Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. thực tiễn áp dụng t...

Tài liệu Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. thực tiễn áp dụng tại văn phòng luật sư interla

.DOC
48
1241
149

Mô tả:

TÓM LƯỢC Ở Việt Nam, DVPL mới khởi động và phát triển từ những năm 90 của thế kỷ 20 trở lại đây. So với bề dầy truyền thống nghề luật ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp…thì kinh nghiệm hành nghề của giới luật gia Việt Nam là quá ít ỏi và chưa bài bản. Các tổ chức, cá nhân cũng chưa có thói quen sử dụng DVPL cho các hoạt động của mình. Tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước ở Việt Nam vẫn còn, với sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân nên rất cần có sự trợ giúp của nhà cung cấp DVPL. Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở Việt Nam hiện nay còn chưa hoàn chỉnh và được quy định ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như: Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005. Các đạo luật chuyên ngành và một số văn bản dưới luật, bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động DVPL của các nhà cung cấp DVPL ký kết HĐDVPL với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng DVPL. Các văn bản pháp luật nêu trên quy định về hợp đồng, HĐDV và DVPL chứ không quy định trực tiếp về HĐDVPL. Điều đó dẫn đến một thực tế là trong một số trường hợp cùng một vấn đề nhưng lại được điều chỉnh bằng nhiều quy định của các văn bản khác nhau và những quy định đó lại chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Ngược lại, có nhiều vấn đề lại không được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh hoặc quy định không rõ ràng hoặc quá chung chung…gây khó khăn, lúng túng cho các chủ thể HĐDVPL, cho hoạt động QLNN và hoạt động giải quyết tranh chấp về HĐDVPL. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng các HDDVPL vì vậy để làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla: Những mặt thuận lợi, tích cực cũng như những khó khăn, hạn chế. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý trong thương mại nói chung đồng thời nâng cao hiệu quả quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla đối với các khách hàng. Vấn đề về giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý trong thương mại rất rộng lớn và còn nhiều vấn đề. Với khoảng thời gian nghiên cứu không nhiều, em chưa thể đề cập được chi tiết, mọi khía cạnh vấn đề nghiên cứu và không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo cũng như ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô. Đây là một đề tài có tính thời sự và thực tiễn cao. Hoàn thành đề tài này sẽ là một đóng góp đáng kể vào việc hoàn thiện pháp luật HĐDVPL và phát triển TMDVPL ở Việt Nam. i LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại học Thương Mại, những người đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt những kiến thức bổ ích cho em, đó chính là những nền tảng cơ bản, là hành trang vô cùng quý giá, là bước đầu tiên cho em bước vào sự nghiệp sau này. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Trần Thành Thọ, cảm ơn thầy đã tận tình quan tâm, giúp đỡ em trong thời gian qua, nhờ đó em mới có thể hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này. Sau đó, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Thương Mại, Khoa Kinh tế - Luật, Bộ môn Luật Căn Bản Trường Đại học Thương Mại đã tạo điều kiện giúp em hoàn thành bài khóa luận này. Trong thời gian thực tập tại văn phòng luật sư Interla, em đã nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của trưởng văn phòng luật sư, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô chú, anh chị của các phòng ban đã giúp em tìm hiểu thực tế về môi trường làm việc của văn phòng luật sư Interla. Qua đó, em đã có được những kiến thức nhất định về pháp luật , đây sẽ là hành trang cho sự nghiệp của em sau này. Vì vậy, em xin chân thành cảm ơn tới Ban lãnh đạo, toàn thể các cô chú, anh chị trong thời gian thực tập vừa qua. Trong quá trình làm khóa luận vì trình độ của bản thân và thời gian thực tập còn hạn chế nên em kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ phía các thầy cô giáo để kiến thức của em được hoàn thiện hơn và bài khóa luận được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! ii MỤC LỤC TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................ii MỤC LỤC................................................................................................................... iii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................................v LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................1 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan...................................................1 3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................2 4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài.........................................3 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài..............................................................................4 6. Kết cấu khóa luận....................................................................................................4 CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ..........................5 1.1. Một số khái niệm cơ bản của hợp đồng dịch vụ pháp lý....................................5 1.1.1 Khái niệm về hợp đồng........................................................................................5 1.1.2 Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý...................................................................6 1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ pháp lý.............................................................9 1.1.4. Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý.................................................................13 1.2. Cơ sở ban hành và nội dung điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý..................................................................................................13 1.2.1. Pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý.......13 1.2.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý.................................................................................................................... 14 1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh giao kết và thực hiện HĐDVPL.............18 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ INTERLA...................................................................................................................20 2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý..................................................................................................20 2.2. Thực trạng các qui phạm pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý..................................................................................................21 iii 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển..................................................................21 2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng luật sư Interla.....................................22 2.2.3. Mô hình và cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành...............................................22 2.2.4 Các qui phạm pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla.........................................................................23 2.3. Quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla....................................................................................................................24 2.3.1. Qúa trình giao kết HĐDVPL tại văn phòng luật sư Interla............................24 2.3.2. Quá trình thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Interla..................................................................................................................... 26 2.3.3. Tranh chấp phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại VPLS Interla, cách giải quyết và xử lý.....................................................27 2.4. Một số nhận xét và đánh giá về thực trạng giao kết và thực hiện HĐDVPL tại văn phòng luật sư Interla..........................................................................................27 2.4.1. Những thành tựu mà văn phòng luật sư Interla đã đạt được trong quá trình giao kết và thực hiện HĐDVPL..................................................................................27 2.4.2. Những khó khăn trong quá trình giao kết và thực hiện HĐDVPL tại văn phòng luật sư Interla..................................................................................................28 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ INTERLA...................................................31 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện HĐDVPL.............................................................................................31 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện HĐDVPL.........33 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về đối tượng hợp đồng dịch vụ pháp lý...................33 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ của chủ thể hợp đồng dịch vụ pháp lý là bên cung ứng dịch vụ pháp lý, đặc biệt là nghĩa vụ cung cấp thông tin...................33 3.2.3. Hoàn thiện các quy định về chất lượng dịch vụ pháp lý..................................34 3.2.4. Hoàn thiện các qui định về thù lao dịch vụ pháp lý.........................................34 3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................................................34 KẾT LUẬN................................................................................................................35 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................36 PHỤ LỤC iv DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tăt BLDS DVPL HĐDVPL TMDVPL LDN LTM LLS VPLS CCHN HĐDV Giải nghĩa của từ viết tắt Bộ luật dân sự Dịch vụ pháp lý Hợp đồng dịch vụ pháp lý Thương mại dịch vụ pháp lý Luật doanh nghiệp Luật thương mại Luật luật sư Văn phòng luật sư Chứng chỉ hành nghề Hợp đồng dịch vụ TNHH Trách nhiệm hữu hạn DN DNTN WTO Doanh nghiệp Doanh nghiệp tư nhân Tổ chức thương mại thế giới GATS Hiệp định thương mại dịch vụ v LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên một yêu cầu tất yếu, cấp bách đối với Việt nam. Trong bối cảnh đó, các tổ chức và cá nhân cần có sự trợ giúp pháp lý một cách thường xuyên nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch của mình. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của DVPL cho các tổ chức và cá nhân ở tầm quốc tế. Các chủ thể tham gia nhiều giao dịch liên quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Hình thức pháp lý của các giao dịch đó là hợp đồng. Để các giao dịch của các chủ thể diễn ra an toàn và hiệu quả thì cần phải có sự trợ giúp pháp lý từ phía các nhà cung cấp DVPL. Việc trợ giúp pháp lý của nhà cung cấp DVPL đối với bên sử dụng DVPL được thể hiện dưới hình thức HĐDVPL. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể HĐDVPL, đặc biệt là của bên sử dụng DVPL và phòng ngừa tranh chấp xảy ra, đòi hỏi pháp luật về HĐDVPL phải không ngừng hoàn thiện. Đồng thời hệ thống pháp luật quốc gia về HĐDVPL phải phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Do đó khi áp dụng các qui phạm pháp luật về DVPL vào thực tế cho thấy còn nhiều tồn tại. Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ thực tiễn trong các hoạt động DVPL mà em nhận thấy được trong quá trình thực tập văn phòng luật sư Interla. Em cho rằng việc hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật về hợp đồng thương mại nói chung và HĐDVPL nói riêng là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế của một đất nước đang hội nhập kinh tế với nền kinh tế thế giới như Việt Nam ta. 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan. Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, DVPL đã được ghi nhận, cho phép thành lập và hoạt động (tuy chỉ đối với hoạt động của luật sư) và chỉ được xác lập trở lại và phát triển khá mạnh mẽ từ hơn hai thập kỷ qua. Trong khoảng thời gian đó, đã có một số nghiên cứu về DVPL ở các khía cạnh khác nhau với phạm vi nghiên cứu khác nhau, như giáo trình, sách chuyên khảo, chuyên đề, nhưng chủ yếu tồn tại dưới hình thức những bài viết đăng trên tạp chí, đăng trên kỷ yếu hội thảo và đề tài nghiên cứu của một số cá nhân, tổ chức về DVPL. Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về HĐDVPL. Có thể sắp xếp 1 nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan đến HĐDVPL đã được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua như sau: 1/ Nguyễn Như Chính (2011), Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2/ Chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Mơ - Khoa luật, Trường đại học Quốc gia Hà Nội (2011), “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ - thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ”. Ngoài việc tìm hiểu những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ, đề tài đi sâu vào việc phân tích những vụ việc thực tế về giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ. 3/ Phan Chí Hiếu (2005), Hoàn thiện chế định hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 4. 4/ Hoàng Thị Vịnh (2014), Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ luật học. Học viên khoa học xã hội. 5/ Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Tuân đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số Chuyên đề Pháp luật về Doanh nghiệp. Tóm lại, các nhóm công trình trên đã nghiên cứu, đánh giá những vấn đề có liên quan đến HĐDVPL ở những khía cạnh khác nhau và là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu pháp luật HĐDVPL. Tuy nhiên, do có những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên các tác giả chưa đề cập một cách toàn diện, sâu sắc và có hệ thống các vấn đề lý luận về DVPL cũng như pháp luật về HĐDVPL, mà chưa đi sâu vào nghiên cứa các qui định về giao kết và thực HĐDVPL nên các thông tin về HĐDVPL còn bị hạn chế. Do đó có nhiều cách khác nhau trong việc áp dụng các qui định của pháp luật về HĐDVPL vào thực tiễn cũng là điều tất yếu. Nhằm hiểu và áp dụng các qui định của pháp luật về giao kết và thực hiện các HĐDVPL trong các hoạt động thương mại như thế nào? Thực trạng áp dụng các qui định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý của văn phòng luật sư Interla diễn ra như thế nào? Các đề xuất giải pháp hoàn thiện các qui định pháp luật về giao kết và thực HĐDVPL. 3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu. Qua thời gian tìm hiểu thực tế từ ngày 05/01/2015 đến ngày 29/04/2015 về các hợp đồng dịch vụ pháp lý của văn phòng luật sư Interla cho thấy bên cạnh những kết quả đạt 2 được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định trong việc hoàn thiện về hợp đồng dịch vụ pháp lý của văn phòng luật sư Interla. Do vậy để vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý trở thành đòn bẩy đối với văn phòng luật sư Interla, thực sự phát huy vai trò của mình thì cần phải có những biện pháp để hoàn thiện hơn việc giao kết và thực hiện HĐDVPL của văn phòng luật sư hiện nay là cần thiết. Trên cơ sở đó em lựa chọn đề tài: “ Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. Thực tiễn áp dụng tại văn phòng luật sư Interla” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là: Các quan điểm, tư tưởng luật học về DVPL và HĐDVPL, các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về HĐDVPL, cam kết của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế về DVPL, pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế về HĐDVPL, thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. 4.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài khóa luận Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam. Thứ hai, phân tích thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Interla. Từ đó, đánh giá những bất cập, hạn chế trong qui định của pháp luật, của công ty. Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Interla nói riêng, cũng như của Việt Nam nói chung. 4.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài khóa luận Do kiến thức còn hạn hẹp và thời gian nghiên cứu không nhiều nên khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu: - Những quy định hiện hành của pháp luật trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý, như LTM 2005, BLDS 2005,... và một số văn bản luật chuyên ngành khác. - Việc giao kết và thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Interla 3 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, khóa luận vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ khóa luận để đánh giá khách quan sự thể hiện của các qui định của pháp luật về HĐDVPL. Khóa luận cũng được nghiên cứu dựa trên đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát triển TMDV và hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể và phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế nhằm minh chứng cho những lập luận, cho những nhận xét đánh giá, kết luận khoa học của khóa luận và đặc biệt là phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử được sử dụng xuyên suốt khóa luận để phân tích, đối chiếu so sánh những quy định pháp luật về HĐDVPL để thấy sự phát triển của pháp luật về HĐDVPL của nước ta cũng như những điểm tương đồng và khác biệt, những hạn chế, bất cập của pháp luật về HĐDVPL của Việt nam so với các quy định của WTO và pháp luật quốc tế. Để hoàn thành mục đích nghiên cứu thì có sự kết hợp giữa các phương pháp trong từng phần của khoá luận. Đối với mỗi mục thì có một số phương pháp nghiên cứu chủ đạo để làm rõ mục đích nghiên cứu. 6. Kết cấu khóa luận Ngoài tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết luận, nội dung khóa luận kết cấu gồm 03 chương: Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. 4 CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ 1.1. Một số khái niệm cơ bản của hợp đồng dịch vụ pháp lý. 1.1.1 Khái niệm về hợp đồng Hợp đồng là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu và hiện tại có khá nhiều khái niệm về hợp đồng. Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp luật cũng khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem hợp đồng như một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc pháp lý cơ bản của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel: “Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng được xem là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của người khác 1 Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp đồng như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên” 2 Có thể nói, thuật ngữ ‘Hợp đồng’ là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm ‘hợp đồng’ theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, ‘hợp đồng’ là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội Sammuel, Geoffrey, Law of Obligations and legal Remedies, 2nd ed., Cavendish, London 2001. (Tr 278) 2 Sammuel, Geoffrey, Law of Obligations and legal Remedies, 2nd ed., Cavendish, London 2001. (tr.283 – 284). 1 5 (chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện”. 3 Ở Việt Nam, khái niệm hợp đồng không được định nghĩa cụ thể trong văn bản pháp luật nào, BLDS 2005 định nghĩa về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.4 Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy: Hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có thể nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. 1.1.2 Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý Quan hệ cung ứng DVPL được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là HĐDVPL. HĐDVPL có bản chất chung của hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cung ứng DVPL. Theo nguyên tắc áp dụng luật chung và luật chuyên ngành trong trường hợp cùng điều chỉnh quan hệ HĐDVPL thì các nguyên tắc và quy định đối với HĐDV trong BLDS và LTM 2005 cũng được áp dụng cho HĐDVPL. BLDS 2005 định nghĩa: “HĐDV là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên làm dịch vụ thực hiện một công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên làm dịch vụ” (Điều 518). Điều 74 LTM 2005 không định nghĩa hợp Đinh Văn Thanh, Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự, Luật học, số 4/1999, (Tr.19) 4 Điều 388, BLDS 2005 về: “Hợp đồng dân sự” 3 6 đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại. Nội dung các quy định về HĐDV trong LTM được xây dựng theo xu hướng cụ thể hóa các nguyên tắc và quy định về HĐDS trong BLDS. LLS 2006 quy định “Luật sư thực hiện DVPL theo HĐDVPL, trừ trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức. HĐDVPL phải được làm thành văn bản” (Điều 26). Như vậy, đối với hoạt động cung ứng DVPL của luật sư, pháp luật đã có quy định chính thức về việc quan giữa luật sư và khách hàng là quan hệ HĐDVPL và phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Các luật chuyên ngành khác về DVPL, tuy không đưa ra định nghĩa về HĐDVPL nhưng căn cứ vào bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý của các quan hệ cung ứng DVPL cụ thể cũng như xem xét các quan hệ cung ứng này trong sự so sánh với quan hệ cung ứng DVPL của luật sư, có thể khẳng định quan hệ giữa bên cung ứng DVPL và bên sử dụng các loại hình DVPL khác là quan hệ HĐDVPL. Từ các quy định của BLDS, LTM và các luật chuyên ngành về DVPL, có thể khẳng định HĐDVPL là một dạng của HĐDVTM. HĐDVPL mang đầy đủ các dấu hiệu của HĐDVTM đó là: i) là sự thỏa thuận giữa hai bên (bên cung ứng DVPL và bên sử dụng DVPL); ii) Nội dung HĐDVPL chứa đựng quyền và nghĩa vụ của các bên. Đa số HĐDVPL là loại hợp đồng song vụ, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Có một số ít HĐDVPL là loại hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba (trường hợp thân nhân của bị can, bị cáo bị tạm giam mời luật sư bào chữa cho họ). Theo đó, bên cung ứng thực hiện cho bên sử dụng DVPL một hoặc nhiều công việc có liên quan đến pháp luật thuộc lĩnh vực hành nghề đã đăng ký hoạt động cho bên sử dụng DVPL còn bên sử dụng DVPL có quyền sử dụng DVPL theo thỏa thuận và có nghĩa vụ thanh toán; iii) Mục đích của bên cung ứng DVPL là nhận thù lao còn mục đích của bên sử dụng DVPL là nhằm thỏa mãn nhu cầu về DVPL; iv) HĐDVPL không bắt buộc phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. HĐDVPL là loại HĐTMDV chứa đựng đặc điểm của một số loại HĐTMDV khác. Cụ thể là một số HĐDVPL có những điểm tương đồng với hợp đồng đại diện cho thương nhân, đó là bên đại diện được nhân danh và vì lợi ích của bên được đại diện để tiến hành các công việc do bên được đại diện giao, mang lại quyền và nghĩa vụ 7 cho bên được đại diện. Tuy nhiên, đại diện trong hoạt động DVPL là để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật thuộc lĩnh vực hành nghề của bên cung ứng DVPL (chẳng hạn luật sư đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn để khởi kiện và tham gia tố tụng trong vụ kiện đòi nợ), còn đại diện cho thương nhân trong hoạt động thương mại là để thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực hoạt động của bên giao đại diện (hợp đồng đại lý là một điển hình). Bên cạnh đó, hai loại hợp đồng này còn có sự khác nhau ở yếu tố chủ thể. Chủ thể HĐDVPL chỉ yêu cầu bên cung ứng DVPL là tổ chức hành nghề chuyên nghiệp (đa số trong số đó là thương nhân), chủ thể hợp đồng đại diện cho thương nhân bắt buộc hai bên đều phải là thương nhân. HĐDVPL cũng có nhiều điểm tương đồng với một số HĐDV khác (hợp đồng dịch vụ kiểm toán, hợp đồng dịch vụ giám định, hợp đồng bán đấu giá hàng hóa...), đó là bên cung ứng dịch vụ thực hiện cho bên sử dụng dịch vụ một công việc thuộc lĩnh vực hành nghề đã đăng ký hoạt động của mình và những dịch vụ này phải do những cá nhân có CCHN của bên cung ứng dịch vụ thực hiện. Tuy nhiên, công việc thuộc lĩnh vực hành nghề của bên cung ứng dịch vụ trong những hợp đồng nêu trên không phải là DVPL và CCHN của cá nhân thực hiện công việc là đối tượng hợp đồng không phải là CCHN cung ứng DVPL. Người thực hiện DVPL trong HĐDVPL là người có CCHN cung ứng một loại hình DVPL nhất định và để được cấp CCHN, người thực hiện DVPL phải đáp ứng nhiều điều kiện gắn với nghề luật, trong đó có một điều kiện đặc trưng về trình độ chuyên môn phải có bằng đại học luật và phải có kỹ năng hành nghề luật qua yêu cầu phải tốt nghiệp lớp đào tạo nghề cung ứng DVPL (chẳng hạn lớp đào tạo nghề luật sư), đã trải qua thời gian tập sự hành nghề cung ứng DVPL (để làm thử công việc cung ứng DVPL dưới sự hướng dẫn của các cá nhân có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cung ứng DVPL) và phải là thành viên của một tổ chức hành nghề cung ứng DVPL (không được làm một nghề khác, thể hiện sự chuyên tâm vào việc hành nghề cung ứng DVPL). Người thực hiện dịch vụ trong các HĐDV nói trên cũng phải đáp ứng những điều kiện về chuyên môn và kỹ năng hành nghề nhưng không gắn với chuyên môn “nghề luật” mà gắn với từng chuyên môn khác nhau (nghiệp vụ kiểm toán, nghiệp vụ giám định các sản phẩm văn học, nghệ thuật, nghiệp vụ đấu giá hàng hóa,...). Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa về hợp đồng dịch vụ pháp lý như sau: Hợp đồng dịch vụ pháp lý là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cung 8 ứng cung cấp một hoặc nhiều dịch vụ pháp lý cho bên thuê dịch vụ để nhận thù lao, còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. 1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ pháp lý. 1.1.3.1. Bên cung ứng DVPL phải là các tổ chức hành nghề có đủ các điều kiện theo qui định của pháp luật Để có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ HĐDVPL với tư cách là bên cung ứng DVPL, bên cung ứng DVPL phải là các tổ chức hành nghề tồn tại hợp pháp, có thẩm quyền cung cấp DVPL và có quyền cung ứng loại hình DVPL đã đăng ký. Cụ thể, bên cung ứng DVPL phải đáp ứng các điều kiện sau: a) được tổ chức dưới hình thức các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL hoặc người cung ứng DVPL hành nghề với tư cách cá nhân (gọi chung là tổ chức cung ứng DVPL) b) đã đăng ký hoạt động cung ứng DVPL và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc cấp giấy phép hoạt động DVPL c) cung ứng loại DVPL đúng lĩnh vực và đúng loại hình DVPL của tổ chức hành nghề. Ví dụ. Tổ chức hành nghề luật sư chỉ được đăng ký hành nghề đối với một số hoặc cả 4 lĩnh vực hành nghề luật sư quy định tại LLS 2006, không được đăng ký và cung ứng các DVPL thuộc loại hình DVPL (lĩnh vực hành nghề) của công chứng viên hoặc của thừa phát lại và ngược lại. Ngoài ra, tổ chức cung ứng DVPL không được đăng ký kinh doanh để hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ đối với bất kỳ ngành, nghề nào khác. 1.1.3.2. Phương thức ký kết và hình thức tồn tại đặc biệt của hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đa số các HĐDVPL được ký kết theo hai phương thức ký kết HĐDV truyền thống đó là phương thức trực tiếp và phương thức gián tiếp và tồn tại dưới các hình thức do pháp luật quy định. Tuy nhiên, có một số loại HĐDVPL, phương thức ký kết và hình thức tồn tại rất đặc biệt nhưng vẫn thể hiện được đầy đủ sự thỏa thuận của các bên. Việc đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng được thể hiện bằng những cách thức và dưới những hình thức rất đặc thù hay nói cách khác hoàn toàn không tồn tại một bản HĐDVPL độc lập, chứa đựng đầy đủ nội dung của một HĐDVPL và không được thể hiện dưới một hình thức truyền thống nhất định nào mà tồn tại dưới hình thức sự pha trộn các hình thức tồn tại của một HĐTMDV. HĐDVPL loại này được giao kết và phát sinh hiệu lực khi bên sử dụng DVPL có yêu cầu và bên cung ứng chấp nhận thực 9 hiện một hoặc nhiều công việc thuộc lĩnh vực hành nghề của mình cho bên yêu cầu. Quá trình thực hiện cũng đồng thời là quá trình các bên tiếp tục đưa ra những thỏa thuận và đề nghị mới thuộc nội dung hợp đồng. HĐDVPL của Công chứng viên và Thừa phát lại là những loại hợp đồng có phương thức ký kết và hình thức tồn tại điển hình của trường hợp này. 1.1.3.3. Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính đối nhân và tính rủi ro cao. Thứ nhất: Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính đối nhân Tính đối nhân của HĐDVPL thể hiện ngay trong yếu tố hình thức tổ chức của các tổ chức cung ứng DVPL. Hiện nay, pháp luật qui định cho hầu hết tổ chức hành nghề cung ứng các loại hình DVPL dưới hình thức Văn phòng hoặc công ty hợp danh. Đối với hình thức Văn phòng, các luật chuyên ngành qui định “hoạt động như một loại hình doanh nghiệp tư nhân” (Điều 33 LLS), mà DNTN là loại hình DN phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản phát sinh trong kinh doanh. Đối với hình thức công ty hợp danh, cũng đồng nghĩa với việc các thành viên của tổ chức hành nghề phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn về các nghĩa vụ tài sản của tổ chức hành nghề. Ngoài ra, pháp luật cũng cho phép các tổ chức hành nghề tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH để được hưởng chế độ chịu TNHH trong kinh doanh nhưng các công ty luật TNHH đăng ký kinh doanh DVPL ngoài việc tuân theo các quy định của LDN cho loại hình công ty TNHH thì còn phải tuân thủ các qui định của các luật chuyên ngành về DVPL để nhà nước quản lý và kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động hành nghề của nó. Tính đối nhân của DVPL còn được thể hiện bởi yếu tố người thực hiện DVPL. Nhà đầu tư thành lập các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL đồng thời là người thực hiện DVPL (trách nhiệm cao hơn người lao động bình thường). Các công việc thuộc lĩnh vực đã đăng ký hành nghề của tổ chức hành nghề phải do chính nhà đầu tư hoặc thành viên của tổ chức hành nghề thực hiện và họ không được giao lại công việc cho người khác thực hiện nếu không được sự đồng ý của khách hàng. Thứ hai: Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính rủi ro cao HĐDVPL hàm chứa yếu tố rủi ro cao hơn các loại HĐDV khác, bởi các nguyên nhân sau: - Các bên chủ thể HĐDVPL sự bất cân xứng về kiến thức pháp luật HĐDVPL 10 Xuất phát từ đặc điểm của DVPL là gắn liền với pháp luật và bên cung ứng phải là tổ chức hành nghề cung ứng DVPL, tất yếu dẫn đến việc có sự bất cân xứng về ý thức pháp luật giữa các bên đặc biệt là kiến thức pháp luật về HĐDVPL. Bên cung ứng DVPL thường có lợi thế “tuyệt đối” so với bên sử dụng DVPL, bởi lẽ, từ bộ máy quản lý và đội ngũ người thực hiện DVPL đều là các chuyên gia pháp lý, có trình độ chuyên môn và kỹ năng hành nghề luật chuyên nghiệp, hoạt động cung ứng DVPL là hoạt động nghề nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Bên sử dụng DVPL là tổ chức, cá nhân bất kỳ, có thể có hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định nhưng không thể so sánh với bên kia. - Do tính khó xác định của chất lượng DVPL Xuất phát từ bản chất vô hình của sản phẩm DVPL dẫn đến tính khó xác định chất lượng của DVPL. Điều này gây rất nhiều khó khăn, lúng túng cho các chủ thể hợp đồng, đặc biệt là cho bên sử dụng DVPL. Bên sử dụng DVPL trong nhiều trường hợp thường là thiếu hiểu biết pháp luật nên mới cần đến sự giúp đỡ của bên kia, nhưng khi thỏa thuận về điều khoản chất lượng thì chính bên sử dụng DVPL cũng không hiểu rõ DVPL được yêu cầu cung ứng phải đạt chất lượng như thế nào để đáp ứng được mục đích sử dụng và điều khoản chất lượng phải thỏa thuận như thế nào thì mới đạt được sự rõ ràng, chính xác và hợp pháp. Việc khó xác định chất lượng DVPL làm cho chủ thể HĐDVPL không có cơ sở pháp lý để thỏa thuận chất lượng công việc. Mặt khác, là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng mà chủ yếu là từ phía cung ứng DVPL nhưng bên sử dụng DVPL không có căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. - Kết quả DVPL trong một số trường hợp bị phụ thuộc vào trình độ công nghệ của các phương tiện kỹ thuật có liên quan. Quá trình cung ứng một số DVPL, bên cung cấp không chỉ cần sử dụng những tri thức pháp lý và kỹ năng nghề nghiệp, mà còn cần phải dựa trên kết quả hoạt động của các phương tiện kỹ thuật hoặc kết quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức chuyên môn. Do đó, chất lượng DVPL phụ thuộc phần lớn vào mức độ hiện đại của khoa học công nghệ tương ứng (giả thiết kỹ thuật viên khách quan, công tâm và không có bất kỳ tác động nào đến kết quả). Ví dụ: Dịch vụ tranh tụng của luật sư tại các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay trong một số trường hợp phải dựa trên kết quả giám định của cơ quan 11 chức năng có thẩm quyền với việc sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại như: Giám định tâm thần tư pháp, giám định pháp y, giám định ADN,… - Trong một số trường hợp chủ thể HĐDVPL không kiểm soát được kết quả công việc. Gồm: Trường hợp việc thực hiện bị phụ thuộc vào hoạt động của bên thứ ba Đối với những loại hình DVPL khi thực hiện bị phụ thuộc vào hoạt động của bên thứ ba thì chủ thể HĐDVPL bị phụ thuộc vào bên thứ ba ngay từ giai đoạn bàn bạc, thương lượng để đi đến ký kết HĐDVPL. Giai đoạn này, hai bên chủ thể đã phải chú ý để điều chỉnh những điều khoản của HĐDVPL phù hợp với quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bên thứ ba. Có như vậy thì thỏa thuận của chủ thể HĐDVPL mới hợp pháp và đảm bảo khả năng thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Trong quá trình thực hiện HĐDVPL, nhiều DVPL là những hoạt động phối hợp với hoạt động của bên thứ ba trong một hoạt động tổng thể nhất định vì thế kết quả công việc nằm ngoài sự kiểm soát của chủ thể hợp đồng và phụ thuộc có chất quyết định vào chất lượng hoạt động của bên thứ ba trong đó có các yếu tố chủ yếu như chất lượng của nền hành chính nhà nước và nền tư pháp. Bởi lẽ, kết quả công việc không chỉ là kết quả thực hiện của bên cung ứng mà còn là kết quả hoạt động của bên thứ ba. Nói cách khác, hoạt động của nhà cung cấp trong một số trường hợp không cho kết quả độc lập mà cho kết quả tổng hợp, gắn với kết quả hoạt động của bên thứ ba. Trường hợp công việc được thực hiện bởi nhiều người Trong trường hợp công việc được thực hiện bởi nhiều người (nhiều luật sư bào chữa cho một bị can, bị cáo hoặc cùng bảo vệ quyền lợi cho một đương sự) thì kết quả công việc phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức hành nghề, sự tận tâm với công việc của mỗi luật sư trong số đó và như vậy kết quả tổng hợp của việc bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi của các luật sư sẽ không dự liệu trước được. Việc dự liệu trước kết quả tổng hợp của DVPL càng khó khăn hơn khi những người thực hiện DVPL hành nghề tại các tổ chức hành nghề khác nhau. Tương tự như vậy, cùng một DVPL nhưng nếu được thực hiện bởi người thực hiện khác nhau cũng sẽ cho kết quả rất khác nhau. 12 Khả năng sử dụng DVPL của khách hàng Trong trường hợp cùng một công việc được thực hiện bởi cùng một cá nhân nhưng người sử dụng DVPL khác nhau sẽ đạt hiệu quả khác nhau. Bởi lẽ, khả năng tiếp nhận, thụ hưởng kết quả DVPL và sử dụng kết quả để giải quyết vấn đề của các khách hàng là khác nhau. Như vậy, trong những trường hợp nêu trên, các bên chủ thể luôn không kiểm soát được chất lượng công việc là đối tượng HĐDVPL. 1.1.3.4. Quá trình giao kết và thực hiện hầu hết các HĐDVPL bị phụ thuộc vào bên thứ ba Do tính gắn liền với pháp luật nên quá trình giao kết và thực hiện một số HĐDVPL gắn liền và do đó bị phụ thuộc vào hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng (gọi tắt là bên thứ ba). Trong những trường hợp này, hoạt động của bên thứ ba là cơ sở để các bên tham gia quan hệ HĐDVPL thỏa thuận nội dung HĐDVPL, đồng thời cũng thông qua hoạt động của bên thứ ba HĐDVPL mới có khả năng thực hiện được trên thực tế. 1.1.4. Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý 1.1.4.1. Căn cứ vào loại hình tổ chức hành nghề cung cấp DVPL HĐDVPL có thể chia thành 5 loại: HĐDVPL của tổ chức hành nghề luật sư; HĐDVPL của tổ chức hành nghề công chứng; HĐDVPL của tổ chức hành nghề Thừa phát lại; HĐDVPL của Trung tâm tư vấn pháp luật và HĐDVPL của các tổ chức khác. 1.1.4.2. Căn cứ vào nội dung của HĐDVPL HĐDVPL có thể chia thành 8 loại: hợp đồng dịch vụ tranh tụng, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, hợp đồng dịch vụ công chứng, hợp đồng dịch vụ lập vi bằng, hợp đồng dịch vụ tống đạt giấy tờ của tòa án và cơ quan thi hành án, hợp đồng xác minh điều kiện thi hành án, hợp đồng thi hành án và HĐDVPL khác. 1.2. Cơ sở ban hành và nội dung điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. 1.2.1. Pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. 13 Theo Điều 518 BLDS thì Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Như vậy hoạt động dịch vụ pháp lý không chỉ chịu sự điều chỉnh của bộ LDS mà còn chịu sự điều chỉnh của LTM năm 2005. Tùy từng lĩnh vực cụ thể như giám định, tư vấn, đấu thầu, xúc tiến thương mại...chịu sự điều chỉnh của các qui định cụ thể khác nhau. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có qui định khác với quy định của LTM, BLDS thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế. Các bên trong giao dịch nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Như vậyHĐDVPL chịu sự điều chỉnh của LTM 2005, BLDS 2005, Điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế có liên quan. 1.2.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. 1.2.2.1. Vấn đề giao kết HĐDVPL. Việc ký kết hợp đồng phải được xem xét trên các khía cạnh: nguyên tắc giao kết, căn cứ giao kết, chủ thể của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, nội dung và hình thức của hợp đồng, nội dung. Cụ thể:  Nguyên tắc giao kết hợp đồng Nguyên tắc giao kết hợp đồng đó là những tư tưởng chỉ đạo được quán triệt trong những quy phạm pháp luật về hợp đồng, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể trong khi tiến hành ký kết hợp đồng. Trong nền kinh tế thị trường, việc giao kết hợp đồng, về nguyên tắc không còn là kỷ luật của nhà nước, là nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan và các đơn vị kinh tế nữa. Đó là quyền tự do hợp đồng, một trong những nội dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Theo điều 389, BLDS 2005, thì việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ các nguyên tắc: tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.  Căn cứ giao kết hợp đồng 14 Căn cứ để giao kết hợp đồng đó là: theo định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách chế độ, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành; căn cứ theo nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng; căn cứ vào khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của đơn vị mình; căn cứ vào tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo đảm về tài sản của các bên cùng ký kết hợp đồng.  Chủ thể của hợp đồng Chủ thể của hợp đồng là các bên tham gia quan hệ hợp đồng bình đẳng, tự nguyện thỏa thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ với nhau. Chủ thể của HĐDV là các thương nhân. Theo điều 6, LTM 2005 thì thương nhân gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Để trở thành thương nhân các cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì cơ quan nhà nước có toàn quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân. Ngoài ra, chủ thể của hợp HĐDV có thể là chi nhánh của thương nhân nước ngoài. Theo khoản 3, điều 19, LTM 2005 thì chi nhánh của thương nhân nước ngoài có quyền giao kết hợp đồng tại Việt Nam phù hợp với nội dung hoạt động quy định trong giấy phép thành lập chi nhánh và theo quy định của pháp luật.  Đối tượng của hợp đồng Đối tượng của HĐDV là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái với đạo đức xã hội. Theo điều 75, LTM 2005, thương nhân có quyền cung ứng các dịch vụ sau: cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam và sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài; cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt nam sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài.  Hình thức của hợp đồng Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan