Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
• I. Các khái niệm
• II. Mối quan hệ biện chứng
• III. Ý nghĩa phương pháp luận
• IV. Liên hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội
Kết luận.
Tài liệu tham khảo:
• Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Bộ giáo dục và Đào tạo, nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2014
• Wikipedia “Cái chung và cái riêng”
•
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động, ý thức cộng đồng, bảo vệ tài nguyên, môi trường… để đáp ứng yêu cầu của sự biến đổi khoa hoc công nghệ cũng như sự biến đổi ngày càng nhanh của xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Chúng ta phải khẳng định rằng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời những con người ấy phải có tri thức, có đạo đức.
Đặt mỗi cá nhân vào mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội ta lại càng thấy tầm quan trọng giữa mối liên hệ chung – riêng. Theo quan điểm triết học Mác – Lê nin: “Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.”
Để tìm hiểu một cách rõ ràng hơn về mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất cũng như áp dụng vào cuộc sống nhóm 7 chúng em chon đề tài “ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và xác định mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội.”
NỘI DUNG
I. Các khái niệm.
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự vật, hiện tượng rất khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước,… nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính chung giống nhau.
+ Cái riêng là phạm trù triết học dung dể chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ: ngôi nhà, cái bàn, hiện tượng ô nhiễm môi trường, quá trình nghiên cứu thị trường của một công ti.
Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong các cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dung để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất định và không lặp lại ở kết cấu vật chất khác. Tính cách của một người, vân tay, nền văn hóa của một dân tộc,… là những cái đơn nhất. Như vậy, cái đơn nhất không phải là một sự vật, một hiện tượng đơn lẻ mà nó tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là đặc trưng của cái riêng.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ : Cái chung của người Việt Nam là có một lòng lồng nàn yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê.
+ Cái đơn nhất là một phạm trù triết học chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật mà không lặp lại ở sự vật khác.
Ví dụ: Đều là cây nhưng sao mỗi loại cây lại có những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn đều là hoa hồng nhưng tại sao hồng nhung lại có mùi hương quyến rũ, hoa hồng vàng lại nhẹ nhàng, hồng xanh kiêu sa. Đó chính là đặc điểm riêng – “cái đơn nhất” của nó.
*) Phân biệt giữa cái chung bản chất và cái chung không bản chất:
+ Cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có.
Chẳng hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là vật chất luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của cái chung. Tính chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật chất khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn liền với nhau.
Ví dụ : Cuộc cách mạng là cái chung, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái khác tiến bộ hơn. Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách mạng tư sản, cách mạng dân tộc dân chủ),đó là những cái riêng.
+ Còn cái chung bản chất lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật hiện tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào đó.
Ví dụ: Cái chung của các loại cây là quá trình quang hợp, hô hấp, trao đổi chất với môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà không có những đặc điểm đấy sao con gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung bản chất chính là tình cảm, mối quan hệ với gia đình, xã hội.
II. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng :
Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lenin đề cập đến có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung", đó là phái duy thực và phát duy danh. Triết học Mác-Lenin cho rằng, cả quan niệm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.
Phái duy thực
Phái duy thực là trường phái triết học có ý kiến về mối quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng", theo phái này thì "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" không phụ thuộc vào "cái riêng", mà còn sinh ra "cái riêng". Cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra.
Ví dụ: Con người là một khái niệm chung và chỉ có khái niệm con người mới tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ thể là khái niệm tạm thời vì những con người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi)
Phái duy danh
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm. Những khái niệm cụ thể đôi khi không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.
Ví dụ: Không thể nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung mà "con người" chỉ có thể được nhận thấy, nắm bắt qua những con người thực thể cụ thể, thông qua các cá nhân cụ thể.
Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học.
Cả hai quan điểm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung hoặc ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”
Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
• I. Các khái niệm
• II. Mối quan hệ biện chứng
• III. Ý nghĩa phương pháp luận
• IV. Liên hệ giữa bản thân với gia đình, nhà
trường, xã hội
Kết luận.
Tài liệu tham khảo:
• Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, Bộ giáo dục và Đào tạo, nhà
xuất bản chính trị quốc gia, năm 2014
• Wikipedia “Cái chung và cái riêng”
•
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng và rèn luyện
phẩm chất đạo đức, ý thức lao động, ý thức cộng đồng, bảo vệ tài nguyên,
môi trường… để đáp ứng yêu cầu của sự biến đổi khoa hoc công nghệ cũng
như sự biến đổi ngày càng nhanh của xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng
hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất
nước. Chúng ta phải khẳng định rằng con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời những con người ấy phải có tri
thức, có đạo đức.
Đặt mỗi cá nhân vào mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội
ta lại càng thấy tầm quan trọng giữa mối liên hệ chung – riêng. Theo quan
điểm triết học Mác – Lê nin: “Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một
khoảng thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại,
cái riêng là cái không lặp lại.Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một
cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không
mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.”
Để tìm hiểu một cách rõ ràng hơn về mối quan hệ biện chứng giữa cái
riêng, cái chung và cái đơn nhất cũng như áp dụng vào cuộc sống nhóm 7
chúng em chon đề tài “ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và
cái riêng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và xác định mối quan hệ
giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội.”
NỘI DUNG
I. Các khái niệm.
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự
vật, hiện tượng rất khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng,
kích thước,… nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc
điểm, thuộc tính chung giống nhau.
+ Cái riêng là phạm trù triết học dung dể chỉ một sự vật, hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ: ngôi nhà, cái bàn, hiện tượng ô nhiễm môi trường, quá trình
nghiên cứu thị trường của một công ti.
Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong các cấu
trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất.
Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dung để chỉ những nét, những mặt,
những thuộc tính chỉ tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất định và không lặp lại
ở kết cấu vật chất khác. Tính cách của một người, vân tay, nền văn hóa của
một dân tộc,… là những cái đơn nhất. Như vậy, cái đơn nhất không phải là
một sự vật, một hiện tượng đơn lẻ mà nó tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là
đặc trưng của cái riêng.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung
không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ : Cái chung của người Việt Nam là có một lòng lồng nàn yêu
nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc
lập của nước nhà. Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư
của công nhân làm thuê.
+ Cái đơn nhất là một phạm trù triết học chỉ những mặt, những thuộc
tính… chỉ có ở một sự vật mà không lặp lại ở sự vật khác.
Ví dụ: Đều là cây nhưng sao mỗi loại cây lại có những đặc điểm khác
nhau. Chẳng hạn đều là hoa hồng nhưng tại sao hồng nhung lại có mùi
hương quyến rũ, hoa hồng vàng lại nhẹ nhàng, hồng xanh kiêu sa. Đó chính
là đặc điểm riêng – “cái đơn nhất” của nó.
*) Phân biệt giữa cái chung bản chất và cái chung không bản chất:
có.
+ Cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà
Chẳng hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa
duy vật là vật chất luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của
cái chung. Tính chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi
phối nhiều quá trình vật chất khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật
trong mối liên hệ qua lại, gắn liền với nhau.
Ví dụ : Cuộc cách mạng là cái chung, đó là sự thay đổi từ cái này
sang cái khác tiến bộ hơn. Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại
(cách mạng tư sản, cách mạng dân tộc dân chủ),đó là những cái riêng.
+ Còn cái chung bản chất lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự
vật hiện tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện
tượng nào đó.
Ví dụ: Cái chung của các loại cây là quá trình quang hợp, hô hấp, trao
đổi chất với môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà không có
những đặc điểm đấy sao con gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung
bản chất chính là tình cảm, mối quan hệ với gia đình, xã hội.
II. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng :
Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lenin đề cập đến có hai quan
điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung", đó là
phái duy thực và phát duy danh. Triết học Mác-Lenin cho rằng, cả quan
niệm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời
cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc
ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít
giữa chúng.
Phái duy thực
Phái duy thực là trường phái triết học có ý kiến về mối quan hệ giữa
"cái chung" và "cái riêng", theo phái này thì "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời,
thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn
tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" không
phụ thuộc vào "cái riêng", mà còn sinh ra "cái riêng". Cái chung là những ý
niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái
riêng do cái chung sinh ra.
Ví dụ: Con người là một khái niệm chung và chỉ có khái niệm con
người mới tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ thể là khái niệm tạm
thời vì những con người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi)
Phái duy danh
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung
là những tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì
trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của
các khái niệm. Những khái niệm cụ thể đôi khi không có ý nghĩa gì trong
cuộc sống của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải
bận tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị
xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các
quan điểm triết học nữa.
Ví dụ: Không thể nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung
mà "con người" chỉ có thể được nhận thấy, nắm bắt qua những con người
thực thể cụ thể, thông qua các cá nhân cụ thể.
Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị
xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các
quan điểm triết học.
Cả hai quan điểm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở
chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận
cái chung hoặc ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại khách quan và mối
liên hệ khăng khít giữa chúng.
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằng cái
riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối
liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật,
một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái
chung được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những
có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng
chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng]
là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay
một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một
cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia
nhập đầy đủ vào cái chung”
_Lê-nin_
Cụ thể là:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà
biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại
bên ngoài cái riêng.
Chẳng hạn, không có sinh viên nói chung nào tồn tại bên cạnh sinh
viên ngành kinh tế đầu tư, sinh viên ngành kinh tế phát triển… nào cũng
phải đến trường học tập, nghiên cứu, thi cử theo nội quy nhà trường. Những
đặc tính chung này lặp lại ở những sinh viên riêng lẻ và được phản ánh trong
khái niệm “sinh viên”.
Hay như quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái
chung, không thế thì không phải là nhà tư bản, nhưng quy luật đó được thể
hiện ra ngoài dưới những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng). Rõ ràng,
cái chung tồn tại thực sự nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông
qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là
không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái
chung.
Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể
tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không
chịu sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là
những cái chung trong mỗi con người.
Một ví dụ khác, nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả
những đặc điểm phong phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào
cũng bị chi phối bởi quy luật cung cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy, sự
vật hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung
là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái
chung, vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có đơn nhất. Cái chung
sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối
liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại nhiều cái riêng cùng loại.
Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương
hướng tồn tại và phát triển cảu cái riêng. Cái riêng là sự kết hợp giữa cái
chung và cái đơn nhất. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên
chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là tập thể sống động,
trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất.
Nhờ thế, giữa những cái riêng luôn có sự tách biệt, vừa có thể tác
động qua lại lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, sự “va chạm” giữa những cái
riêng vừa làm cho những sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm
cho sự vật tách xa bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những
cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện…
Ví dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của
các nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông
thôn… Còn đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các
tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên, của đất nước, nên rất
cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc
sống.
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong
quá trình phát triển của sự vật. Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới
không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái
đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở
thành cái chung, cái phổ biến.
Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do
không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện cái mới
ra đời thay thế cái cũ. Đồng thời sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn
nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định, bị thay thế
bằng cái mới.
Ví dụ, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi
của môi trường diễn ra bằng cách ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá
thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy
trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Những đặc tính
không phù hợp với điều kiện mới sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính
tương đối. Có những đặc điểm xét trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất
nhưng xét trong nhóm sự vật khác lại là cái chung.
Ví dụ: quy luật cung cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường
nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó chỉ là cái đơn
nhất, đặc trưng cho nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình
thức kinh tế trong lịch sử, nó chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho nền kinh tế
thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh
tế tự cung tự cấp.
Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong những điều
kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cái
chung có thể biến thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể
và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở
thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
không hề đơn giản, Lênin đã cho rằng:
“Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng
và cái chung”
_ Lê-nin _
III. Ý nghĩa phương pháp luận.
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng,
Triết học Mác-Lênin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan
hệ này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
• Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn
chủ quan của con người bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại
trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.
• Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức
phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào
cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không
hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không
tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng.
• Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định
"cái đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung"
có thể biến thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể
và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con
người trở thành "cái chung" và "cái chung" bất lợi trở thành "cái đơn
nhất".
Trong Bút ký Triết học, Lênin viết:
“Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết vấn
đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi những vấp
váp những vấn đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải
những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính
sách của mình đến chỗ có những sự giao động tồi tệ nhất và mất đi hẵn tính
nguyên tắc.”
IV. Mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường và xã
hội
*) Quan hệ giữa bản thân và gia đình.
Trong bất kỳ một mối quan hệ nào cũng đều chứa đựng những nét
chung và nét riêng biệt vậy nên trước tiên em đi xét về mối quan hệ giữa bản
thân và gia đình:
Gia đình là tổ ấm là nơi chở che là bến bờ vững chắc cho mỗi cá nhân,
mỗi con người. Ngoài ra, nơi đây còn là một tổ hợp của các chỉnh thể có các
mối liên hệ với nhau như vợ-chồng, cha mẹ-con, cháu –ông,bà... họ sống
hạnh phúc, đầm ấm và chan hòa.Ở đó tình thương được tồn tại, được vun
đắp và gieo trồng trong mỗi con người. Còn bản thân là một cái riêng mang
những đặc tính riêng biệt về tính cách, học vấn, nhận thức, cách giao tiếp,....
cái riêng này tạo nên sự khác biệt cho mỗi thành viên trong gia đình.
Cụ thể hóa một chút ta thấy mỗi con người sinh ra đểu có họ tên,
ngày tháng năm sinh, có các đặc điểm nhận dạng dấu vân tay,vân tai... đặc
điểm di truyền như ADN, tính cách: nhu mì, hiền lành... tất cả những đăc
điểm đó tạo nên sự khác biệt giữa các thành viên với nhau cũng như giữa
những con ngưới với con người trong một xã hội. Còn đối với gia đình, khi
ta nhắc đến 2 từ đó thôi thì ta cũng có thể hình dung ra được những đặc điểm
chung nhất để tạo nên một gia đình đó là mỗi thành viên trong gia đình đó
có mối liên hệ với nhau về mặt huyết thống hay có mối liên hệ vể mặt luật
pháp: ông, bà, cha,me, con ,anh chị em... Tất cả họ cùng sống trong một mái
nhà cùng lao động, cùng sinh hoạt, cùng xây đắp nên một gia đình hoàn
chỉnh hơn. Và gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình thành
nhân cách cho mỗi con người trong xã hội.
Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những người thầy thân
yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng,
hòa nhập vào đời sống cộng đồng như cách ứng xử giữa các thành viên gia
đình (cha mẹ thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông
bà vừa yêu quý, vừa nghiêm khắc và bao dung với con cháu), giữa gia đình
với họ hàng, với láng giềng, với cộng đồng (trọng nhân nghĩa, làm điều
thiện, sống chan hòa, ghét thói gian tham, điều giả dối), qua đó giúp con
cháu tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng
lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Trong gia đình, người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu
kính, vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với
nhau…Ở đó, mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương: từ khoảng
sân, mái nhà, chiếc giường, … đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Từ đó khi đi phân tích mối quan hệ giữa bản thân với gia đình ta nên
nghĩ ngay đến sự tác động qua lại giữa chúng. Bản thân là một cái riêng,
chứa những cái riêng góp phần vào cái chung- “gia đình” để tạo nên cái
riêng biệt cho cái chung đó. Và cũng từ những cái chung căn bản đó chúng
ta gần gũi, gắn kết, có tinh thần trách nhiệm hơn đối với gia đình tuy nhiên
không hề đánh mất đi cái riêng, sở trường của bản thân bởi chính mái ấm đó
đã tạo điều kiện cho cái riêng phát triển mạnh mẽ hơn, do được đáp ứng
chăm sóc đầy đủ các nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần.
*) Quan hệ giữa bản thân với nhà trường.
Đối với triết học Mác –Lênin, mối quan hệ giữa mối chúng ta- sinh
viên với nhà trường là một mối quan hệ gắn bó mật thiết, liên hệ với nhau.
Xét trong nền gíao dục nước nhà, nhà trường là một cái riêng. Mỗi nhà
trường đều có chung những đặc điểm như đều có tên trường, có đội ngũ
giáo viên, học sinh, sinh viên, có thiết bị dụng cụ phục vụ học tập, có nội
quy, quy định của nhà trường… đó chính là cái chung mà mỗi nhà trường
đều có. Tên cụ thể mỗi trường, mỗi sinh viên, học sinh hay mỗi phương
pháp dạy học riêng của trường… là các cái đơn nhất, là đặc trưng của một
trường mà không trường nào có cả. Cái đơn nhất của mỗi trường tạo nên cái
riêng biệt, đặ trưng của trưng của trường đó, đặc điểm để phân biệt giữa các
trường với nhau.
Nhà trường và mỗi bản thân chúng ta đều tồn tại một cách khách
quan, trong đó sinh viên tồn tại trong nhà trường, thể hiện năng lực nhận
thức của bản thân qua các phương pháp học tập khác nhau. Ta có thể thấy
được nhà trường là cái toàn bộ, còn giáo viên, sinh viên,..là một bộ phận
khẳng định và thể hiện nhà trường, nó sâu sắc bản chất hơn nhà trường.
Trong nhà trường mỗi sinh viên là một cái riêng, mỗi sinh viên lại có một
phương pháp học tập khác nhau tạo nên cái đơn nhất cho nhà trường . nhưng
khi phương pháp học tập đó có hiệu quả cao và được chia sẻ rộng rãi cho
nhiều người, điều đó sẽ tạo nên cái chung giữa các sinh viên. Từ đó ta thấy
được cái đơn nhất đã chuyển hóa thành cái chung trong điều kiện nhất định
Áp dụng cái chung- cái riêng của triết học Mác- Leenin vào phương
pháp quản lí sinh viên, học sinh của mỗi nhà trường: Mỗi nhà trường đều
chọn cho mình những giáo viên, học sinh, sinh viên ưu tú, đủ điều kiện mà
nhà trường đặt ra, có năng lực và khả năng tạo được nét riêng cho nhà
trường. Trong quá trình dạy và học, mỗi giáo viên, mỗi sinh viên phải chọn
cho mình phương pháp dạy và học tối ưu hiệu quả nhất để có thể phát huy
hết tiềm năng của bản thân mình. Khi phương pháp đó là hữu ích, nó được
chia sẻ, áp dụng rộng rãi cho tất cả mọi người, từ đó giúp cho mọi người đi
đúng hướng việc học tập trở nên dễ dàng và đạt hiệu quả cao hơn. Qua quá
trình học tập một bộ phận học sinh, sinh viên chưa đạt kết quả cao, không đủ
điều kiện để dự thi thì phải được đào tạo lại, đến khi đủ điều kiện và đạt
được kết quả tốt hơn. Mặt khác một bộ phận học sinh, sinh viên có phương
pháp học tập tốt hơn đạt kết quả cao trong học tập và được nhà trường khen
thưởng qua các mức khác nhau như: xuất sắc, tiên tiến…hay xếp loại: giỏi,
khá, trung bình, yếu…
Về các hoạt động cho sinh viên, nhà trường luôn vận động, khuyến
khích sinh viên tham gia các hoạt động tình nguyện, vui chơi lành mạnh và
hạn chế những hoạt động vô bổ, không làh mạnh diễn ra trong nhà trường,
đồng thời đặt ra những quy định yêu cầu học sinh, sinh viên, cán bộ giáo
viên phải tuân theo.
Xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu những chủ nhân tương lai của
đất nước- mỗi sinh viên phải không ngừng ngày càng nâng cao trình độ, kiến
thức của mình, hoàn thiện bản thân. Mỗi sinh viên cần năng động, sáng tạo,
không ngừng tìm tòi nghiên cứu để tìm ra, nghiên cứu ra những cái hay cái
mới có ích cho bản thân, cho xã hội và cho đất nước. Không chỉ vậy nhà
trường cũng phải tạo điều kiện tốt nhất cho sinh viên học tập đạt kết quả tốt
nhất, phải không ngừng thay đổi cái lỗi thời, lạc hậu bằng cái mới, hiện đại
hơn, tiên tiến hơn nhằm tạo ra một thế hệ tương lai tốt nhất cho đất nước.
*) Mối quan hệ giữa bản thân với xã hội.
Xét về mối quan hệ giữa bản thân với xã hội, ta thấy cái riêng là cá
nhân, cái chung là xã hội. Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi
cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể
không lặp lại, khác với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những cá nhân này
sống và hoạt động trong nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều
kiện lịch sử quy định. Trong quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ
với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách như sau:
• Cá nhân là phương thức tồn tại của loài “người”. Không có con
người nói chung, loài người tồn tại độc lập.
• Cá nhân là cá thể riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã
hội, là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
• Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.
Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó với nhau,
chuyển hóa lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng. Mác cho rằng: “Chỉ có
trong tập thể mới có những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng
phát triển toàn diện những năng khiếu của mình… chỉ có trong tập thể mới
có tự do cá nhân.”
Mỗi cá nhân trong một tập thể phải biết phát huy điểm mạnh của
mình, biến cái đơn nhất có lợi thành cái chung, biến cái chung bất lợi thành
cái đơn nhất. Khi làm bất cứ một vấn đề gì cũng phải xem xét giải quyết vấn
đề sao cho hợp lý nhất. Có như thế thì con đường đến thành công của bạn sẽ
ngắn đi rất nhiều đấy.
V. KẾT LUẬN
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một
hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách
quan. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc
tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều
cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự
lặp lại. Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua
cái riêng để thể hiện sự tồn tại của mình; còn cái riêng tồn tại trong
mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với vai trò là một cái riêng, mỗi
một cá nhân hãy biết hòa mình với cộng đồng, cống hiến hết mình
cho gia đình, nhà trường và xã hội. Áp dụng một cách nhuần
nhuyễn, hợp lý triết học vào cuộc sống, công việc để mang lại một
hiệu quả tốt nhất. Tất cả là bởi vì: “Học phải đi đôi với hành, giáo
dục phải gắn liền với thực tiễn.”
- Xem thêm -