Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích luận điểm nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, th...

Tài liệu Phân tích luận điểm nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì

.DOC
14
535
110

Mô tả:

1 Phân tích luận điểm: Nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bài làm Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa kiệt xuất, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt nam. Người đã để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng lý luận vô cùng có giá trị không những đối với cách mạng Việt Nam mà còn cho cách mạng thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp ở một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế - xã hội kém phát triển. Vấn đề dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung nhất quán, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong các bài nói, bài viết của mình, tuy Hồ Chí Minh không trực tiếp nói nhiều đến vấn đề giai cấp, vấn đề chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn toát lên tinh thần, nội dung của tư tưởng ấy, bằng cách diễn đạt hết sức cô đọng, gần gũi vơí nhận thức của nhân dân, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Người chỉ rõ: "Nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"1. Và "Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ." 1. Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm trên là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn sau: 1.1. Xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nhấn mạnh rằng, chỉ đứng trên lập trường giai cấp công nhân mới có thể giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc. Đó là thực hiện sự thống nhất chân chính giữa lợi ích của dân tộc này với dân tộc khác. Xóa bỏ triệt để tình trạng áp bức dân tộc, để thực sự có độc lập cho dân tộc; bảo vệ nền độc lập cho dân tộc mình phải thống nhất với việc tôn trọng chủ quyền của dân tộc khác. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848 C.Mác viết : "Sở dĩ có áp bức dân tộc là vì có áp bức giai cấp, hãy xoá bỏ tình trạng áp bức giai cấp thì tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác sẽ được xoá bỏ."2 Giai cấp vô sản trong khi tự giải phóng khỏi tình trạng nô lệ của mình, đồng thời cũng giải phóng luôn cả xã hội, tiến tới xây dựng một xã hội không có áp bức, 1 . C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr.56. . C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr.624. 2 2 bóc lột, đảm bảo cho mọi người có quyền tự do và làm chủ, một xã hội mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động. Chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo mới gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tức là thực hiện độc lập tự do cho dân tộc, thực hiện sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội trong độc lập tự do. Mục đích đó được thực hiện nhất quán từ cơ sở kinh tế xã hội và chính trị của cách mạng vô sản. Đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhờ đó mà xóa bỏ được tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột. Đó còn là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, thực hiện và bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động, một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Nó thay thế cho nhà nước trước đó vốn chỉ là công cụ của một nhóm xã hội thuộc giai cấp thống trị để bóc lột và áp bức nhân dân lao động. Chính bằng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về tay nhân dân, nó thay thế cho nền dân chủ tư sản, vốn chỉ là một thiết chế bảo đảm quyền lực của giai cấp tư sản. Như vậy, lợi ích giai cấp công nhân phù hợp và thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động, của cả dân tộc và toàn xã hội; giải phóng giai cấp công nhân gắn liền với giải phóng xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng quốc gia dân tộc theo mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội. Đó là cơ sở phản ánh bản chất của giai cấp công nhân, bảo đảm cho dân tộc có độc lập thực sự, đồng thời nền độc lập dân tộc ấy chỉ thực sự bền vững trên con đường phất triển đi lên chủ nghĩa xã hội. 1.2. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh, khi xã hội có sự phân chia giai cấp, thì vấn đề dân tộc bao giờ cũng mang tính giai cấp. Vấn đề dân tộc gắn với giai cấp nào thì nội dung, tính chất và phương hướng phát triển của giai cấp đó đều được xác định theo lập trường, quan điểm của giai cấp thống trị. Vào thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, loài người đã được chứng kiến những cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường của giai cấp tư sản. Mặc dù đây là những cuộc cách mạng không triệt để, nhưng nó đã thể hiện sự tiến bộ trong sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Cách mạng tư sản Anh không triệt để, vẫn duy trì chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản tìm mọi cách chiếm đoạt tư liệu sản xuất của người nông dân, biến họ trở nên trắng tay, thành những người vô sản, phải làm thê cho nhà tư bản, nhưng lịch sử vẫn ghi nhận đây là cuộc cách mạng mở đầu thời kỳ cận đại của lịch sử loài người. Tiếp đó là cuộc cách mạng tư sản Mỹ (4/7/1776) với bản Tuyên ngôn "nhân quyền và dân quyền" nổi tiếng, đại cách mạng tư sản Pháp (14/7/1789) với khẩu hiệu "tự do, bình đẳng, bác ái" đã có sự tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của lịch sử thế giới. ở Châu Á, cuộc cách mạng của Nhật Bản (1861) đã làm cho nước này phát triển rất hùng mạnh...có một vấn đề không thể phủ nhận là giai cấp tư sản trong quá trình thống trị của mình, mặc dù chưa đầy một thế kỷ nhưng đã tạo ra cho nhân loại những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các xã hội trước đó cộng lại. Đồng thời, cũng chính giai cấp tư sản đã tạo ra giai cấp đối lập với nó là giai cấp công nhân - đây chính là những người sẽ đào huyệt chôn chính chủ nghĩa tư bản như C.Mác đã từng nhận định. 3 Do sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, một số nước đế quốc hiếu chiến muốn chia lại thị trường thuộc địa đã gây ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Cuộc chiến tranh hao người tốn của ấy đã làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, đồng thời nó cũng là nguyên nhân làm cho chủ nghĩa tư bản trở lên suy yếu, tạo điều kiện thuận lợi để cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917) nổ ra và giành thắng lợi, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo điều kiện, tiền đề hết sức quan trọng thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc phát triển nhanh chóng và giành thắng lợi trong thế kỷ XX. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời, khi tổng kết thực tiễn cách mạng vô sản thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản chỉ rõ: Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Ăngiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôít Gioócgiơ và Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa kém phát triển, tư bản chưa phát triển hay mới phát triển, kinh tế còn theo hình thức phong kiến, chính trị thì theo lối tù trưởng, sự thống trị của các đế quốc ở đó phần nhiều là quân sự chiếm cứ. Cuộc cách mạng ở các xứ ấy nhờ các nước chuyên chính giúp cho, có thể trực tiếp chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa mà không cần phải trải qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa (như: Mông Cổ, Ma Rốc...). Từ thực tế đó, Quốc tế Cộng sản nhận định cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo. 1.3. Xuất phát từ thực tiễn đòi hỏi của cách mạng Việt Nam. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt nam, xã hội Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đất nước mất tự do, lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã anh dũng đứng lên chống lại thực dân Pháp giành độc lập. Chúng ta tự hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững nền độc lập dân tộc của ông cha ta. Khi đất nước bị bọn xâm lược giày xéo thì không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn cho thấy, từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường "Tây du" và "Đông du" của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến, tư sản đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Đến cuối đời, cụ Phan Bội Châu cũng phải thừa nhận: "Trăm lần thất bại chưa một lần thành công". Sau thất bại của các phong trào yêu nước, đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước. 4 Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 05 tháng 6 năm 1911. Từ đấy, Người đến nước Pháp và qua nhiều nước thuộc châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Người đã lăn lộn vào cuộc sống thợ thuyền, làm đủ nghề: nấu bếp, bồi bàn, quét tuyết, đốt lò, chụp ảnh, vẽ tranh, viết báo… vừa chật vật kiếm sống vừa hoạt động chính trị. Tại Anh quốc, Người tham gia Công đoàn lao động hải ngoại, tại Mỹ, Người từng hòa mình trong cuộc sống và sinh hoạt đấu tranh của người da đen của phố Hác-lem… Năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, lập Hội những người Việt Nam yêu nước. Sau này trong bài: Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin (viết năm 1960) Người kể lại: “Tôi tham gia tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy - (hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) - tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, Công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”.3 Ngày 17 tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Dự thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Luận cương đã làm cho Người “rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao”? vì ở đó Người đã tìm ra được con đường cần thiết, đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Người "vui mừng đến phát khóc lên" và ngồi một mình trong phòng mà muốn nói to lên như nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.4 Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục, Người đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.5 Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi thử thách, gian khổ, tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Ðông Nam Á, Ðảng ta trở thành đảng cầm quyền. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Ðảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, giải phóng miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau năm 1954, Ðảng lãnh đạo dân tộc tiếp tục cuộc trường chinh mới, tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thần thánh, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Có thể khẳng định rằng, con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay do Ðảng Cộng sản chân chính lãnh đạo tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Ðộc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Có vậy độc lập dân tộc mới triệt để. Chống đế quốc tức là chống áp bức, bóc lột, mà muốn chống áp bức, bóc lột triệt 3 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H. 2002, tr.126. . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H. 2002, tr.127. 5 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, H. 2002, tr.314. 4 5 để phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Con đường tư bản chủ nghĩa là con đường đầy rẫy khuyết tật, là con đường đầy máu và nước mắt nên chúng ta không thể lựa chọn con đường đó. Ðảng Cộng sản Việt Nam là một Ðảng Mác - Lênin chân chính, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn gắn bó với nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 2. Nội dung tư tưởng của luận điểm. 2.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết của cách mạng giải phóng dân tộc, là điều kiện, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc luôn gắn liền với sự tồn vong và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Độc lập dân tộc luôn là nguyện vọng chính đáng của mọi người dân sống trong cộng đồng dân tộc; nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột của kẻ thù xâm lược. Độc lập dân tộc chính là cơ sở, tiền đề không thể thiếu nhằm giữ vững mối quan hệ ngoại giao với các dân tộc khác, nó là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, dân tộc. Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử cho thấy, độc lập tự do là nguyện vọng thiết tha của mọi người dân sống trong cộng đồng dân tộc. Giành và giữ quyền độc lập của tổ quốc luôn là mối quan tâm thường trực của mỗi người dân. Việc tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia đã trở thành nguyên tắc và điều kiện tiên quyết để thiết lập và duy trì mối quan hệ bang giao giữa các nước. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thể nhân dân thế giới về chủ quyền độc lập của đất nước: Mọi người dân đều có quyền hưởng tự do và độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do, độc lập ấy. 6 Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đêm 19-12-1946, Người nhấn mạnh: "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ".7 Trong Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, được phát trên đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, ngày 17-7-1966, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh: "Không có gì quý hơn độc lập tự do".8. Đây là một sự khẳng định chân lý của thời đại, thể hiện quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Câu nói nổi tiếng ấy đã đi vào lịch sử của dân tộc, có sức cổ vũ và qui tụ nguồn sức mạnh của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đây cũng là sự thể hiện nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc chính là cái đích trực tiếp của công cuộc giải phóng dân tộc, đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bất công, xóa bỏ sự đô hộ và xâm lược từ bên ngoài. 6 . C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr.555-557. . C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr.480. 8 . C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.2002, tr.107. 7 6 Khẳng định sự tồn tại và phát triển của dân tộc, bảo đảm cho dân tộc đó có hòa bình, ổn định bền vững về chính trị, kinh tế, sự thống nhất về lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, sức mạnh độc lập và tự chủ trong việc lựa chọn và quyết định con đường phát triển của dân tộc mình trong mối quan hệ hợp tác bình đẳng với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới. Vấn đề này đã từng diễn ra trong lịch sử khi quốc gia dân tộc đã hình thành và trải qua các thời kỳ hưng thịnh và suy vong của các triều đại phong kiến cũng như trong lịch sử hiện đại và đương đại, với sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Khi giải quyết vấn đề độc lập dân tộc dưới ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa, không tránh khỏi những mâu thuẫn và hạn chế nhất định, do bản chất kinh tế, chính trị của chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa - những hình thái kinh tế xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các mối quan hệ đối kháng giai cấp gây nên. Vượt qua những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường tư sản và phong kiến, chỉ có thể con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, nghĩa là giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây chính là điểm mấu chốt thể hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc thực sự phải bảo đảm cho dân tộc có quyền tự quyết không lệ thuộc vào nước ngoài trong việc lựa chọn, quyết định chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển cho đất nước mình. Do đó, mỗi quốc gia, dân tộc, độc lập cũng có nghĩa là độc lập thực sự về chính trị và kinh tế. Đó chính là cơ sở để mỗi quốc gia dân tộc độc lập về văn hóa, giữ vững được bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Độc lập dân tộc đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị, văn hóa... Vì vậy, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do và bình đẳng. Độc lập dân tộc phải bảo đảm chủ quyền của mỗi dân tộc trong các quan hệ quốc tế, phải được thừa nhận về pháp lý quốc tế và được khẳng định trong thực tế. Đó là chủ quyền của một quốc gia độc lập, có sự thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ, những công việc nội bộ của quốc gia dân tộc phải do chính quốc gia dân tộc đó giải quyết và quyết định, không có sự can thiệp từ bên ngoài vào. Sự trao đổi, hợp tác về kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng đóng góp vào lợi ích chung vào hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc, vì một thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong tự do, hạnh phúc. Do đó, đấu tranh cho độc lập của mỗi dân tộc thống nhất hữu cơ với mục tiêu chung của thời đại, của tất cả các cộng đồng dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 7 Trong lịch sử đã từng diễn ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa do giai cấp tư sản và phong kiến gây ra nhằm bành chướng lãnh thổ, mở rộng thuộc địa, áp bức bóc lột dân tộc khác nhằm thỏa mãn tham vọng về của cải và quyền lực. Để có thể tiến hành các cuộc chiến tranh, giai cấp phong kiến và tư sản thường sử dụng lợi ích dân tộc, nhân danh lợi ích dân tộc, biến cả dân tộc mình thành công cụ, phương tiện, thành tấm lá chắn. Điều đó giải thích vì sao giai cấp phong kiến và tư sản không chỉ mâu thuẫn và xung đột với nhân dân và dân tộc trong nước, mà còn gây mâu thuẫn, xung đột với các dân tộc khác ở bên ngoài, làm tổn hại đến nền độc lập tự do của nước mình, đồng thời chà đạp lên chủ quyền quốc gia và độc lập của các quốc gia dân tộc khác. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề để bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người khẳng định, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữa hai cuộc cách mạng đó không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó mật thiết với nhau. Giai đoạn thứ nhất nhằm mục tiêu trực tiếp trước mắt là "độc lập dân tộc" và "ruộng đất dân cày", coi đó là điều kiện tiên quyết để đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chúng ta chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội khi đã giành được chính quyền về tay nhân dân, lực lượng đông đảo nhân dân đã đựơc giải phóng. Mặt khác, trong cách mạng dân tộc dân chủ, bên cạnh nhiệm vụ đánh đế quốc để giải phóng dân tộc, nhiệm vụ dân chủ phải được tiến hành đồng thời, bảo đảm vừa thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, vừa chuẩn bị những tiền đề cần thiêt phục vụ cho giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này. Như vậy, độc lập dân tộc vừa là mục trực tiếp trước mắt của cách mạng dân tộc dân chủ, là điều kiện, tiền đề để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, do vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải thủ tiêu mọi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết diễn ra trong phạm vi từng quốc gia, nhưng đều có mối quan hệ và ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Lôgíc phát triển của cuộc cách mạng này không chỉ dừng lại ở việc xóa bỏ tình trạng đối kháng giai cấp mà còn tiến tới xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, xóa bỏ cả sự tồn tại của nhà nước. 2.2. Chủ nghĩa xã hội là con đường chắc chắn nhất để bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập dân tộc. Lựa chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã hội sau khi giành được độc lập dân tộc là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của các quốc gia dân tộc trong thời đại ngày nay, phù hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển của lịch sử xã hội loài người. Bản chất xã hội chủ nghĩa là thực hiện triệt để việc giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra áp bức con người về chính trị và sự nô dịch của con người về tinh thần. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giaud, nước mạnh, công bằng, dân chủ, đạo đức, văn minh, một chế độ ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội tự do và nhân 8 đạo, phản ánh được khát vọng thiết tha của loài người. Người nói: "Chúng ta tranh đấu được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đối, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì"9. Vì vậy, để giữ vững được độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, chúng ta không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phác thảo những nét cơ bản về chế độ xã hội chủ nghĩa bằng cách trình bày dung dị, mộc mạc mang tính đại chúng rất phù hợp với nhận thức của người dân Việt Nam. Người xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là con đường duy nhất để giải phóng nhân loại một cách triệt để. Trả lời câu hỏi: "Chủ nghĩa xã hội là gì", Người diễn giải: nói một cách vắn tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Người nhấn mạnh mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Theo tư tưởng của Người, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội có thể được khái quát trên những nội dung chủ yếu sau đây: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: "...Chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ".10 Quyền làm chủ thuộc về nhân dân, dân là chủ, cán bộ là đầy tớ. Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Theo Hồ Chí Minh: "Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng...làm của chung".11 Chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, có cuộc sống tinh thần phong phú, có điều kiện để phát triển hết mọi khả năng của mình. Bởi vì "Chỉ chế độ xã hội chủ nghĩa thì mọi người có điều kiện cải thiện đời sống của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình".12 Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng, hợp lý, "Một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng". 13, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi... 9 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t4, tr 152 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr 291 11 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t8, tr. 226 12 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr. 291 13 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr. 291 10 9 Chủ nghĩa xã hội là của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng: "Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân lao động xây dựng nên", "đó là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng".14 Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một chế độ ưu việt nhất trong lịch sử nhân loại, đó là xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, đạo đức và văn minh. Quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội là một quan niệm khoa học, hoàn chỉnh và hệ thống, dựa trên nguyên lý chủ yếu của chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với đặc điểm truyền thống của nước ta. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, các cuộc cách mạng tư sản chỉ nhằm xác lập và duy trì quyền lực của giai cấp tư sản và bảo vệ sự tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng chỉ đạt được ý nghĩa tiến bộ trong giai đoạn đầu khi giương ngọn cờ chống chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, giải phóng giai cấp tư sản, hình thành dân tộc tư sản và thiết lập chế độ độ cộng hòa nhà nước tư sản và chế độ dân chủ tư sản. Độc lập dân tộc giành được trong cách mạng tư sản, chỉ mở đường cho giai cấp tư sản xác lập vững chắc quyền lực thống trị của nó, chứ không phải là để giải phóng con người và xã hội khỏi áp bức, bóc lột. Do đó, chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản và cách mạng tư sản chỉ thực hiện độc lập dân tộc một cách có giới hạn, không triệt để. Độc lập dân tộc tư sản không những không thủ tiêu áp bức bóc lột, mà nó còn duy trì và phát triển đến trình độ hiện đại của tình trạng áp bức và bóc lột tư sản đối với giai cấp công nhân, nông dân và mọi tầng lớp lao động làm thuê khác trong xã hội tư sản. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc đi đến sự phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú về văn hóa tinh thần, thực hiện sự đầy đủ nhất về quyền lực của nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử, chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới cái giá trị đích thực của nó, đó là hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lợi cho mọi người dân lao động, làm cho mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Theo Hồ Chí Minh, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình kết hợp xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm xây dựng một xã hội phát triển toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội v.v...tạo cơ sở vững mạnh cho việc bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển những thành quả của công cuộc giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho tới nay chỉ là những bức tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau".15 14 15 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr23 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t1, tr461 10 Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng đã cảm nhận một cách sâu xa: đất nước có độc lập mà nhân dân vẫn trong cảnh đói nghèo, thiếu ăn, thiếu mặc, thì độc lập ấy có ý nghĩa gì? Người chỉ rõ: thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó hơn nhiều. Cái lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát hiện thấy: muốn cứu nước, giải phóng dân tộc để có độc lập tự do thì không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để cho dân tộc, mới thực hiện giải phóng giai cấp vô sản và giải phóng dân tộc, mới bảo đảm một cách thực chất độc lập, tự do. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, việc thấm nhuần quan điểm "gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội" của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn. 3. Tính đúng đắn của luận điểm. 3.1. Luận điểm của Hồ Chí Minh là hết sức đúng đắn sáng tạo, đã chỉ đạo cách mạng Việt Nam thắng lợi Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nguồn sức mạnh vô tận cho phong trào cách mạng Việt Nam, sức mạnh đó là do có sự tác động biện chứng giữa hai yếu tố: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa dân tộc và thời đại. Nếu tách riêng các yếu tố thì không thì không thể thấy hết được vị trí, tầm quan trọng của nó, không thấy nguồn sức mạnh tiềm ẩn trong đó, đồng thời dễ có nguy cơ lâm vào những sai lầm "tả khuynh" hoặc "hữu khuynh". Vì vậy, việc kết hợp đúng đắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là vấn đề có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nguyên lý này đã trở thành lý luận, chiến lược, sách lược trong cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Một bài học thực tiễn phong phú được rút ra là: khi Đảng cộng sản đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng không bao giờ rời bỏ ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng càng tiến lên và thắng lợi bao nhiêu thì ngọn cờ dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội càng được giương cao, đồng thời, ngọn cờ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội càng được giương cao bao nhiêu thì sức mạnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và uy tín của Đảng càng được nâng cao bấy nhiêu và sự nghiệp đổi mới để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản càng giành được thắng lợi bấy nhiêu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mãi mãi là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của cách mạng Việt Nam. Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng phù hợp trong từng thời kỳ lịch sử là một trong những nguyên nhân của thành tựu cách mạng nước ta. Thống nhất độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng ta từ trước đến nay, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp 11 của tình hình kinh tế và chính trị thế giới, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Cương lĩnh bổ sung, phát triển 2011, Đảng ta xác định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhằm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".16 Như vậy, trong thời kỳ mới của cách mạng nước ta, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán của Ðảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của nhân dân ta. Suốt hơn 80 năm qua, từ khi Ðảng ra đời đến nay, dù cách mạng trong hoàn cảnh nào, lúc thuận lợi hay khó khăn, kể cả khi trong tình thế "hiểm nghèo", Ðảng ta vẫn không xa rời mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vì con đường xã hội chủ nghĩa là con đường đúng đắn phù hợp với quy luật và xu thế phát triển của thời đại. Chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm dân tộc độc lập thật sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời Ðảng ta không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao nhận thức của mình về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên ở nước ta. Ðây là kết quả của cả một quá trình trăn trở, tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh tư tưởng hết sức gian khổ, quyết liệt. Con đường đó là sự kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Ðảng, toàn dân ta trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong gần một thế kỷ qua. 3.2. Cần đấu tranh phê phán với những quan điểm sai trái. Như chúng ta đã chứng kiến, chủ nghĩa tư bản trong quá trình tồn tại của mình, mặc dù trải qua nhiều cuộc khủng hoảng và suy thoái, nhiều bước quanh co, phức tạp, gây ra nhiều tội ác cho loài người (chiến tranh xâm lược, nạn khủng bố, hủy diệt, phân biệt chủng tộc...), song đã tạo ra những lực lượng sản xuất khổng lồ, hiện đại, thúc đẩy nền văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, song hiện tại vẫn còn tiềm năng phát triển nhất là về kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa tư bản và lao động - chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc... Ðặc biệt hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 16 . Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.24. 12 đang diễn ra, đây là cuộc khủng hoảng lớn nhất của chủ nghĩa tư bản trong 80 năm qua và là một cuộc khủng hoảng nhiều mặt: tài chính, tiền tệ, thương mại, cơ cấu, thể chế và mô hình phát triển. Ðể tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng, nhiều chính khách và học giả tư sản đã tìm đọc tác phẩm Tư bản của C.Mác. Ðiều đó một lần nữa khẳng định giá trị, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa tư bản hiện đại về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được những mâu thuẫn nan giải của mình, muốn giải quyết phải thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn, nhân đạo hơn đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Ðông Âu bị sụp đổ là một bi kịch lịch sử lớn của thế kỷ 20, có nguyên nhân khách quan và chủ quan mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do chậm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội, lại mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối cải tổ, cộng với sự chống phá của các thế lực đế quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Ðông Âu đã bị sụp đổ. Tuy nhiên, đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, mà chỉ là sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những bản chất tốt đẹp của nó vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới, những giá trị cao cả của nó vẫn tồn tại trong đời sống nhân loại. Sau "trận động đất chính trị" đó, các nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, một số nước tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từng bước được phục hồi, có sự tập hợp lực lượng mới; phong trào "cánh tả" ở Tây Âu và Mỹ la-tinh có bước phát triển mới, phong trào "chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI" nổi lên ở nhiều nước Mỹ la-tinh. Tuy nhiên, trước sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã nảy sinh nhiều vấn đề về nhận thức lý luận đối với chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân xuất hiện nhiều nhận thức khác nhau. Lợi dụng thực tế đó, các thế lực phản động, thù địch đã ra sức tiến công quyết liệt, hòng thủ tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa xã hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ra sức tuyên truyền về sự “kết thúc” của chủ nghĩa xã hội, về “sự cáo chung” của chủ nghĩa Mác-Lênin...qua đó, chúng muốn làm lung lay nền tảng tư tưởng của chúng ta, làm chệch hướng chúng ta trong sự nghiệp đổi mới. Chúng cho rằng, Liên Xô và Đông Âu là thành trì của chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ, tất yếu các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng sẽ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ, hệ thống chủ nghĩa xã hội sẽ bị xóa sổ, và như vậy thì những nguyên lý chủ yếu của chủ nghĩa Mác-Lênin là sai lầm, là đi ngược lại với xu thế phát triển của thời đại. Đối với Hồ Chí Minh, chúng ho rằng, tư tưởng của Người chỉ là sự lặp lại tư tưởng của Lênin nên không khỏi mắc phải những sai lầm, làm cản trở sự phát triển tất yếu của lịch sử. 13 Ở nước ta, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Ðảng và nhân dân ta giành được trong gần 30 năm đổi mới thì đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi; tình trạng phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào Ðảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa... Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình" kết hợp gây bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Ðảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, các thế lực cơ hội chính trị và một số người muốn phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản đại diện cho con đường xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng "chủ nghĩa xã hội là con đường không có tương lai", "đi vào ngõ cụt", "đã bị lịch sử phủ định"; "lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Ðảng" hoặc "chủ nghĩa nào chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu nước mạnh"... Quan điểm đó là sai lầm, không phù hợp với thực tế lịch sử Việt Nam. Chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa không phải là do ý muốn chủ quan của Ðảng mà đây là tổng hợp điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kinh tế và chính trị, trong nước và quốc tế, phản ánh khát vọng của dân tộc. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cũng là sự lựa chọn của chính lịch sử từ hơn 80 năm về trước. Năm 1930, giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé về kinh tế, non yếu về chính trị, không nắm được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, vai trò của nó cũng chấm dứt. Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, đặt nền móng cho con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 3.3. Trách nhiệm của cá nhân Là thanh niên thế hệ 9x, được gia đình, nhà trường các cấp học phổ thông, dạy cho tôi nhiều kiến thức về văn hoá, chính trị xã hội, nhưng tôi chưa hiểu nhiều về chính trị, về chủ nghĩa Mác, về tư tưởng Hồ Chí Minh, về Quan điểm, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng. Nhưng từ khi bước chân vào học đại học, được nghiên cứu về chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, tôi đã hiểu tại sao Đảng, Nhà nước ta lại chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phải luôn kiên định con đường ấy. Tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho mọi người ai ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, được chữa bệnh, tiến dần từ ăn tạm đủ no, mặc tạm đủ ấm, không còn người mù chữ đến ăn ngon, mặc đẹp, trình độ kiến thức nâng cao theo kịp sự phát triển của sự phát triển của nền văn minh thế giới, con người được phát triển toàn diện, phát huy được khả năng, trí tuệ của mình phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chúng tôi nhận thức rằng, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đến nay đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế đất nước tăng trưởng ổn định, lạm phát được ngăn chặn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Quan hệ quốc tế được mở rộng, tạo được thế đứng mới của đất nước trên 14 trường quốc tế...Sở dĩ đạt được những thành tựu to lớn như trên là vì Đảng ta luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu và phát triển kho tàng tư duy Hồ Chí Minh vào trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, mọi người dân Việt Nam, cần nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, thấy rõ những luận điểm xuyên tạc, vu khống, phản bác chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực phản động. Tích cực đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, bảo đảm cho đất nước của chúng ta tiến bước vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta và nhân dân tiến bộ trên thế giới một tài sản vô giá là tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã xác định con đường có tính chất bước ngoặt trong lịch sử dân tộc nước ta – độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mỗi chúng ta cần phải ra sức học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng của người trên từng cương vị công tác, góp phần tích cực xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh. Tự hào được sống trong thời đại Hồ Chí Minh, với niềm tin tưởng, phấn khởi trước những thắng lợi cử sự nghiệp đổi mới đất nước. Mỗi chúng ta hãy xứng đáng là những chủ nhân của đất nước! Tích cực nghiên cứu, học tập nắm vững những tri thức cần thiết làm cơ sở lập nghiệp sau này, tích cực đóng góp một phần công sức bé nhỏ của mình vào sự phồn vinh của đất nước, phấn đấu vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" mà Đảng ta đã xác định để thoả lòng mong ước của Bác Hồ. Hãy “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan