Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích tính tổn thương và khả năng phục hồi đến nền kinh tế các quốc gia...

Tài liệu Phân tích tính tổn thương và khả năng phục hồi đến nền kinh tế các quốc gia

.PDF
77
6
129

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- TRƯƠNG ÁI NGUYỆT PHÂN TÍCH TÍNH TỔN THƯƠNG VÀ KHẢ NĂNG PHỤC HỒI ĐẾN NỀN KINH TẾ CÁC QUỐC GIA LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- TRƯƠNG ÁI NGUYỆT PHÂN TÍCH TÍNH TỔN THƯƠNG VÀ KHẢ NĂNG PHỤC HỒI ĐẾN NỀN KINH TẾ CÁC QUỐC GIA Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. TRẦN NGỌC THƠ Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Trần Ngọc Thơ. Những số liệu, kết luận, đánh giá phục vụ cho quá trình nghiên cứu được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. TP Hồ Chí Minh, Ngày Tháng Năm 2016 Trương Ái Nguyệt MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH TÓM TẮT CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...............................................................1 1.1 Đặt vấn đề ...................................................................................................1 1.2 Tổng quan các nghiên cứu trước đây ..................................................2 1.3 Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................5 1.4 Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................5 1.5 Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................6 1.6 Phương pháp nghiên cứu ........................................................................6 1.7 Cấu trúc của luận văn ..............................................................................7 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG ........... VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ..........................................................................9 2.1 Khái niệm .......................................................................................................9 2.1.1. Khái niệm tính dễ tổn thương của nền kinh tế ............................9 2.1.2. Khái niệm khả năng phục hồi nền kinh tế ....................................9 2.2 Cách thức xây dựng chỉ số tổn thương vào chỉ số khả năng phục hồi của nền kinh tế ...........................................................................................11 2.2.1. Các chỉ số phụ dùng để xây dựng chỉ số dễ tổn thương ........12 2.2.2. Các chỉ số phụ dùng để xây dựng chỉ số khả năng phục hồi của nền kinh tế ...............................................................................................14 2.3. Mục tiêu và ý nghĩa của việc đo lường chỉ số dễ tổn thương và khả năng phục hồi nền kinh tế ......................................................................19 2.4 Mối quan hệ giữa tổn thương và khả năng phục hồi nền kinh tế với hiệu quả của nền kinh tế. ........................................................................24 2.4.1 Mô hình nghiên cứu: ..........................................................................25 2.4.2 Các giả thiết kỳ vọng trong mô hình nghiên cứu: .....................25 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, SỐ LIỆU ....................... VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU. .......................................................................28 3.1 Phương pháp nghiên cứu .........................................................................28 3.2. Thu thập và xử lý số liệu .......................................................................28 3.3. Kết quả nghiên cứu ..................................................................................34 3.3.1 Đo lường chỉ số và phân loại. .........................................................34 3.3.2. Mô hình nghiên cứu ..........................................................................47 3.3.3 Kết quả kiểm định mô hình: ............................................................50 CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ..........................56 4.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu chính .......................................................56 4.2. Hàm ý chính sách đối với Việt Nam ...................................................57 4.3 Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: ..............................................................59 4.4 Hạn chế và hướng đi tiếp theo của nghiên cứu: ...............................59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Mối quan hệ kỳ vọng giữa các biến trong nhóm khả năng phục hồi (NRI) với GNI bình quân đầu người ....................................................................................... 26 Bảng 2.2. Mối quan hệ kỳ vọng giữa các biến trong nhóm tính dễ tổn thương với GNI bình quân đầu người ............................................................................................. 27 Bảng 3.1. Các biến đo lường chỉ số dễ tổn thương (Vulnerability Index) ................... 29 Bảng 3.2. Các biến đo lường chỉ số khả năng phục hồi (resilience index) .................. 30 Bảng 3.3. Kết quả phân loại nhóm 1 - Best case ......................................................... 36 Bảng 3.4. Kết quả phân loại nhóm 2- Worst case ......................................................... 39 Bảng 3.5. Kết quả phân loại nhóm3 - self-made ........................................................... 40 Bảng 3.6. Kết quả phân loại nhóm 4 – Prodigal son ..................................................... 41 Bảng 3.7 Thống kê mô tả biến RI và VI của nhóm Prodigal son ................................. 44 Bảng 3.8. Mã hóa các biến trong nhóm khả năng phục hồi .......................................... 48 Bảng 3.9 Mã hóa các biến trong nhóm tính dễ tổn thương ......................................... 49 Bảng 3.10 Kết quả ước lượng theo GMM sai phân ...................................................... 51 Bảng 3.11 Tổng hợp kết quả các biến có ý nghĩa theo nhóm phân tích ....................... 52 DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. Bốn trường hợp được phân loại từ RI và VI ............................................21 Hình 2.2. Những rủi ro liên quan đến các tác động từ các cú sốc ngoại sinh ..........23 Hình 3.1. Chỉ số tổn thương và khả năng phục hồi kinh tế giai đoạn năm 2003-2013 ...............................................................................................................35 Hình 3.2. Biểu đồ phân bổ RI – VI dựa trên nhóm thu nhập ...................................46 TÓM TẮT Với mong muốn phân tích tình hình khả năng phục hồi và tính tổn thương của nền kinh tế các quốc gia, đồng thời xem xét mối quan hệ giữa hai đặc tính này với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, bài nghiên cứu đã đo lường chỉ số khả năng phục hồi và chỉ số dễ tổn thương của 134 nền kinh tế trong đó có 48 nền kinh tế có thu nhập cao, 34 nền kinh tế có thu nhập trên trung bình, 34 nền kinh tế có thu nhập dưới trung bình và 18 nền kinh tế có thu nhập thấp giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013. Tiếp đến, dựa trên kết quả tính toán, bài nghiên cứu phân nhóm các quốc gia theo từng nhóm rủi ro khác nhau. Và chọn ra nhóm quốc gia chứa Việt Nam để tiếp tục xem xét đánh giá mối quan hệ giữa hai chỉ số này với GNI bình quân đầu người (đại diện cho hiệu quả hoạt động của nền kinh tế). Đặc biệt, với mong muốn phân tích chi tiết hai chỉ số này ở từng khía cạnh khác nhau của nền kinh tế, tác giả đã chạy mô hình hồi quy với biến độc lập là các biến số phụ đại diện cho các khía cạnh. Kết quả theo phương pháp ước lượng GMM sai phân cho thấy, Việt Nam và các nền kinh tế trong cùng nhóm ở hầu hết các khía cạnh đại diện cho khả năng phục hồi điều có tác động cùng chiều đến GNI bình quân đầu người và tác động của các biến đại diện cho tính tổn thương là ngược lại. Đặc biệt, kết quả nhấn mạnh tác động mạnh mẽ của việc tăng hiệu năng quản lý chính phủ ở các nước này và xem xét thận trọng việc mở cửa ồ ạt đối với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Bài nghiên cứu cũng cho thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu về khả năng phục hồi và chỉ số tồn thương của nền kinh tế ở mỗi quốc gia. 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1.1 Đặt vấn đề Có thể nói chưa bao giờ quá trình hội nhập, quốc tế hóa lại diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay. Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế mang lại nhiều quyền lợi thiết thực, nhiều thay đổi đáng kể về diện mạo của nền kinh tế, sự phát triển của con người và rộng hơn là vị thế của cả quốc gia trên trường quốc tế. Tuy nhiên, việc các quốc gia đẩy mạnh hội nhập không chỉ mang đến những cơ hội và thuận lợi mà cũng sẽ vấp phải rất nhiều thử thách và khó khăn. Một trong những vấn đề quan trọng đó là khi càng tham gia sâu rộng vào các mối quan hệ quốc tế thì việc chịu ảnh hưởng ngày một nhanh và nghiêm trọng từ các cú sốc do các khó khăn, biến cố ở các nền kinh tế khác mang lại là điều khó thể tránh khỏi. Khi ấy ta nói nền kinh tế là “dễ bị tổn thương”. Việc dễ tổn thương là điều phải đối mặt, và “khả năng phục hồi” chính là năng lực giúp những nền kinh tế năng động đứng vững, vượt qua những cú sốc ấy. Đây là mấu chốt giúp giải thích việc nhiều nền kinh tế nhỏ, nền kinh tế bị tác động mạnh mẽ bởi các cú sốc (dễ bị tổn thương) nhưng vẫn vượt qua và tiếp tục phát triển không ngừng và là điều mà tất cả các quốc gia cần lưu tâm để tăng cường khả năng chống chịu trước các cú sốc. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá cao về phát triển nhanh và rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế trong những năm gần đây. Tuy nhiên có rất nhiều nhận định về việc cần xem xét thận trọng hơn các bước mở rộng quốc tế. Bởi lẻ, nếu chưa kịp chuẩn bị một nội lực vững vàng trước khi bước vào sân chơi quốc tế thì việc tham gia quá nhanh vào các cuộc đua toàn cầu hóa có thể sẽ khiến nền kinh tế gặp phải nhiều nguy cơ hơn là những cơ hội. 2 Từ những nhận định trên, có thể thấy rõ việc nghiên cứu về chỉ số tổn thương và khả năng phục hồi của nền kinh tế là cần thiết không chỉ đối với Việt Nam mà còn của tất cả các nền kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa. 1.2 Tổng quan các nghiên cứu trước đây Về nội dung và kết quả nghiên cứu, những bằng chứng thực nghiệm nghiên cứu về khái niệm tính dễ tổn thương của nền kinh tế lần đầu được công bố bởi Briguglio (1992, 1993, 1995, 1997), các kết quả tổng kết nghiên cứu của Ban thư kí Khối Thịnh vượng chung 1 và Crowards (1998 and 1999). Và tất cả đều xuất phát từ hiện tượng nghiên cứu tại các nền kinh tế nhỏ, quốc đảo. Các nghiên cứu đều chỉ ra khi nền kinh tế mở rộng giao thương quốc tế, bị phụ thuộc nhiều vào hoạt động nhập khẩu hoặc xuất khẩu (tính đa dạng hóa thấp) thì đều dễ bị tác động từ các cú sốc bên ngoài. Và đặt một câu hỏi lớn về việc mặc dù bị tổn thương nhưng các nền kinh tế ở nhiều quốc đảo vẫn có chỉ số GDP bình quân đầu người khá cao. Đến năm 2004 khi Briguglio tiếp tục là người khởi xướng và đã cùng cộng sự kết hợp nghiên cứu chỉ số dễ tổn thương và chỉ số khả năng phục hồi trong “Economic Vulnerability and Resilience: Concepts and Measurements”. Nghiên cứu chỉ rõ, chỉ số tổn thương là do những đặc tính cố hữu, khả năng phục hồi là do những chính sách hợp lý của chính phủ tạo thành. Và cả hai chỉ số đều tác động đến hiệu quả của nền kinh tế, tuy nhiên khả năng phục hồi tác động tích cực và mạnh mẽ hơn, bù đắp được những ảnh hưởng do tính tổn thương bị tác động bởi các cú sốc bên ngoài. Do đó, đã giúp lý giải rõ nét về việc các quốc đảo, nền kinh tế nhỏ dễ tổn thương nhưng có khả năng phục hồi cao, vì vậy vẫn đạt GDP bình quân đầu người cao. Với tầm quan trọng ngày càng được thể hiện rõ nét, đã có nhiều nghiên cứu xoay quanh chủ đề này, có thể kể đến những nghiên cứu nổi bật như: Chi tiết thông tin về Khối Thịnh vượng chung và vai trò của tổ chức này, xem tại: http://thecommonwealth.org/about-us 1 3 Duval và cộng sự (2008), nghiên cứu về vai trò của các chính sách cơ cấu trong khả năng phục hồi khi đối mặt với các cú sốc của 20 quốc gia OECD2 giai đoạn năm 1982 - 2003, kết luận: Các nền kinh tế khác nhau về tính chất thị trường lao động, sản xuất và điều tiết thị trường tài chính thì có khả năng phục hồi khác nhau. Brook (2006), nghiên cứu về các chính sách giúp cải thiện khả năng phục hồi của Thổ Nhĩ Kỳ khi đối mặt với cú sốc thị trường tài chính, trong giai đoạn năm 1999 – 2006: với các khía cạnh của khả năng phục phồi được xem xét thông qua: chính sách quản lý vĩ mô can thiệp vào nền kinh tế sau khủng hoảng năm 2001 giúp thu hút dòng vốn FDI đáng kể, còn tình trạng tỷ lệ lạm phát cao, tỷ lệ nợ công và tỷ lệ nợ nước ngoài của chính phủ lại làm tăng rủi ro. Andrés Fuentes và cộng sự (2011), nghiên cứu về khả năng phục hồi của Thụy sỹ và bài học cho Áo, giai đoạn 1980-2010: Cả hai quốc gia đều thành công trong việc ít bị tác động bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu. Thụy Sỹ được lý giải bởi khả năng đa dạng hóa hoạt động giao thương quốc tế. Còn Áo có thị trường lao động ổn định. Cả hai đều không tồn tại bong bóng nhà đất trước khủng hoảng giống như hầu hết các quốc gia khác. Do đó, khi khủng hoảng xảy ra, những chính sách giảm lãi suất, các gói kích thích kinh tế, giải cứu ngân hàng đã phát huy tác dụng, bảo vệ sự ổn định tài chính quốc gia. Nhìn chung, có thể nhận thấy tính dễ tổn thương và khả năng phục hồi có tác động đến hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, trong đó, vai trò của khả năng phục hồi được nhấn mạnh hơn hẳn. Và hai chỉ tiêu này được đánh giá thông qua những biến số, đặt tính từ vĩ mô đến vi mô của nền kinh tế, các đặc điểm về chính sách quản lý,… 2 OECD là viết tắt của Organisation For Economic Co-operation and Development. Tạm dịch là Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Chi tiết xem tại: https://www.oecd.org/ 4 Về phương pháp, với các nghiên cứu đơn lẻ ở từng quốc gia hoặc nhóm nhỏ một vài quốc gia, phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp thống kê mô tả, phân tích trường hợp. Với phương pháp này sẽ lấy một cú sốc làm gốc, sau đó thu thập các số liệu vĩ mô của nền kinh tế cần nghiên cứu vào thời điểm trước và sau cú sốc, cuối cùng sử dụng phương pháp thống kê mô tả sự khác biệt của nền kinh tế trước và sau khi xảy ra cú sốc nhằm chỉ ra khả năng phục hồi cũng như đặc tính dễ tổn thương của nền kinh tế đó. Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là đơn giản, dễ thực hiện, tiếp cận trực diện đối tượng cần nghiên cứu.Tuy nhiên, vấp phải rất nhiều hạn chế như : thường chỉ thực hiện trên phạm vi một vài nền kinh tế cụ thể, cho từng cú sốc đơn lẻ. Không đo lường được khả năng phục hồi hay tính dễ tổn thương tổng thể của nền kinh tế. Thêm nữa,trong một giai đoạn nhất định, rất khó tách biệt tác động của một cú sốc, vì còn có rất nhiều yếu tố khác tác động đến nền kinh tế. Còn với những mẫu nghiên cứu trên phạm vi rộng nhiều quốc gia, như của Brigulio tiếp tiếp cận theo phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp mang tên chỉ số khả năng phục hồi và chỉ số dễ tổn thương . Từ đó đưa ra những so sánh, nhận xét giữa các nền kinh tế. Phương pháp này đưa ra cái nhìn cụ thể, định lượng được mức độ khả năng phục hồi hay mức độ dễ tổn thương của một nền kinh tế. Đồng thời, có thể giúp có dễ dàng so sánh, phân loại trên diện rộng giữa các nền kinh tế khác nhau, giữa các năm với nhau. Giúp bản thân mỗi nền kinh tế định vị được khả năng của bản thân và hướng phát triển phù hợp trong tương lai. Tuy nhiên, nghiên cứu lại gặp phải hạn chế về việc lựa chọn công cụ kinh tế lượng. Trong bước xem xét mối quan hệ giữa hai chỉ số và thu nhập bình quân đầu người (GDP), Brigulio đã xây dựng mô hình hồi quy theo phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS). Bởi lẽ, trong thành phần phân tích các biến số vĩ mô có đề cập, có rất nhiều chỉ số cấu thành bởi GDP hoặc liên quan mật thiết đến GDP. Nên việc sử dụng phương 5 pháp OLS sẽ gặp rất nhiều vấn đề không giải quyết được: hiện tượng nội sinh, tự tương quan, phương sai thay đổi,… Thêm một vấn đề nữa về thực trạng nghiên cứu là hiện chưa các mẫu nghiên cứu từ các công trình trên dường như chưa có Việt Nam (trong đó có các bài của Brigulio) hay nghiên cứu riêng cho nhóm nước có đặc thù rủi ro như của Việt Nam. Với những lý do trên, tác giả định hướng bài nghiên cứu theo mục tiêu và phương pháp như những phần tiếp theo dưới đây sẽ trình bày. 1.3 Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá thực trạng về chỉ số khả năng phục hồi và chỉ số dễ tổn thương của nền kinh tế các nước trong giai đoạn 2003 - 2013 Thông qua việc xem xét mối quan hệ, mức độ tác động của khả năng phục hồi và đặc tính dễ tốn thương đối với hiệu quả của một nền kinh tế. Kết hợp với thực trạng hai chỉ số này để phân tích chi tiết nhóm quốc gia có đặc tính rủi ro cùng nhóm với Việt Nam. Nhằm đưa ra những giải pháp thiết thực, giảm mức độ rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh t ế cho nhóm nói chung và chi tiết riêng cho Việt Nam. 1.4 Câu hỏi nghiên cứu Nhằm đạt được những mục tiêu trên, tác giả sẽ tập trung làm sáng tỏ các câu hỏi nghiên cứu sau: Mức độ khả năng phục hồi và dễ tổn thương của nền kinh tế các nước hiện nay như thế nào? Khả năng phục hồi và đặc tính dễ tổn thương tác động đến thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người như thế nào tại các nước có cùng nhóm rủi ro về nền kinh tế với Việt Nam? Đâu là những giải pháp hợp lý cho những nền kinh tế này, cho Việt Nam trong việc giảm rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động? 6 1.5 Phạm vi nghiên cứu Nội dung: Xây dựng chỉ số tổn thương và chỉ số phục hồi của các nền kinh tế. Qua đó đánh giá thực trạng rủi ro của tổng thể các nền kinh tế trong giai đoạn 2003 - 2013. Tiếp đến, tác giả sẽ xem xét mối quan hệ tác động của các biến đại diện cho đặc tính tổn thương và khả năng phục hồi của nền kinh tế đến GNI bình quân đầu người của Việt Nam và các nước có cùng nhóm rủi ro. Phân tích, đánh giá và góp phần hoàn thiện những chính sách giúp giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động cho các nền kinh tế này và cho Việt Nam. Không gian: Giai đoạn 1: Xây dựng chỉ số tổn thương và khả năng phục hồi, bộ dữ liệu được sử dụng sẽ là 134 nền kinh tế trong đó có: 48 nền kinh tế có thu nhập cao, 34 nền kinh tế có thu nhập trên trung bình, 34 nền kinh tế có thu nhập dưới trung bình và 18 nền kinh tế có thu nhập thấp (dựa theo tiêu chí phân loại của Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF 3). Tổng số biến quan sát là: 1474. Giai đoạn 2: Từ kết quả tính toán ở giai đoạn 1 , phân loại và chọn ra nhóm có Việt Nam, bao gồm 66 nền kinh tế và đây cũng là nhóm có số lượng nền kinh tế chiếm gần 50% mẫu quan sát. Và sẽ là nhóm được sử dụng để kiểm định mối quan hệ giữa hai đặc tính với GNI bình quân đầu người và đi sâu vào phân tích đánh giá. Số biến quan sát của giai đoạn này là: 726 Thời gian: Dữ liệu thống kê theo năm từ năm 2003-2013 1.6 Phương pháp nghiên cứu Với các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, tác giả dựa trên cơ sở nghiên cứu của Brigulio và cộng sự năm 2008 “Nội dung và đ o lường tính dễ tổn thương và khả năng phục hồi của nền kinh tế” nhằm xây dựng chỉ số tổn thương và chỉ 3 Sẽ được giải thích chi tiết tiêu chí ở phần thu thập và xử lý số liệu, chương 3 7 số khả năng phục hồi của các nền kinh tế để đưa ra so sánh, đánh giá và phân loại mức độ rủi ro giữa các nền kinh tế. Với mục tiêu nghiên cứu cụ thể về Việt Nam, nên bước tiếp theo tác giả sử dụng mẫu có nước được phân loại cùng nhóm rủi ro với Việt Nam để sử dụng làm mẫu nghiên cứu chính cho phần tiếp theo của đề tài. Tác giả sẽ tiến hành kiểm định tác động của tính tổn thương và khả năng phục hồi của nền kinh tế đến hiệu quả nền kinh tế ở mô hình dữ liệu bảng động thông qua phương pháp ước lượng GMM sai phân (Difference Generalized method os moments – GMM) của Arellano – Bond (1991) được đề xuất bởi Holtz – Eakin, Newey và cộng sự (1988) bằng phần mềm stata 13 với phiên bản xtabond2. Qua đó, phân tích, nhìn nhận và đưa ra những giải pháp phù hợp cho các nền kinh tế thuộc nhóm này nói chung và chi tiết ở Việt Nam nói riêng, nhằm nâng cao khả năng chống chọi trước những cú sốc kinh tế bên ngoài, đảm bảo và nâng tầm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. 1.7 Cấu trúc của luận văn Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, cấu trúc bài nghiên cứu được chia thành 4 chương như sau: Chương 1 Giới thiệu đề tài: Xác định vai trò của chủ đề nghiên cứu, thông qua nền tảng các nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây, đưa ra những vấn đề còn tồn đọng, đặt ra mục tiêu, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Chương 2. Cơ sở lý luận, phương pháp đo lường và mô hình nghiên cứu: Hệ thống tổng quan lý thuyết về chỉ số tổn thương và chỉ số khả năng phục hồi. Cách thức đo lường hai chỉ số và xây dựng mô hình nghiên cứu về mối quan hệ giữa chúng với GNI bình quân đầu người. Chương 3 Kết quả nghiên cứu và số liệu. Ở chương này với dữ liệu nghiên cứu của bài, sẽ đi trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra ở chương 1. Đưa ra những nhận định đánh giá về chủ đề nghiên cứu. 8 Chương 4. Kết luận và hàm ý chính sách. Chương 4 sẽ tóm tắt những kết luận chính của bài nghiên cứu, đồng thời đưa ra những khuyến nghị chính sách để trả lời cho phần hai câu hỏi số ba trong mục đích nghiên cứu. Cuối cùng, nhóm tác giả đưa ra hạn chế của đề tài và những đề xuất về hướng nghiên cứu cho các bài nghiên cứu tiếp theo. 9 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1 Khái niệm 2.1.1. Khái niệm tính dễ tổn thương của nền kinh tế Thuật ngữ “tính dễ bị tổn thương” (vulnerability) xuất phát từ từ “vết thương” (wound, vulnus) trong tiếng Latin. Để chỉ về tính chất hoặc tình trạng dễ bị tác động, bị hại, làm ảnh hưởng 4. Xuất phát từ ý nghĩa này, “Tính dễ bị tổn thương” của nền kinh tế được định nghĩa là “tính nhạy cảm của một nền kinh tế với các cú sốc ngoại sinh, phát sinh từ việc mở cửa kinh tế” . Trong phần định nghĩa của Briguglio (2004) còn nhấn mạnh, tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế được cho là do “các đặc tính cố hữu” và thường trực của nền kinh tế. Không phụ thuộc vào các chính sách mà chỉ phụ thuộc vào các yếu tố không thể hoặc rất khó để thay đổi như quy mô của nền kinh tế, nguồn lực về tài nguyên và khả năng thay thế nhập khẩu,.. 2.1.2. Khái niệm khả năng phục hồi nền kinh tế “Khả năng phục hồi” (Resilience) là thuật ngữ tuy xuất hiện từ khá sớm nhưng mới chỉ được dùng trong lĩnh vực kinh tế khoảng đầu thế kỷ 21 trở lại đây. Với ý nghĩa nguyên bản, “khả năng phục hồi” là khả năng bật trở lại, quay về lại trạng thái ban đầu trước những tác động (chủ yếu đề cập đến các tác động tiêu cực) 5. Khi gắn liền với ý nghĩa trong nghiên cứu kinh tế vĩ mô, “khả năng phục hồi của nền kinh tế” theo định nghĩa của IMF (2012) là: “khả năng duy trì lâu hơn và mạnh hơn khoảng thời gian mở rộng; trải qua khoảng thời gian suy thoái ngắn hơn và nông hơn; để rồi phục hồi một cách nhanh chóng”. Trong một số nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề này, các tác giả cũng cho thấy một số góc nhìn khác về thuật ngữ này. C ó thể điểm qua như sau: 4 5 Theo định nghĩa của từ điển Oxford Theo định nghĩa của từ điển Oxford 10 Trong nghiên cứu của Elbourne và cộng sự (2008) cho rằng “thuật ngữ khả năng phục hồi đề cập tới khả năng một nền kinh tế vẫn có thể phát triển thịnh vượng kể cả khi phải đối mặt với các cú sốc”. Còn theo Duval và cộng sự (2008), khả năng phục hồi của nền kinh tế có thể được định nghĩa như “khả năng duy trì sản lượng ở mức gần với sản lượng tiềm năng kể cả sau khi trải qua các cú sốc”. Trong nghiên cứu của Boorman và cộng sự (2013), khả năng phục hồi được định nghĩa là hàm của rất nhiều yếu tố: hiệu quả hoạt động của chính phủ và quản trị nói chung; sức mạnh của các tổ chức thể chế, đặc biệt trong hoạch địch chính sách kinh tế, tài chính; tính bền vững của hệ thống ngân hàng và tài chính; cấu trúc của nền kinh tế,… Và cuối cùng, theo một trong những tác giả nghiên cứu đầu tiên và có nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu nhất về chủ đề này, Briguglio và cộng sự (2008) đã hoàn thiện khái niệm “khả năng phục hồi của nền kinh tế” rằng: khả năng phục hồi của nền kinh tế được hiểu là khả năng ứng phó, cho phép nền kinh tế chống chịu hoặc bật trở lại trước các cú sốc đến từ bên ngoài. Và ông cũng nhấn mạnh khả năng phục hồi ở đây không phải là một đặc tính tự nhiên, cố hữu của nền kinh tế mà có thể xây dựng được, phụ thuộc vào chính sách và quản lý Có nhiều cách định nghĩa về thuật ngữ này, nhưng nhìn chung, khi nghiên cứu về khả năng phục hồi, sẽ nghiên cứu 3 đặc trưng, đó là: khả năng phục hồi nhanh chóng từ cú sốc, khả năng chống chịu được ảnh hưởng của cú sốc và cuối cùng là khả năng tránh được cú sốc gần như hoàn toàn. Cụ thể: Khả năng phục hồi nhanh chóng từ cú sốc: điều này liên quan đến khả năng linh hoạt của nền kinh tế, cho phép mau chóng phục hồi trở lại sau khi bị tác động bởi các cú sốc. Khả năng này sẽ bị hạn chế nghiêm trọng t rong một số trường hợp như thâm hụt ngân sách lớn, tỷ lệ thất nghiệp cao, ...Mặc khác, khả năng nay sẽ được tăng cường khi nền kinh tế sở hữu các công cụ 11 tài chính mạnh, có thể chống lại hiệu quả các tác động tiêu cực từ cú sốc. Ví dụ, với một vị thế tài chính mạnh, các nhà hoạch định chính sách có thể tùy ý chi tiêu hoặc cắt giảm thuế để đối phó với những tác động đang gặp phải. Đây là loại khả năng phục hồi liên quan với khái niệm “sốc kháng cự”. Khả năng chống chịu được ảnh hưởng của cú sốc: đề cập đến khả năng các tác động từ cú sốc sẽ bị hấp thụ hoặc vô hiệu hóa, do đó kết quả cuối cùng là không tác động hoặc tác động không đáng kể. Đây là khả năng xảy ra khi nền kinh tế có cơ chế nội sinh phản ứng với những cú sốc tiêu cực để giảm hiệu ứng của chúng. Và khi đó, chúng được gọi là “sốc hấp thụ”. Ví dụ: Nền kinh tế sở hữu một lực lượng lao động linh hoạt, đa năng, khi bị một cú sốc tiêu cực làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của một khu vực vực cụ thể, có thể chuyển nguồn lực lao động từ khu vực bị ảnh hưởng sang khu vực mới có nhu cầu gia tăng. Khả năng tránh được cú sốc gần như hoàn toàn: khả năng này được nhận định như một đặc tính cố hữu của nền kinh tế, và gần như tương ứng với khái niệm “tính dễ tổn thương” của nền kinh tế. Vậy nên, bài nghiên cứu với việc xem xét hai thuật ngữ, hai chỉ số như đã đề cập sẽ chỉ đề cập đến khả năng phục hồi nền kinh tế với hai đặc trưng đầu tiên. Do đó, khái niệm về “khả năng phục hồi của nền kinh tế” có thể được hiểu là khả năng chống chịu, thậm chí là hấp thụ và vượt qua các tác động từ cú sốc. 2.2 Cách thức xây dựng chỉ số tổn thương vào chỉ số khả năng phục hồi của nền kinh tế Ý tưởng xây dựng các chỉ số dễ bị tổn thương nảy ra đầu tiên bởi Lino Briguglio khi ông tham gia trong một cuộc họp được tổ chức tại Malta năm 1985 về phát triển kinh tế của các nước nhỏ, có một số bất lợi đặt thù về tài nguyên ít, quy mô thị trường nhỏ, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế từ bên ngoài. Tuy nhiên, cũng tại hội nghị này, bước đầu cho thấy điều ngạc 12 nhiên khi bất chấp các bất lợi, các nền kinh tế này lại có GDP đầu người tương đối cao. Chỉ số tổn thương thực sự được phát triển và chú trọng khi diễn ra hội nghị toàn cầu Barbados về phát triển bền vững của quốc đảo nhỏ đang phát triển 6. Mãi đến năm 2003, khi nghiên cứu đầu tiên của Briguglio và cộng sự với đề tài “Economic Vulnerability and Resilience: Concepts and Measurements” được công bố, với sự kết hợp giải thích của chỉ số tổn thương và chỉ số khả năng phục hồi của nền kinh tế, thì tình huống ở các quốc đảo nhỏ mới thực sự được giải thích trọn vẹn. Và đây thực sự trở thành hai công cụ gây sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Để xây dựng hai chỉ số này, cần căn cứ vào đặc trưng của từng chỉ số đã được đề cập đến ở phần khái niệm. Tiếp đến, khai thác những góc độ kinh tế vĩ mô, thể hiện những đặc trưng này. Và những góc độ (lĩnh vực) này sẽ là những chỉ số phụ tạo nên chỉ số chính đang muốn xây dựng. Để tạo nên những chỉ số phụ chúng ta lại đi từ các biến số kinh tế vĩ mô chi tiết hơn. Phần tiếp theo sẽ đi chi tiết các chỉ số phụ cũng là các nhân tố được thừa nhận có liên quan mật thiết đến chỉ số tổn thương và chỉ số khả năng phục hồi của nền kinh tế. 2.2.1. Các chỉ số phụ dùng để xây dựng chỉ số dễ tổn thương Với đặc trưng là hướng biểu hiện của một quốc gia với các cú sốc ng oại sinh bắt nguồn từ một số đặc điểm kinh tế vốn có, khó thay đổi, các nghiên cứu thực nghiệm về việc xây dựng một chỉ số dễ bị tổn thương kinh tế như của Briguglio (1995); Briguglio và cộng sự (2003); Farrugia (2004) đã đưa ra ba chỉ tiêu thể hiện tính dễ tổn thương của nền kinh tế đó là: mức độ mở cửa kinh tế cao, tập trung xuất khẩu và phụ thuộc vào chiến lược nhập khẩu.  Mở cửa kinh tế: Theo Lino Briguglio và cộng sự (2003). “Updating and augmenting the economic vulnerability index” Version 4, 6
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan