khuyết tật BLLĐ : Bộ luật lao động DDA : Disability Discrimination Act Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật LNKT : Luật người khuyết tật NKT : Người khuyết tật ILO : International Labour Organization Tổ chức Lao động Quốc tế WHO : World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Tham gia lực lượng lao động/Participation in labor force .......................47 Bảng 2.2: Tỷ lệ tìm được việc làm của người lao động dựa trên trình độ học vấn .....49 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Lý do người khuyết tật không làm việc hoặc không có nhu cầu tìm việc... 48 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lao động là một trong những hoạt động chủ yếu của con người. Ngay từ thuở sơ khai con người đã ý thức được rằng phải lao động để tạo ra thức ăn duy trì cuộc sống. Theo thời gian và không gian, xã hội phát triển thì lao động không chỉ đơn thuần là để tạo ra thức ăn cho bản thân mà sức lao động còn trở thành một loại hàng hóa đặc biệt được mua bán giữa người lao động và người sử dụng lao động. Có lẽ vì vậy mà các quy định về lao động của mỗi quốc gia nói riêng và các văn kiện pháp lý quốc tế hiện đại nói chung luôn dành rất nhiều sự quan tâm cho lĩnh vực lao động. Mặc dù, tính chất lao động có thể khác nhau giữa công việc này với công việc kia, sức lao động có thể khác nhau giữa người này với người kia song bất kì ai cũng đều được quyền tự do lao động nếu họ có đủ khả năng, bao gồm cả người khuyết tật. Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc/và tinh thần dẫn đến suy giảm khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Chính vì vậy, ở tất cả các quốc gia trên thế giới, người khuyết tật luôn được coi là thành viên thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương và bị xâm phạm những quyền lợi chính đáng. Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và tạo việc làm cho người khuyết tật, tạo điều kiện cho họ vượt qua những khó khăn, hòa nhập vào đời sống cộng đồng là những hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc. Theo Tổ chức y tế thế giới, hiện nay trên thế giới có hơn 1 tỷ người có khiếm khuyết về thể chất, cảm giác, trí tuệ hoặc tâm thần dưới các hình thức khác nhau. Con số này tương đương với khoảng 15% dân số thế giới. Quốc gia nào cũng có người khuyết tật, và hơn 2/3 trong số đó sống tại các nước đang phát triển [56, tr.8]. Tại Việt Nam, lao động khuyết tật chiếm một lượng không nhỏ, khoảng 7,8% tổng dân số [31, tr.1]. Để bảo vệ và tạo điều kiện tốt nhất cho người khuyết tật dễ dàng tham gia vào thị trường lao động, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách cũng như ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, tạo việc làm,…. Đặc biệt là gần đây, ngày 11/3/2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước 1 Nguyễn Phú Trọng đã ký văn kiện phê chuẩn Việt Nam gia nhập vào Công ước 159 của Tổ chức Lao động quốc tế - ILO. Đây là bước phát triển quan trọng trong tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm cho người khuyết tật, khẳng định mạnh mẽ cam kết của Việt Nam trong việc bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động khuyết tật không bị phân biệt đối xử về lao động và việc làm. Tuy nhiên, pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về lao động là người khuyết tật chưa đảm bảo được tính tương thích cao với công ước này. Bên cạnh đó, thực tế lao động là người khuyết tật vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn vay ưu đãi để học nghề hoặc mở các cơ sở sản xuất, kinh doanh, số người khuyết tật tìm được việc sau đào tạo nghề còn thấp. Mặc dù pháp luật cũng đã có các quy định cụ thể về yêu cầu các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức không được từ chối tuyển dụng người lao động là người khuyết tất nếu có đủ tiêu chuẩn, nhưng nhiều đơn vị, doanh nghiệp luôn viện các lí do để từ chối nhận họ vào làm việc. Từ thực trạng trên, việc làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về lao động là người khuyết tật, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng quy định và hiệu quả thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về lao động là người khuyết tật trong thực tiễn để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện là một vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Pháp luật về lao động là người khuyết tật là một vấn đề không phải mới nhưng nó luôn mang tính thời sự và cần được quan tâm, nghiên cứu. Nhất là khi các văn kiện quốc tế về bảo vệ quyền của người khuyết tật và lao động là người khuyết tật được Liên Hợp Quốcvà Tổ chức lao động thế giới thông qua đã thúc đẩy nhiều công trình khoa học chọn đây là đề tài nghiên cứu. Trong đó, có một số đề tài liên quan đến nội dung nghiên cứu luận văn của tác giả, cụ thể là: - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam” của Phạm Thị Thanh Việt, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2009. 2 - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của Đinh Thị Nga Phượng, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2011. - Luật văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của Trần Thị Tú Anh, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014. - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Bích Ngọc, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật lao động về người khuyết tật” của Nguyễn Thị Hiền, Đại học Luật – Đại học Huế, năm 2016. - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật đào tạo nghề cho lao động khuyết tật, qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế” của Ngô Thùy Khiêm, Đại học Luật – Đại học Huế, năm 2019. Nhìn chung, giải quyết việc làm và bảo vệ quyền lợi cho lao động là NKT đã và đang được cả xã hội quan tâm, nhưng những vấn đề cụ thể về nó thì chưa được nghiên cứu nhiều. Các đề tài hiện nay đa phần đều đề cập đến lao động khuyết tật dưới góc độ quyền con người hoặc vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật, chưa đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về các cải thiện chất lượng môi trường lao động phù hợp cho người khuyết tật. Trên cơ sở kế thừa và phát huy, đề tài “Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” nhằm làm sáng tỏ, bổ sung thêm ý nghĩa của hệ thống lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện các quy định đó. Từ đây, có thể đưa ra được những giải pháp hoàn thiện về mặt pháp luật và tổ chức thực hiện nhằm đóng góp những bổ sung cần thiết vào khoa học luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định đó ở Việt 3 Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu này đề tài sẽ tiến hành những nhiệm vụ sau: - Phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về người khuyết tật và lao động là người khuyết tật. - Làm rõ những vấn đề lý luận về điều chỉnh pháp luật đối với lao động là người khuyết tật. - Đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiện nay. - Định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định đó tại Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật về việc làm, học nghề, an toàn lao động, vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi thông qua các quy định cụ thể của Luật người khuyết tật năm 2010, Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn liên quan đến lao động là người khuyết tật. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Ngoài phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích và hệ thống hóa: phương này này được sử dụng để tiến hành liệt kê và hệ thống hóa các quy định trong các văn kiện quốc tế, quy định pháp luật liên quan đến lao động là người khuyết tật để từ đó phân tích, nghiên cứu sự phù hợp của từng quy định đó. Phương pháp này được sử dụng nhiều ở chương 1 và chương 2. 4 - Phương pháp phân tích luật viết: phương pháp này chủ yếu sử dụng ở chương 2 và chương 3 nhằm phân tích ý nghĩa của các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề về lao động là người khuyết tật, làm cơ sở đối chiếu với thực tiễn thực hiện các quy định đó ở Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp. - Phương pháp phân tích, so sánh: phương pháp này được sử dụng để làm rõ thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật từ đó đưa ra những đánh giá vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật thuộc lĩnh vực mà đề tài nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 2. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, thống kê, quy nạp, diễn dịch được sử dụng xuyên suốt đề tài nhằm luận giải, chứng minh cho các luận điểm khoa học được đề cập. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận - Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về người khuyết tật và lao động là người khuyết tật, tính đặc thù của lao động là người khuyết tật và pháp luật về lao động là người khuyết tật. - Luận văn hệ thống hoá và đánh giá thực trạng quy định pháp luật hiện hành về lao động là người khuyết tật. Trên cơ sở đó nhằm tìm ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập của pháp luật và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật đó ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Trên cơ sở những phân tích và đánh giá chung về thực trạng pháp luật hiện hành, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các quy định đó trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay của Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cơ quan xây dựng chính sách và pháp luật về lao động là người khuyết tật. Luận văn cũng có giá trị tham khảo và là nguồn tài liệu hữu ích sử dụng trong các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy pháp luật về lao động là người khuyết tật. 5 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bảng biểu thì Luận văn có kết cấu gồm 3 chương: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người khuyết tật, lao động là người khuyết tật và pháp luật về lao động là người khuyết tật; - Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiện nay; - Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 6 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT, LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1.1. Người khuyết tật 1.1.1. Khái niệm Người khuyết tật, là một trong các nhóm người dễ bị tổn thương cần được ưu tiên và bảo vệ. Theo WHO thì NKT có ba mức suy giảm là: “Khiếm khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap) [56, tr.7]. Khiếm khuyết là tình trạng mất mát hoặc không như bình thường tạm thời hoặc vĩnh viễn về tâm lý hoặc/và sinh lý của cấu trúc cơ thể con người. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động hằng ngày, là hậu quả của sự khiếm khuyết gây ra và cần các biện pháp can thiệp để khắc phục nhược điểm. Còn tàn tật là tình trạng bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh tác động lên tình trạng khuyết tật của họ”. Như vậy có thể hiểu, NKT là người bị khiếm khuyết về tâm lý hoặc/và sinh lý các bộ phận cơ thể người dẫn đến sự hạn chế trong thực hiện các hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Cách hiểu này cũng gần giống với cách hiểu trong Đạo luật người Mỹ khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA): “Khuyết tật là sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống của một cá nhân và được ghi nhận trong hồ sơ về sự suy giảm” [52, tr.7]. Pháp luật các nước cũng giới hạn rõ ràng về thời gian khiếm khuyết kéo dài là bao lâu thì sẽ được xem là NKT để phân biệt giữa NKT với người bị suy giảm chức năng tạm thời. Điều 1 Công ước về quyền của người khuyết tật do Liên Hợp Quốcthông qua vào ngày 13/3/2007 định nghĩa: “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Cách định nghĩa này tương tự cách sử dụng thuật ngữ “Người khuyết tật” tại khoản 1, Điều 1 Công ước số 7 159 của ILO về tài thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm 1983: “Thuật ngữ người có khuyết tật dùng để chỉ người mà triển vọng tìm được một việc làm thích hợp, cũng như triển vọng tiến bộ về mặt nghề nghiệp, đều bị giảm sút một cách rõ rệt, do một sự khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần được công nhận rõ ràng”. Ở Việt Nam, khái niệm NKT chỉ mới được sử dụng vào khoảng năm 2006, còn về trước đó chúng ta sử dụng khái niệm “người tàn tật”, thậm chí gọi gộp “người tàn tật khuyết tật” để nói về những người bị khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng. Cụ thể, trong Pháp lệnh số 06/1998/PL-UBTVQH10 của Ủy ban Quốc hội về Người tàn tật, tại Điều 1 có ghi nhận và giải thích: “Người tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Tuy nhiên có thể nhìn thấy rằng, luật pháp quốc tế không cho rằng cách gọi tàn tật là đúng, vì giữa người tàn tật và NKT là hai khái niệm khác nhau. Theo quan điểm của Ủy ban về các quyền của người khuyết tật, NKT trở thành “tàn tật” là vì do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như thành viên khác của xã hội. Do đó, việc đánh đồng hai khái niệm “tàn” và “khuyết” là một sẽ làm hạn chế sự tham gia và hòa nhập vào cộng đồng của người khuyết tật. Ngày 17.6.2010, Quốc hội chính thức thông qua LNKT thay thế cho Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998, từ đây khái niệm NKT chính thức được thừa nhận và sử dụng rộng rãi: “NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Khái niệm này được sự dụng rộng rãi trong hầu hết các văn bản điều chỉnh về người khuyết tật sau này, ví dụ như Bộ luật lao động năm 2012, Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015, Thông tư số 03/2018/TT-BGDĐT quy định về giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật. Như vậy, NKT là người khiếm khuyết về bộ phận cơ thể dẫn đến bị hạn chế trong quá trình tham gia vào các hoạt 8 động hàng ngày. Cũng như các nước Anh, Mỹ, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận người bị khiếm khuyết về tinh thần và trí tuệ là người khuyết tật. Cụ thể là tại Điều 3 LNKT năm 2010 có quy định về dạng tật và mức độ khuyết tật, cụ thể: Khuyết tật vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần kinh, tâm thần; Khuyết tật trí tuệ… Vì nhìn nhận từ thực tế thì những người bị suy giảm về tinh thần và trí tuệ, nhất là trẻ em cũng gặp rất nhiều rào cản trong sinh hoạt và hòa nhập cùng cộng đồng, chẳng hạn trẻ em mắc: bệnh tự kỉ, hội chứng tăng động rối loạn, tâm thần phân liệt… Các khiếm khuyết này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển và tăng trưởng bình thường của cá nhân, dễ có những hành vi không kiểm soát được. Từ những phân tích trên, có thể hiểu “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần dẫn đến suy giảm lâu dài về khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày”. 1.1.2. Đặc điểm người khuyết tật Thứ nhất, NKT là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần. Một người bị xem là khuyết tật khi người đó bị khiếm khuyết về các bộ phận trên cơ thể hoặc/và tinh thần, trí tuệ. Sự khiếm khuyết đó có thể vì nhiều nguyên nhân như: bẩm sinh, bệnh tật, tai nạn hay nguyên nhân đến từ chiến tranh, thảm họa thiên nhiên… Điều 3, LNKT 2010 và Điều 2, Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LNKT quy định cụ thể về các dạng tật mà NKT có thể mắc phải bao gồm: Một là, khuyết tật vận động. Khuyết tật vận động là một dạng khiếm khuyết làm cho NKT suy giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. NKT vận động thường không thể tự mình hoặc gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hà ng ngày như người bình thường. Họ chủ yếu phải nhờ sự giúp đỡ của người khác hoặc máy móc hỗ trợ mới có thể sinh hoạt. Hai là, khuyết tật nghe, nói. Khuyết tật nghe, nói là tình trạng suy giảm hoặc 9 mất hoàn toàn chức năng nghe, nói hoặc cả hai, không thể phát âm thành tiếng, câu rõ ràng và nghe hiểu dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói với những người xung quanh. Ba là, khuyết tật nhìn. Khuyết tật nhìn là tình trạng cá nhân bị giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Tuy nhiên, so với khái niệm này thì người cận thị nặng cũng có thể xem là NKT vì họ cũng bị giảm về khả năng nhìn, cảm nhận ánh sáng, màu sắc, sự vật. Theo WHO định nghĩa thì khuyết tật nhìn là tình trạng suy giảm khả năng nhìn ở một mức độ nhất định gây ra những vấn đề không thể khắc phục bằng phương tiện hỗ trợ thông thường như kính, mà sau khi điều chỉnh thị lực tốt nhất kém hơn 20/40 hoặc 20/60 theo thang điểm thị lực [56, tr.20]. Bốn là, khuyết tật thần kinh, tâm thần. Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường. Năm là, khuyết tật trí tuệ; khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc như người thường. Thứ hai, khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần của NKT phải là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm lâu dài về khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hằng ngày Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật (DDA) do Quốc hội Anh ban hành - nay chỉ có hiệu lực ở Bắc Ireland, khi xét về mặt thời gian tác động của những khiếm khuyết dẫn đến suy giảm về khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt của NKT thì sự suy giảm đó phải kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài, nếu ít hơn 12 tháng bình thường thì không được coi là NKT, trừ khi là bị tái phát đi tái phát lại [49, tr.51]. Nghĩa là, NKT thì ngoài sự khiếm khuyết về cơ thể hoặc/và tinh thần, thì còn phải đáp ứng điều kiện về mặt thời gian mà sự suy giảm về cơ thể hoặc/và tinh thần đó gây ra cho họ dẫn đến những hạn chế trong cuộc sống. Khoảng thời gian suy giảm đó phải đủ lâu để làm ảnh hưởng đến các hoạt động sinh hoạt 10 thông thường cũng như là khả năng tự lao động nuôi sống bản thân của chính NKT đó. Pháp luật Việt Nam không giới hạn cụ thể sự suy giảm kéo dài bao lâu thì được xem là khuyết tật. Tuy nhiên, dựa vào các quy định về “xác nhận khuyết tật” tại chương II, LNKT năm 2010 và mẫu phiếu 01 xác định mức độ khuyết tật quy định tại Thông tư số 01/2019/TT-BLĐTBXH về việc xác định mức độ khuyết tật do hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện thì có thể thấy tình trạng khiếm khuyết được đánh giá là phải diễn ra rất lâu dài, không có cơ hội phục hồi hoặc có nhưng tỉ lệ phục hồi rất thấp. Chính sự suy giảm lâu dài đó là rào cản hạn chế NKT trong thực hiện các hoạt động sinh hoạt hằng ngày và hòa nhập với cộng đồng. Ở Mỹ, lần đầu tiên cụm từ khuyết tật được sử dụng trong các văn bản pháp luật là vào năm 1880 và khái niệm lúc bấy giờ cũng khác so với cách định nghĩa về NKT như hiện nay. Cụ thể, vào thời kỳ này khái niệm NKT chỉ tập trung nhận dạng NKT dựa vào các điều kiện sức khỏe như bệnh liên quan đến giác quan, tứ chi, trạng thái tinh thần mà không tập trung vào mối quan hệ giữa sự suy giảm sức khỏe, chức năng với sự tham gia vào các hoạt động xã hội của cá nhân đó. Khái niệm này mãi đến năm 1970 mới được điều chỉnh và một người được xem là NKT khi và chỉ khi sự suy giảm về cơ thể hoặc/và tinh thần khiến họ hạn chế trong khả năng sinh hoạt và làm việc. Như vậy, có thể thấy rằng NKT là người bị khiếm khuyết về cơ thể hoặc/và tinh thần thôi là chưa đủ, mà khiếm khuyết đó phải dẫn đến sự suy giảm như thế nào về vận động, di chuyển và thực hiện các hoạt động cần thiết để phục vụ nhu cầu của cá nhân đó và gia đình họ. Thông qua đó, mỗi quốc gia sẽ có những chính sách hỗ trợ phù hợp để kéo ngắn khoảng cách tham gia vào cộng đồng của người khuyết tật, giảm thiểu dần đi sự khó khăn bởi các khiếm khuyết tạo ra. 1.2. Lao động là người khuyết tật 1.2.1. Khái niệm lao động là người khuyết tật Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Theo từ điển Tiếng Việt năm 2018 do giáo sư Hoàng Phê làm chủ biên thì: “Lao động là hoạt động có mục 11 đích của con người nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội” [33, tr.485]. Hay nói cách khác, lao động chính là quá trình kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người. Ngày nay, con người sử dụng sức lao động của mình không chỉ gói gọn trong việc tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu cấp thiết của mình mà còn sử dụng nó để tìm kiếm thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Theo khoản 1 Điều 3 Luật việc làm 2013 thì: “Người lao động là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc”. Và khoản 1 Điều 3 của BLLĐ năm 2012: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Khi có nhu cầu tìm kiếm việc làm, các cá nhân phải ứng tuyển và đáp ứng các yêu cầu đặt ra của người tuyển dụng thì mới được tuyển vào doanh nghiệp. Tại đó, quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động được thể hiện thông qua một hợp đồng. Và người sử dụng lao động sẽ phải chi trả một khoản tiền lương xứng đáng với sức lao động mà người lao động đã bỏ ra. Như vậy, có thể nói lao động không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc tạo ra giá trị phục vụ nhu cầu cần thiết của bản thân, mà nó còn là nguồn đem lại thu nhập lớn cho cá nhân biết khai thác và sử dụng. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốcghi nhận: “Mỗi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp”. Và NKT cũng không là ngoại lệ. Để tham gia vào quan hệ lao động, trở thành người lao động thì NKT phải đảm bảo các điều kiện về chủ thể đặt ra theo yêu cầu của pháp luật lao động. Thứ nhất, về độ tuổi. Theo quy định của BLLĐ năm 2012 và Nghị định 148/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của BLLĐ thì NKT muốn trở thành chủ thể và tham gia kí kết hợp đồng lao động phải là người thuộc các trường hợp sau đây: (i) Người lao động từ đủ 12 18 tuổi trở lên; (ii) Người lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người lao động; (iii) Người đại diện theo pháp luật đối với người dưới 15 tuổi và có sự đồng ý của người dưới 15 tuổi; (iv) Người lao động được những người lao động trong nhóm ủy quyền hợp pháp giao kết hợp đồng lao động. Thứ hai, NKT phải có khả năng lao động. NKT là người có những khiếm khuyết làm hạn chế trong thực hiện các hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên không vì thế mà nhầm lẫn giữa khiếm khuyết và không có khả năng lao động hay mất khả năng lao động. Dẫn chiếu theo quy định tại mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tối hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng , quy định về “mất khả năng lao động” được bồi thường thiệt hại như sau: “Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại”. Theo khoản 2 Điều 3 LNKT năm 2010 thì NKT được chia thành ba nhóm dựa theo mức độ khuyệt tật gồm có: NKT đặc biệt nặng, NKT nặng và NKT nhẹ. Từ những phân tích trên, ngoại trừ những NKT mà được cơ quan có thẩm quyền xác định mức độ khuyết tật làm suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì NKT vẫn có đủ khả năng lao động và tiếp ứng công việc theo yêu cầu đặt ra của người sử dụng lao động. Thứ ba, phải do chính NKT thực hiện trên thực tế. Quan hệ lao động là quan hệ tồn tại yếu tố phụ thuộc pháp lý giữa người lao động và người sử dụng lao động phát sinh thông qua hợp đồng lao động. Trên cơ sở hiệu quả công việc mà người lao động thực hiện, người sử dụng lao động sẽ trả một khoản tiền công tương ứng. Chính vì vậy, quan hệ lao động mang tính đích danh, phải do chính người lao động thực hiện. NKT khi kí hợp đồng và trở thành người lao động, thì phải tự mình thực 13 hiện những công việc được giao theo đúng thỏa thuận. Ngoài ra, với tính đặc thù là sự khiếm khuyết về thể chất hoặc/và tinh thần khiến NKT gặp nhiều khó khăn để có thể thực hiện các công việc trong điều kiện và môi trường làm việc như người bình thường. Theo ILO thì cơ hội có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó của NKT bị bị hạn chế rất nhiều bởi hậu quả của các khiếm khuyết. Vì vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có những chính sách và cơ chế riêng đối với lao động là người khuyết tật. Một phần là để hỗ trợ họ trong quá trình lao động tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, phần khác làm tốt các chính sách này sẽ giúp quốc gia đó khai thác và sử dụng nguồn lao động trong xã hội một cách hợp lý và hiệu quả. Do đó, không doanh nghiệp nào được quyền từ chối nếu NKT tham gia ứng tuyển và đáp ứng được tất cả các điều kiện tuyển dụng mà người sử dụng lao động đặt ra cũng như các điều kiện về mặt chủ thể do pháp luật quy định. Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm: “Lao động là người khuyết tật là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có những khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần nhưng vẫn có khả năng lao động và làm việc theo hợp đồng lao đồng, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Nhà nước luôn tạo điều kiện tốt nhất để NKT phục hồi khả năng lao động, được làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật. LNKT năm 2010 cũng nghiêm cấm các doanh nghiệp từ chối tuyển dụng hoặc đặt ra các yêu cầu trái pháp luật nhằm hạn chế hoặc từ chối cơ hội tìm kiếm việc làm của lao động là người khuyết tật. 1.2.2. Tính đặc thù của lao động là người khuyết tật Lao động đặc thù là lao động có những đặc điểm riêng biệt về thể chất, tinh thần, chức năng sinh học… Cũng như lao động nữ, lao động chưa thành niên hay lao động cao tuổi, lao động là NKT có những đặc điểm riêng dẫn đến họ chỉ phù hợp trong những điều kiện lao động nhất định: Một là, lao động là NKT là người lao động mà khả năng lao động, trụ lâu dài với một công việc và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của sự khiếm 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan