Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế...

Tài liệu Pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

.PDF
122
473
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ TUYẾT GIANG PHÁP LUẬT ÁP DỤNG TRONG CÁC HỢP ĐỒNG MUA BẤN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ Mã số : 30 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN BÁ DIỄN HÀ NỘI – NĂM ... 2 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG CÁC HỢP ĐỒNG MUA 8 BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 1.1. Một số vấn đề chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 8 1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 8 1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng 8 1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa 9 1.1.1.3. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 14 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 19 1.1.3. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại quốc tế 21 1.2. Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 23 1.2.1. Khái niệm về luật áp dụng 23 1.2.2. Vai trò của luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1.2.3 Xác định luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 24 27 1.2.3.1. Các nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1.2.3.2. Căn cứ xác định luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 27 34 Chƣơng 2: LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG TƢƠNG QUAN 37 SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI 2.1. Nguồn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam 37 2.1.1 Các điều ước quốc tế 37 2.1.2 Tập quán thương mại quốc tế 39 2.1.3 Pháp luật quốc gia 41 2.1.4 Thói quen trong hoạt động thương mại 42 2.1.5 Các nguồn luật khác 43 2.2. Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam trong tƣơng quan so sánh với pháp luật quốc tế và pháp luật nƣớc ngoài 44 2.2.1 Luật áp dụng cho năng lực chủ thể tham gia hợp đồng 44 2.2.2. Luật áp dụng cho hình thức của hợp đồng 50 2.2.3. Luật áp dụng cho nội dung hợp đồng 53 2.2.3.1. Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hoá theo sự lựa chọn của các bên 55 2.2.3.2. Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hoá theo mối quan hệ gắn bó nhất 65 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG CÁC HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN Ở 79 VIỆT NAM 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật và những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam 3.1.1. Thực trạng áp dụng pháp luật đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam. 3.1.2 Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam 3.2. Những đề xuất hoàn thiện việc áp dụng pháp luật đối với hợp đồng mua bán quốc tế ở Việt Nam KẾT LUẬN PHỤ LỤC 1: Các hiệp định thương mại song phương Việt Nam đã ký với các nước PHỤ LỤC 2: Thống kê các vụ tranh chấp thương mại được Trọng tài quốc tế Việt Nam thụ lý giải quyết TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 79 85 92 99 101 105 112 LỜI NÓI ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài luận văn Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cách thức cơ bản trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa giữa các thương nhân, đóng góp một phần quan trọng vào việc tăng giá trị thương mại thế giới. Theo báo cáo của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), giá trị thương mại thế giới trong các năm 1960 - 1970 tăng trung bình 8,8%/năm, 1971 - 1980 là 5,8%/năm, 19811990 là 5,5%/năm, 1991-1998 là 6,4%/năm [26, tr. 26-27]; trong năm 2005, với mức tăng gần 7%, giá trị thương mại hàng hóa thế giới đã tăng hơn rất nhiều so với tốc độ tăng hàng năm giai đoạn 2000-2005 [65, tr. 2]. Ở Việt Nam, sau khi Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết năm 2000, nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ. Mức tăng trưởng thực tế là hơn 8%/năm trong các năm 2005 và 2006 [50, tr. 54]; trong năm 2007, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%), kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá cao (20,5%) [9, tr. 2]. Hợp đồng thương mại quốc tế là một quan hệ tư pháp quốc tế mà có thể được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, nên thường xảy ra hiện tượng pháp luật của nhiều nước liên quan đến hợp đồng cùng có thể được viện dẫn trong quá trình ký kết, thực hiện hoặc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Điều này dẫn đến hệ quả làm phát sinh nhiều khả năng pháp lý với các quyền và nghĩa vụ khác nhau của các bên hợp đồng mà hợp đồng không có khả năng dự đoán trước hoặc nếu có thì tính minh bạch trong các điều khoản của hợp đồng không cao, mà nguyên nhân chính là do pháp luật ở mỗi nước là khác nhau. Vì vậy, một trong những điều quan trọng trước khi các bên ký kết một hợp đồng thương mại quốc tế là các bên phải thông qua luật 1 sư tư vấn hoặc tự mình có được sự am hiểu nhất định về các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng, nhất là việc hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật nào để từ đó biết được các quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời có thể tránh được những bất đồng, tranh chấp không cần thiết có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trên thực tế, để bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất, trong nhiều trường hợp, các bên thỏa thuận một cách rõ ràng trong hợp đồng về pháp luật sẽ áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa của mình. Trong điều kiện Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, số lượng các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà trong đó Việt Nam là một bên đang ngày càng tăng về số lượng và giá trị. Theo nguyên tắc tự do hợp đồng, tự do thỏa thuận, các bên trong hợp đồng hoàn toàn có quyền thỏa thuận luật áp dụng là pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước ngoài mà họ cho là phù hợp nhất đối với giao dịch của mình. Tuy nhiên, việc các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế lựa chọn pháp luật Việt Nam là không nhiều. Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân là pháp luật Việt Nam còn chưa tạo được niềm tin cho phía đối tác nước ngoài cũng như cho chính các doanh nghiệp Việt Nam, nên hầu hết các hợp đồng thương mại như vậy đều quy định dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài để điều chỉnh. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần phải có sự đánh giá, nghiên cứu pháp luật của mình để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, đồng thời tạo thuận lợi cho hoạt động giao lưu thương mại giữa Việt Nam và các nước. Với tinh thần đó, trong thời gian qua Việt Nam đã có những nỗ lực đáng khích lệ để hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng, trong đó có vấn đề 2 chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, mà đáng kể nhất là việc ban hành Bộ luật Dân sự năm 2005 thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995, ban hành Luật Thương mại năm 2005 thay thế cho Luật Thương mại năm 1997 với những điểm mới phù hợp hơn với các quy định của pháp luật thương mại quốc tế. Các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật này cũng được ban hành (như Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006, Thông tư số 04/2006/TT-BTM ngày 06/04/2006 của Bộ Thương mại,…) để đưa các quy định của luật vào cuộc sống. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Ngay cả một số quy định của Luật Thương mại, mặc dù mới được ban hành năm 2005 nhưng cũng đã bắt đầu bộc lộ những điểm không phù hợp với điều kiện thực tế nảy sinh. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế nhằm thu hẹp khoảng cách giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển thương mại quốc gia, thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam thì những vấn đề lý luận và thực tiễn đa dạng và luôn phát triển liên quan đến hợp đồng thương mại quốc tế cần được cập nhật, nghiên cứu, đánh giá ở cả cấp độ quốc gia lẫn cấp độ doanh nghiệp. Đặc biệt, trong thời gian qua, nhiều vụ tranh chấp liên quan đến các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài đã phát sinh với hàng loạt các vấn đề đặt ra mà đáng tiếc là phần thua thiệt nhiều khi lại rơi về phía Việt Nam. Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp và thậm trí các cơ quan nhà nước Việt Nam khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế cho thấy, dường như phía Việt Nam chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức tới các vấn đề pháp lý trong giao dịch hợp đồng dẫn đến những thua thiệt không đáng có... Điều đáng quan tâm là mặc 3 dù chúng ta đã có khuôn khổ pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng (trong đó có hợp đồng mua bán có yếu tố nước ngoài), nhưng một câu hỏi lớn đang được đặt ra là tại sao đa số các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà Việt Nam là một bên lại lựa chọn pháp luật nước ngoài để áp dụng? Thực tế này đòi hỏi chúng ta cần phải tiếp tục tìm hiểu một cách thấu đáo, kỹ càng hơn nữa về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, đặc biệt là vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng Nói tóm lại, việc nghiên cứu pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, đồng thời đây là mối quan tâm lớn của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu và căn cứ lý luận của đề tài luận văn Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hợp đồng chung đã có từ lâu nhưng phạm trù hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dường như mới được quan tâm nhiều trong thời gian gần đây, nhất là từ khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trong số các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan có thể kể đến như các cuốn sách “Hướng dẫn pháp luật hợp đồng thương mại” của Thạc sỹ Đặng Văn Được (Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, năm 2006); “Hoàn thiện pháp luật về thương mại và hàng hải trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Mơ (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2002); “Hợp đồng thương mại quốc tế” của Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Trọng Đàn (Nhà xuất bản Thống kê, năm 1999); “Tìm hiểu về pháp luật trong thương mại quốc tế” của Phó Tiến sỹ Lê Quang Liêm (Nhà xuất bản Thống kê, năm 1996); các giáo trình giảng dạy của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội do Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Bá Diến chủ biên như “Giáo trình Tư pháp quốc tế” (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 4 2003), “Giáo trình Luật thương mại quốc tế” (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005); Giáo trình Tư pháp quốc tế của Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, năm 1999); Giáo trình Luật thương mại quốc tế của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, năm 1999),… Ngoài ra, vấn đề hợp đồng thương mại quốc tế nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng cũng đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết chuyên khảo trên các tạp chí Nhà nước và pháp luật, Dân chủ và pháp luật, Nghiên cứu lập pháp, Luật học, Hiến kế lập pháp, Diễn đàn Doanh nghiệp, Tạp chí Toà án Nhân dân như: “Chọn luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của Thạc sỹ Nguyễn Tiến Vinh (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6, tháng 6/2003); “Chọn luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế theo Công ước Rome 1980 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng” của Thạc sỹ Bùi Thị Thu (Tạp chí Luật học số 01/2005); “Luật áp dụng trong xét xử của trọng tài thương mại quốc tế” của Thạc sỹ Nông Quốc Bình (Tạp chí Luật học số 4/1999); “Quyền lựa chọn luật áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tư pháp quốc tế” của Thạc sỹ Nguyễn Bá Chiến (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/2006); “Công ước Rome năm 1980 về luật áp dụng cho quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng” của Thạc sỹ Lê Hương Lan (Tạp chí Luật học tháng 2/2000), “Giải quyết hợp đồng mua bán quốc tế” của Thạc sỹ Nguyễn Minh Hằng (Diễn đàn Doanh nghiệp, ngày 12/02/2006),… Những công trình nghiên cứu và bài viết như trên đi sâu nghiên cứu và phân tích về một số vấn đề khác nhau của luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam, trong đó nhiều công trình được thực hiện trước khi ban hành Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005. 5 Vì vậy, việc nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà đặc biệt là vấn đề pháp luật áp dụng trong các hợp đồng này ở Việt Nam trở nên cần thiết, nhằm góp phần bổ sung và phát triển những kết quả nghiên cứu trong điều kiện phát triển mới của Việt Nam. 3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận văn Như đã đề cập ở trên, các công trình nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa tập trung ở các bài viết về một số vấn đề khác nhau của luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa trong đó có cả nội dung chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Trong luận văn này, tác giả không tham vọng nghiên cứu mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại quốc tế mà chỉ tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề pháp lý liên quan đến việc chọn luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế xét từ góc độ các bên chủ thể tham gia hợp đồng và từ phía các cơ quan giải quyết tranh chấp. Đồng thời, Luận văn cũng đề cập đến một số thực trạng của việc chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm góp phần tìm hiểu, nâng cao nhận thức, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam; từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như công tác áp dụng pháp luật cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý như: 6 phương pháp lịch sử, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, trích dẫn, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch, khảo sát thực tế và lấy ý kiến của các chuyên gia để làm rõ các vấn đề liên quan trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam cũng như thế giới có những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc, chọn luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là vấn đề được đặc biệt quan tâm và có những diễn biến đa dạng, phức tạp mà pháp luật chưa có sự điều chỉnh kịp thời. Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm một số vấn đề lý luận về vấn đề chọn luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. Các nội dung nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị được nêu tại luận văn có thể được sử dụng làm nguồn thông tin hữu ích để giải quyết được phần nào những vấn đề pháp lý liên quan đã và đang đặt ra trong thực tiễn đối với các nhà làm luật, những cơ quan áp dụng pháp luật và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, được chia làm 3 chương như sau: - Chương 1: Một số vấn đề chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. - Chương 2: Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài. - Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và đề xuất hoàn thiện ở Việt Nam. 7 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG CÁC HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng Trên thế giới hiện nay có nhiều cách quan niệm khác nhau về khái niệm hợp đồng: Theo pháp luật Hoa Kỳ, hợp đồng là một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người mà theo đó hình thành nên một nghĩa vụ phải làm hoặc không được làm một việc cụ thể [62, tr.322]. Theo pháp luật của Pháp, hợp đồng là sự thỏa thuận theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một việc nào đó (Điều 1101 Bộ luật Dân sự Pháp) [32, tr. 306]. Pháp luật của Trung Quốc quy định: “hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể là thể nhân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác trên cơ sở công bằng” (Điều 2 Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999) [53]. Pháp luật Liên bang Nga quy định: “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự” (Khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga) [63] 8 Ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ (Điều 388) [5]. Như vậy, mặc dù được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, nhưng pháp luật các nước đều quan niệm chung về hợp đồng, đó là sự thỏa thuận giữa các bên về việc thực hiện một việc, một nghĩa vụ nào đó. Nghĩa vụ hợp đồng có thể phát sinh đối với một bên (hợp đồng đơn vụ) hoặc giữa các bên với nhau (hợp đồng song vụ). 1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa Về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa, pháp luật các nước trên thế giới có những cách tiếp cận không hoàn toàn không giống nhau: Theo pháp luật của Pháp, hợp đồng mua bán là một thỏa thuận theo đó một bên có nghĩa vụ giao một vật và người kia có nghĩa vụ trả tiền cho vật ấy. Việc mua bán được hoàn thành khi quyền sở hữu vật được coi là đã chuyển sang cho người mua sau khi đã thỏa thuận về vật bán và giá cả, tuy rằng vật chưa được giao và tiền chưa được trả. Việc mua bán có thể được tiến hành không kèm theo điều kiện hoặc kèm theo điều kiện đình chỉ thi hành hoặc điều kiện hủy bỏ (Điều 1582, Điều 1583 và Điều 1584 Bộ luật Dân sự Pháp) [32, tr. 402]. Theo pháp luật của Anh, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng theo đó người bán chuyển giao hoặc đồng ý chuyển giao quyền sở hữu hàng cho người mua và đổi lại số tiền thỏa đáng (Khoản 1 Điều 2 Luật Mua bán Hàng hóa năm 1979) [35, tr. 66]. Pháp luật Hoa Kỳ khẳng định: hợp đồng mua bán hàng hoá được xác định là một hợp đồng mà theo đó bên bán thực hiện một nghĩa vụ đối với bên 9 mua để giải phóng một vật, với tư cách là người chủ sở hữu, với một giá tiền nhất định và bên mua có nghĩa vụ trả tiền [62, tr.326]. Pháp luật Trung Quốc quy định: “hợp đồng mua bán hàng hóa là một hợp đồng theo đó người bán chuyển giao quyền sở hữu một vật cho người mua và người mua trả tiền cho vật đó” (Điều 130 Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999). Pháp luật Liên bang Nga quy định: “Bằng hợp đồng mua bán, một bên (bên bán) sẽ thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu một vật (hàng hóa) cho bên kia (bên mua), trong khi đó bên mua sẽ chấp nhận hàng hóa này và trả một khoản tiền nhất định (giá) cho hàng hóa đó” (Khoản 1 Điều 454 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga). Ở Việt Nam, mua bán hàng hóa được hiểu là một hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận (Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005) [25]. Việc mua bán hàng hóa được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Có thể thấy, ở Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa cũng được hiểu là thỏa thuận giữa các bên mà theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng, nhận quyền sở hữu hàng và trả tiền cho bên bán. Cách hiểu này cũng phù hợp với quy định tại Điều 428 Bộ luật Dân sự năm 2005 về hợp đồng mua bán tài sản. Như vậy, mặc dù được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng pháp luật các nước đều có một số điểm chung trong cách hiểu về hợp đồng mua bán hàng hóa như sau: 10 Thứ nhất, đó phải là một giao kết hay thỏa thuận giữa các bên. Hợp đồng hay thỏa thuận giữa các bên chỉ có giá trị khi thể hiện đúng ý chí của các bên khi giao kết. Sự thỏa thuận đó sẽ không có giá trị nếu đạt được do bị nhầm lẫn, bị đe dọa hoặc bị lừa dối (Điều 131 và Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 1109 Bộ luật Dân sự Pháp). Sự thỏa thuận đạt được do bị nhầm lẫn có thể trở nên vô hiệu khi đó là nhầm lẫn về nội dung của giao dịch hay nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng. Tuy nhiên, sự nhầm lẫn đó sẽ không là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu nếu là nhầm lẫn về chủ thể giao kết, trừ trường hợp người giao kết không có đủ năng lực giao kết hợp đồng (Điều 1110 Bộ luật Dân sự Pháp); nếu một bên cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch hay đối tượng của hợp đồng thì thỏa thuận hay giao dịch đó cũng sẽ trở nên vô hiệu (Đoạn 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005). Sự thỏa thuận đạt được do bị đe dọa cũng có thể trở nên vô hiệu khi hành vi đó là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản. Việc đe dọa có thể hướng tới bản thân người giao kết hợp đồng hoặc hướng tới người thân của người đó như cha, mẹ, vợ, chồng, con (Đoạn 3 Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 112 và Điều 113 Bộ luật Dân sự Pháp). Sự thỏa thuận đạt được do lừa dối có thể bị vô hiệu nếu do hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó (Đoạn 2 Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005). Nói một cách khác, sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các “thủ đoạn” do một bên thực hiện mà nếu không 11 có các thủ đoạn đó thì bên kia đã không ký kết hợp đồng (Điều 1116 Bộ luật Dân sự Pháp). Ngoài ra, những người tham gia giao kết hợp đồng phải có đủ năng lực hành vi dân sự để có thể bày tỏ được đúng ý chí của mình tại thời điểm giao kết. Theo quy định của pháp luật Việt Nam và các nước thì mọi người đều có quyền giao kết hợp đồng nếu không bị pháp luật coi là vô năng (Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 1123 Bộ luật Dân sự Pháp). Nhìn chung, pháp luật các nước đều quy định người chưa thành niên hoặc người được giám hộ không có năng lực giao kết hợp đồng. Ngoài ra, đối với những người mất năng lực hành vi dân sự do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình hoặc những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác thì cũng bị coi là không có năng lực giao kết hợp đồng. Khi đó, những giao kết, thỏa thuận do những người này thực hiện cũng có thể trở nên vô hiệu. Thứ hai, đối tượng của hợp đồng là hàng hóa hay vật. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai. Việc quy định về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa như vậy phù hợp với quy định của pháp luật về thương mại các nước. Ví dụ: Khoản 11 Điều 201 Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (U.C.C) quy định: “khi mua bán, hợp đồng hoặc thỏa thuận bị giới hạn đối với những vật có liên quan đến việc mua bán tại thời điểm hiện tại hoặc trong tương lai”. Thứ ba, có việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa hoặc vật từ người bán sang người mua. 12 Ket-noi.com Ket-noi.com Kho Kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Sau khi giao kết hợp đồng, bên bán có nghĩa vụ giao hàng cũng như các chứng từ liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận trong hợp đồng cho bên mua; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán số tiền cho bên bán như đã thỏa thuận. Việc chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản mua bán từ bên bán sang bên mua thường được thực hiện tại thời điểm chuyển giao tài sản (Điều 133 Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999). Tuy nhiên, đối với những tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu chỉ được chuyển giao cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, ngoại trừ một số loại tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu như máy bay, tàu biển, ô tô, xe máy hoặc quyền tài sản… thì việc mua bán hàng hóa được coi là hoàn tất và quyền sở hữu đối với tài sản, hàng hóa được coi là đã chuyển từ người bán sang người mua kể từ thời điểm giao hàng (Khoản 2 Điều 439). Có thể thấy, hành vi giao nhận hàng hóa (đối tượng của hợp đồng) có vai trò hết sức quan trọng trong hợp đồng mua bán hàng hóa, vì nó có giá trị pháp lý đối với chuyển giao rủi ro đối với tài sản, hàng hóa từ người bán sang người mua. Về vấn đề này, Điều 440 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản mua bán cho đến khi tài sản được giao cho bên mua, còn bên mua chịu rủi ro đối với tài sản mua bán kể từ khi nhận tài sản, nếu không có thỏa thuận khác” (Khoản 1); “đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu không có thỏa thuận khác” (Khoản 2). 13 Ket-noi.com Ket-noi.com Kho Kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 1.1.1.3. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Về vấn đề này, mặc dù pháp luật quốc tế và pháp luật các nước có các cách tiếp cận khác nhau, nhưng các hệ thống pháp luật đều thống nhất chung một quan điểm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa có “tính chất quốc tế”. Dưới đây là một số cách tiếp cận chủ yếu về “tính chất quốc tế” trong hợp đồng mua bán hàng hóa: Thứ nhất, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo Công ước La-hay năm 1964 (Công ước về Luật Thống nhất về Mua bán Quốc tế các Động sản Hữu hình được các nước tư bản chủ nghĩa ở lục địa Châu Âu ký tại La-hay ngày 01 tháng 7 năm 1964). Điều 1 Công ước La-hay năm 1964 quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hóa trong hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới, hoặc việc ký kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau” [11, tr. 197]. Như vậy, theo quy định trên của Công ước La-hay năm 1964, một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải bảo đảm điều kiện các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hợp đồng đó thuộc một trong các trường hợp sau đây: “Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới của một quốc gia; hoặc Việc ký kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau.” Việc quy định như trong Công ước La-hay năm 1964 cho thấy rằng, để xác định một hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì yếu tố các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau là hết sức quan trọng. Yếu tố 14 Ket-noi.com Ket-noi.com Kho Kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi quốc tịch của các bên trong hợp đồng không có ý nghĩa trong việc xác định “tính chất quốc tế” của loại hợp đồng này. Ví dụ: Hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết tại Anh giữa một thương nhân Anh có nơi cư trú tại Singapore và một doanh nghiệp Anh có trụ sở tại London; hàng hóa được chuyển từ Singapore về Anh. Hợp đồng này hoàn toàn đủ điều kiện là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Công ước La-hay năm 1964 mặc dù các bên chủ thể có cùng quốc tịch. Thứ hai, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo Công ước Viên năm 1980 (Công ước của Liên Hợp Quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế được ký kết tại Viên năm 1980). Điều 1 Công ước Viên năm 1980 quy định: “1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau: (i) khi các quốc gia này là thành viên của Công ước, hoặc (ii) khi theo quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của quốc gia thành viên Công ước. 2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên. 3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng Công ước này” [22, tr. 300]. Từ quy định trên của Công ước Viên năm 1980 cho thấy, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu chí duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại tại các 15 Ket-noi.com Ket-noi.com Kho Kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi quốc gia khác nhau. Điều này khác với Công ước La-hay năm 1964, các yếu tố như địa điểm ký kết hợp đồng, việc dịch chuyển qua biên giới đối với đối tượng của hợp đồng không được Công ước Viên năm 1980 đề cập đến. Ngoài ra, giống như Công ước La-hay năm 1964, Công ước Viên năm 1980 cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá. Thứ ba, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật của một số nước trên thế giới. Theo pháp luật của Pháp, khi xác định tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hoá, người ta căn cứ vào hai tiêu chí là kinh tế và pháp lý: Theo tiêu chí kinh tế, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế khi nó tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước. Theo tiêu chí pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán,...[35, tr. 87-88] Thứ tư, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam Ở Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Hợp đồng mua bán quốc tế, Hợp đồng xuất nhập khẩu, Hợp đồng mua bán ngoại thương, Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài,... Trước khi ban hành Luật Thương mại năm 1997, theo Quy chế tạm thời hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương số 4794/TN-XNK do 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan