Đề bài:
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh "thắng đế quốc, phong kiến tương đối
dế, thắng bần cùng lạc hậu khó hơn nhiều"
Bài làm:
1.Cơ sở lý luận của luận điểm
1.1. Theo CN Mác
1.1.1. Cách mạng XHCN
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ
cũ,nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách
mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao
động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1.1 Theo nghĩa hẹp
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị
được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành
được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
1.1.1.2. Theo nghĩa rộng
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như
vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành
chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp
công nhân cùng với quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.
1.2. Đặc điểm
Sinh thời, nhiều lần chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:"Thắng đế quốc
và phong kiến tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu còn khó hơn nhiều". Nếu
trong chiến đấu chống ngoại sâm đã có nhiều khó khăn, thử thách thì trong xây
dựng hòa bình, đổi mới đất nước lại gặp nhiều khó khăn thử thách. Chính vì lẽ
đó, đất nước đi lên CNXH là phải xây dựng lại từ quan hệ sản xuất đến lực lượng
sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiên trúc thượng tầng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra
trên nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và là vốn
1
chính trị, vốn hiểu biết phong thú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu
tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến dần
tới những nhận thức "lý tình", trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn, để
rồi tiếp thu học thuyết của Mác một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy móc
không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác-Lênin theo phương pháp
luận Marx, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan
điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những
vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Thế giới quan và phương pháp luận của Mác-Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền tự quyết,
Hồ Chí Minh đã áp dụng thực tiễn kinh nghiệm của các nước trong khu vực và
trên thế giới để tiến hành đưa Viêt Nam tiến lên con đường CNXH. Một trong
những nước được đó là Trung Quốc.
2. Kinh nghiệm từ Trung Quốc
2.1. Bối cảnh lịch sử.
Cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc hoàn thành thắng lợi năm 1949 là
một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại trên thế giới. Cuộc cách
mạng đã kết thúc hơn 100 năm nô dịch và thống trị của đế quốc, phong kiến tư
sản mại bản. Cách mạng 1949 ở Trung Quốc mở đầu thời kì lịch sử mới - thời kì
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Với diện tích bằng 1/4 châu Á và dân
số gần 1/4 dân số thế giới, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc đã góp phần
quan trọng tăng cường ảnh hưởng và lực lượng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới. Sau cuộc Nội chiến Trung Quốc và thắng lợi của các lực
lượng Mao Trạch Đông trước Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, khiến
Tưởng phải bỏ chạy tới Đài Loan, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 1 tháng 10 năm 1949.
2.2 Xây dựng CNXH ở Trung Quốc
Sau khi đánh bại chính quyền Tưởng và Quốc Dân đảng, tiếp thu quyền
lực ở Hoa lục, ông đã tuyên bố đường lối “nhất biên đảo” nghĩa là ngả hẳn về
một bên, cụ thể là đi theo con đường của Liên Xô và các nước XHCN khác.Đây
là quyết định quan trọng ảnh hưởng đến chính sách đối nội, đối ngoại của Trung
quốc bấy giờ và sau này. Chủ tich Mao chọn con đường này cũng là điều dễ hiểu
vì trong cuộc tranh hùng với Tưởng, ông đã nhận được sự hậu thuẫn to lớn về
nhân lực và vật lực từ phía Moscow.
2
Sau khi lên nắm quyền ở Hoa lục, việc làm đầu tiên của chính phủ Mao Trạch
Đông chính là giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Ngày 10.06.1950 ban
hành về đạo luật cải cách ruộng đất, xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ,
kéo dài hơn 2 năm, công cuộc cải cách này nhận được sự đồng tình ủng hộ của từ
phía đông nông dân và làm cho vai trò lãnh đạo của ĐCS ở nông thôn mạnh lên.
Trong quá trình thực hiện cuộc cải cách, Chủ tịch Mao đã thể hiện quan điểm của
mình với tầng lớp địa chủ “giết không phải một hoặc hai mà nhiều địa chủ hơn
nữa”. Về công thương nghiệp: ông và trung ương ĐCS Trung Quốc thống nhất
khống chế và biến chúng thành những doanh nghiệp quốc doanh.
Song song với phong trào cải cách công thương nghiệp là cải cách tư tưởng, các
thành phần , trong đó giới trí thức đặc biệt được ông chú ý, và quan trọng hơn là
cuộc cải tạo tư tưởng này len lỏi vào trong cả những cán bộ cao cấp của Đảng và
nhà nước, mà tiêu biểu cho thời kì này là vụ phê bình nhà văn học Hồ Phong, rồi
“ tập đoàn phản Đảng Cao, Nhiêu”. Điều đặc biệt là cuộc cải tạo này lại diễn ra
vào thời gian in những trước tác của Mao Trạch Đông, từ đó có thể nhận thấy
rằng ông này thực sự muốn tư tưởng của mình trở thành độc tôn trên đất nước
Trung Hoa rộng lớn.
Dưới sự chèo lái của Mao Trạch Đông nước CHND Trung Hoa đã tiến hành “kế
hoạch 5 năm” , đường lối “ba ngọn cờ hồng”.
Là nhân vật theo đường lối cứng rắn, sau khi thực hiện “ chỉnh phong” (chỉnh
đốn tác phong của Đảng ) ở Diên An với bao nhiêu tra tấn và ngục tù, ông này lại
là chủ thuyết tư tưởng “ chính quyền ra đời từ nòng súng” bằng cách phát động
phê bình trong toàn dân, đặc biệt là trong giới trí thức, sau đó là các phần tử
chống đối, bất mãn với chính quyền, hay những người thực sự mong muốn Trung
Cộng tốt đẹp trong sạch hơn đa lộ diện thì Mao Trạc Đông đã tiến hành các hành
động vây ráp và khủng bố. Hành đông không lấy gì làm hảo hán này được Mao
Trạch Đông coi như một “ dương mưu” với đầy trí tuệ chứ không phải mưu ma
chước quỷ.
Sau những cuộc luận chiến gay gắt với Liên Xô trong những năm 1959-1963,
Mao Trạch Đông càng thêm tin tưởng hơn vào một phương thức xây dựng
CNXH khác với mô hình của Liên Xô vốn được coi là chính thống. Suy nghĩ này
được cụ thể hóa bằng quyết tâm xây dựng và phát triển công nghiệp nặng thông
qua việc khích thích công nghiệp nhẹ và nông nghiệp phát triển. Và tuy vốn
chẳng có trình độ và chuyên môn về kinh tế, vị chủ tịch nước đầu tiên của nước
CHND Trung Hoa tiến hành xây dựng kinh tế thông qua đường lối “ ba ngọn cờ
hồng”:
Đường lối chung
3
Đại nhảnh vọt
Công xã nhân dân
2.3. Thành tựu của Trung Quốc
“ Thành quả” của các kế hoạch kinh tế mà ông này chủ trương thì chắc ai cũng
biết, theo thống kê của các học giả phương Tây có khoảng không dưới 30 triệu
dân Trung Quốc bị chết đói, sau khi bị chỉ trích bởi các sai lầm của mình Mao
tiến hành điều mà Mao đã phát biểu thành cương lĩnh “ chiến tranh là chính trị
có đổ máu, trong khi chính trị là chiến tranh không đổ máu” bằng cách thực
hiện việc đấu đá nội bộ, Mao đã khôn khéo lợi dụng quần chúng để quật ngã
những đối thủ không ăn cánh với mình (Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Bành Đức
Hoài, La Thụy Khanh, Hạ Long…)
Công cuộc thanh trừng được đấy mạnh thành cao trào trong những năm nổ ra
cách mạng văn hóa(1966-1976), dường như đây chính là cơ hộ để ông này thực
hiện cái gọi là biến “ từ thiên hạ đại loạn để đạt lấy thiên hạ đại trị”, mà không
hề biết rằng quốc dân, đồng bào mình phải chịu những tai ương như thế nào.
2.4. Tóm lược quan điểm xây dựng CNXH của Mao Trạch Đông
Thông qua những suy nghĩ và hành động nổi bật của Mao Trạch Đông, quan
điểm xây dựng CNXH ở Trung Quốc của Mao có thể tóm tắt như sau:
- Về kinh tế: cố gắng tăng trưởng thật mạnh, biến thành cương quốc trong thời
gian ngắn nhất, đạt được thành quả của các nước tư bản thực hiện hàng thế kỷ chỉ
trong vài chục năm. Một nền kinh tế mệnh lệnh.
- Về xã hội: xây dựng một xã hội “ đại trị” thông qua nhiều cuộc thanh trừng
khủng bố cần thiết đối với các “phần tử chống đối” .
- Về chính trị : Giữ vững chính thể cộng sản, là lãnh tụ tối cao, Mao không bao
giờ bằng lòng với chuyện “một lúc có hai mặt trời” tại Hoa lục.
- Về tư tưởng: triển khai hàng loạt các kế hoạch để biến cái gọi là “tư tưởng
Mao Trạch Đông” trở thành tư tưởng độc tôn tại đất nước hàng trăm triệu dân
này. Đó cũng là lý do khiến trong tột đỉnh của sự sùng bái cá nhân Mao được xem
như “ mặt trời” của Trung Quốc, nhân dân sùng bái cho là người có 4 cái vĩ đại “
người thầy vĩ đại, người cầm lái vĩ đại, lãnh tụ vĩ đại, thống soái vĩ đại”.
Với những quan điểm của mình, Mao Trạch Đông được nhiều nhà nghiên cứu
phương Tây mệnh danh là “ hoàng đế đỏ” của Trung quốc,thuật ngữ này cũng
được Lý Chí Thỏa bác sỹ riêng của Mao, dùng để miêu tả đối tượng chăm sóc
của mình trong hồi ký của ông, quả thật có lý của nó.
2.5 Vài nét về Đặng Tiểu Bình
Đặng Tiểu Bình đã đưa ra phát biểu rằng: “một đảng, một quốc gia, một
dân tộc nếu làm cái gì cũng xuất phát từ trừng câu, từng chữ trong sách vở, tư
4
tưởng xơ cứng, mê tín tràn lan thì không thể tiến lên được, sẽ không còn sức
sống nữa, sẽ mất đảng, mất nước”. Và đây cũng được xem như phương châm
trong quan điểm xây dựng CNXH của Trung Quốc sau Mao. Các quan điểm của
ông này có thể tóm tắt như sau:
Cũng như nhiều nhà cầm quyền khác, Đặng Tiểu Bình giành tâm huyết cao nhất
vào công cuộc xây dựng kinh tế Trung Quốc, để xây dựng một nền kinh tế vững
mạnh Đặng chủ trương công việc trước tiên là “ giải phóng tư tưởng, thực sự
cầu thị” .
Theo Đặng giải phóng tư tưởng chính là giải phóng toàn đản toàn dân ra khỏi chủ
nghĩa giáo điều, chủ nghĩa sùng bái cá nhân. Ngoài ra giải phóng tư tưởng sẽ “
khuyến khích sự động não, độc lập suy nghĩ, hành động theo cái mới, không
rập khuôn từ những chỉ thị của cấp trên đặt xuông”. Tuy tông trọng những di
sản để lại của Máo Trạch Đông, nhưng Đặng có những sửa đổi để phù hợp với
tình hình mới của Trung Quốc, Đặng tiếp thu khẩu hiệu “ thực sự cầu thị” để
chống lại những kẻ quá ca ngợi Mao, nhằm ngăn chặn tình trạng sùng bái cá nhân
đã từng phát triển rất mạnh trước đây.
Cũng trong một động thái nhằm phê phán những kẻ giáo điều, tin vào và coi lời
nói, chỉ thị của Mao Trạch Đông là chân lý tuyệt đối, tháng 5 năm 1978 Đặng đã
khởi xướng cuộc thỏa luận với chủ đề “ thức tiễn là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm
chân lý”. Thực tiễn mà Đăngj chỉ ra là thực tiễn của Trung Quốc, vì vậy công
cuộc cải cách và xây dựng kinh tế ở Trung Quốc cũng phải mang đặc thù riêng,
đây cũng chính là cơ sở để Đặng xây dựng một lý luận đi vào lịch sử với tên gọi
“ xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc trung Quốc”.
Như đã nói ở trên, Đặng rất quan tâm đến vấn đề xây dựng kinh tế, lao động sản
xuất, nên trong báo cáo chính trị đại hội ĐCS Trung Quốc thứ XIII khẳng định “
đất nước giàu mạnh nhân dân giàu có,sự nghiệp khoa học giáo dục, văn hóa
phồn vinh, chế độ công hữu và quyền dân chủ nhân dân được củng cố và phát
triển, nói tóm lại một câu việc phát huy đầy đủ và không ngừng tăng thêm tính
hấp dẫn của tính ưu việt xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, đều quyết định bởi sự
phát triển của sức sản xuất”.
Đó chính là ba quan điểm xây dựng XHCN ở Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình.
Để thực hiện đường lối quan điểm trên, Đặng Tiểu Bình đã tiến hành công cuộc
mở cửa Trung quốc nhằm thu hút nguồn ngoại lực xây dựng và phát triển XHCN.
Tuy nhiên do trong quá trình xây dựng và mở của Trung Quốc, ngoài những
thành tựu kinh tế, những nhà đương cục không quan tâm đúng mức đến vấn đề
dân sinh và dân quyền,dẫn tới vụ biểu tình của sinh viên tại quảng trường Thiên
An Môn.
5
Là một người theo đường lối cứng rắn Đặng đã quyết định thiết quân luật và xả
súng và đoàn biểu tình, hành động trên của Đặng bị giới truyền thông lên án gay
gắt và coi đó là thành tích kém cỏi về nhân quyền của Trung Cộng thời Đặng.
Trong giai đoạn tiếp theo, ông này chủ trương mở cửa mạnh mẽ kinh tế đối ngoại
và tiến hành “ 4 hiện đại hóa” lớn nhằm đưa Trung Quốc tiến nhanh , mạnh trên
con đường “xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc”. Vì những đóng góp
của mình Đặng được đánh giá cao và được dư luận coi như “ tổng công trình sư
của sự nghiệp cải cách Trung Quốc”.
3. Bài học mà Hồ Chí Minh rút ra
3.1. Tầm vĩ mô
Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của
Mác, nghiên cứu trong xã hội tư bản dẫn đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
mang tính xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư
liệu sản xuất, từ đó sóa bỏ quan hệ sản xuất lạc hậu, xây dựng một phương thức
sản xuất mới dẫn tới CNXH thay thế CNTB là một điều tât yếu.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra con đường thực hiện cách mạng dân tộc
dân chủ rồi tiến lên CNXH.
+ Lãnh đạo là Đảng cộng sản của giai cấp công nhân.
+ Lực lượng đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thới đại mới phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản.
Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ giữa quan hệ của cách mạng thuộc điạ và
nông cách mạng chính quốc đều chung một kẻ thù, đây là mối quan hệ bình đẳng
chứ không phải là chính, phụ.
Cách mạng thuộc địa có thể tiến hành chủ động, sáng tạo diễn ra và dành
thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc (An Nam dân tộc cách mạng thành công
dẫn đến tư bản Pháp yếu dần, dẫn đến công nông Pháp dễ lam cách mạng)
3.2. Tầm quan trọng của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định sự tồn tại và phát triển của con người.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự biến đổi,phát triển các mặt của
đời sống xã hội từ thấp đến cao. Lực lượng sản xuất trở nên có ý nghĩa thực sự
quan trọng
Lực lượng sản xuất là một bộ phận của phương thức sản xuất,là cơ sở,
nền tảng, tiền đề của sản xuất. Vì nếu không có công cụ lao động thì con người
không thể sản xuất ra của cải vật chất.
6
Lực lượng sản xuất là một bộ phận cấu thành của phương thức sản
xuất. Sự thay thế các hình thái kinh tế đánh dấu bước phát triển của xã hội. Như
vậy lực lượng sản xuất phát triển góp phần hình thành nên 1 xã hội mới
3.3. Khẳng định vai trò của CNXH
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - lênin về sự phát
triển tất yếu của xã hội loài người theo hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của
Hồ Chí Minh là: Tiến lên CNXH là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi
nước nhà dành độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập,
nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi dành độc
lập dân tộc, nhân dân sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu
nhân loại, đem lại lại cho mọi ngườ không phân biệt chủng tộc và nguồ gốc sự tự
do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc lam cho mòi người và vì
mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới
chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những
vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu
thương nhau"
Trong thực tiễn, nhân dân Việt Nam xây dựng một xã hội như vậy theo
quan điểm của Hồ Chí Minh cũng tức là tuân theo quy luật phát triển của dân tộc
Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điệu
kiện tiên quyết để xây dựng CNXH, là một điều kiện đảm bảo vững chắc, đồng
thời là mục tiêu cho độc lập dân tộc hướng tới. Hồ Chí Minh đã thấy rõ tính tất
yếu của sự phát triển đi lên CNXH của dân tộc Việt Nam ngay khi trở thành
người cộng sản năm 1920 và khẳng định điều đó trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên trì, nhất quán bảo vệ quan điểm này
trong suốt bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau, mặc dù
con đường phat triển ấy thực chất là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại
những gì là cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi; mặc du con
đường có nhiều khó khăn, chông gai, phức tạp.
4.Thực tiễn Việt Nam.
4.1. Cách tiếp cận vấn đề
Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở
Miền Bắc và năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con
dường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất
7
biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu
tranh dành được độc lập, từng bước quá độ lên CNXH. Trong điều kiện nước ta,
độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa trong quá trình
phát triển của xã hội loài người. Chỉ có CNXH mới đáp ứng được khát vọng của
toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi
người dân việt nam. Thực tiễn phát triển đát nước cho thấy, độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và CNXH là cơ sở bảo đảm
vững chắc cho độc lập dân tộc.
4.2. Việt Nam giai đoạn 1945
4.2.1. Hoàn cảnh
Tháng 11 nǎm ấy, tiết trời đặc biệt rét đến sớm hơn mọi nǎm, khiến con
người ta ai cũng thấy đói "mọi lúc mọi nơi", chỉ có ăn thật no cǎng bụng người ta
mới cảm thấy đỡ lạnh. Không phải vô lý mà ông bà ta ghép hai từ "đói" và "rét"
đi chung với nhau. Càng rét người ta lại càng thấy đói, càng đói người ta lại càng
thấy rột, cỏi vòng luẩn quẩn ấy bao vây dân nghèo ngày một gay gắt hơn bao giờ
hết. Thái Bình hồi ấy được mệnh danh là "vựa lúa" của miền Bắc với những cánh
đồng "cò bay thẳng cỏnh, chú chạy cong đuôi". Nhưng thật trớ trêu, chính ở trên
mảnh đất ấy, cỏi đúi đến với tầng lớp "lờ dõn" mới thật là dữ dội kinh khiếp nhất,
vượt quá sức chịu đựng bình thường của con người.
Quân Nhật thông qua chính quyền bảo hộ Pháp buộc nông dân phải nộp hết
thóc lúa cho chúng để phục vụ cho lính "Thiên Hoàng", rồi lại cưỡng ép phá hoại
trồng lúa trong vụ Đông Xuân nǎm ấy, để dành đất trồng đay làm bao công sự
chiến đấu chống lại quân đồng minh. Thật là "hoạ vô đơn chí", nǎm đó Thái Bình
bị mất trắng vụ lúa do bị hạn hán hoành hành khắp nơi, đất đai thiếu nước khô
nứt nẻ ra từng mảng, cõy trỏi xơ xác, ruộng vườn hoang vắng tiêu điều. Tất cả
những gì ǎn được người ta đã ǎn hết cả rồi, khoai sắn củ còn non biến mất quá
nhanh vào dạ dày lép kẹp, rồi gia súc cho mèo đều lần lượt phải "hy sinh" cho
bao tử của chủ. Không phải mọi người đều chịu cảnh, ở thành thị, công chức,
người đi buôn vẫn sống bình thường, tuy có điều vất vả, chính nông dân ở các
làng mới bị đói nhiều ngày trên mảnh đất ruộng vườn của họ.
4.2.2. Nguyên nhân :
Nguyên nhân trực tiếp: Các hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương. Các
cường quốc liên quan như Pháp, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt
Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Những
biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo
nên càng bị đói.
Nguyên nhân gián tiếp: Là sự tệ hại của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam,
8
với những biện pháp cải cách kinh tế nhằm phục vụ chế độ và nhu cầu chiến
tranh, do tại nước Pháp khi đó đang có chiến tranh và cũng đang bị xâm chiếm.
Nguyên nhân tự nhiên: Thiên tai, lũ lụt gây mất mùa tại miền Bắc.
4.2.3. Hậu quả
Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong
khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến
2 triệu người dân chết đói.
Không có số liệu chính xác về số người đã chết đói, nhưng một số nguồn
khác nhau ước tính là từ khoảng 400.000 đến 2 triệu người đã bị chết đói tại miền
bắc Việt Nam trong thời điểm này. Tháng 5 năm 1945, bảy tháng sau khi trận đói
bùng nổ tại miền bắc, toà khâm sai tại Hà Nội ra lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc
trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vỡ đúi ở miền bắc là hơn
380.000, chết vì bệnh – không rõ nguyên nhân – là hơn 20.000, tổng cộng
400.000 cho riêng miền Bắc. Tháng 10 năm 1945, theo báo cáo của một quan
chức quân sự của Pháp tại Đông Dương khi đó là tướng Mordant thì khoảng nửa
triệu người chết. Toàn quyền Pháp Jean Decoux thì viết trong hồi ký của ông về
thời kỳ cầm quyền tại Đông Dương "À la barre de l’Indochine" – là có 1 triệu
người miền Bắc chết đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán là từ 1 đến 2 triệu.
Nhiều nhà sử học sau này nêu con số 1 triệu trong khi những người sinh sống tại
miền Bắc khi đú thỡ thiên về con số 2 triệu, là điều Hồ Chí Minh có nhắc đến
trong bài Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.
4.3. Việt Nam sau Cách Mạng
Trong nông nghiệp, nghành kinh tế chủ yếu của miền Bắc, có hơn 1.400.000
hecta đất bị bỏ hoang, hàng chục vạn nông dân không nhà ở, nhiều công trình
thủy lợi bị thực dân Pháp tàn phá hàng chục vạn trâu bò bị giựt… Trong công
nghiệp, phần lớn các xi nghiệp máy móc thiếu hoặc quá lạc hậu. Khai thác mỏ
giảm 1 nửa so với trước chiến tranh. Hệ thông giao thông và cơ sở hạ tầng nói
chung bị tàn phá nghiêm trọng. Hàng triệu người mù chữ. Số trường lớp thiếu, tỷ
lệ học sinh đến trường thấp. Số kỹ sư cán bộ kỹ thuật ở lại trong các công sở
thuộc Pháp trước đây rất ít. Hệ thông y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân hầu
như không đáng kể.
5. Chính sách
5.1 Chính trị:
- Ngày 6/1/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức cuộc
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước
9
- Sau cuộc bầu cử Quốc hội, tại các địa phương Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã tiến
hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, thành lập UỶ ban hành chính các cấp.
- Ngày 2/3/1946, Quốc hội Khoá I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp phiên
đầu tiên, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh
làm chủ tịch và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày 9/11/1946, Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua.
- Quân đội quốc gia Việt Nam ra đời (5/1946). Lực lượng dân quân tự vệ được
củng cố và phát triển. Viện Kiểm soát nhân dân và Toà án nhân dân được thành
lập.
5.2 Kinh tế:
- Biện pháp trước mắt: Chính phủ phát động quyên góp, thực hiện “Tuần lễ
vàng”, xây dựng “Quỹ độc lập”.
- Biện pháp lâu dài: Ngày 23/11/1946, tại kì họp thứ 2 của Quốc hội quyết định
lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.
5.3 Văn hóa – Xã hội – Đời sống
- Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha bình dân học
vụ, cơ quan chuyên trách việc chống “giặc dốt”. Người kêu gọi toàn dân đi học
- Các trường phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo công dân,
cán bộ có năng lực phụng sự Tổ quốc. Nội dung và phương pháp giáo dục đổi
mới theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
- Việc bài trừ các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan được quần chúng nhân dân
hưởng ứng sôi nổi; kết hợp với xây dựng nếp sống văn hoá mới.
*Về giặc đói
- Biện pháp trước mắt: quyên góp, điều hoà thóc gạo, đồng bào cả nước hưởng
ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và noi gương Người: Tổ chức hũ gạo
cứu đói, tổ chức “ngày đồng tâm” để lấy gạo cứu đói, không dùng lương thực để
nấu rượu.
- Biện pháp lâu dài: toàn dân thi đua hăng hái tham gia sản xuất. bãi bỏ thuế thân
và các thứ thuế vô lí khác, giảm tô 25%, chia lại ruộng đất công một cách công
bằng.
6) Các thành tựu
6.1 Chính trị:
- Hơn 90% cử tri đã đi bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội có ý nghĩa to lớn, thể hiện ý chí và
quyết tâm của nhân dân Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam thống nhất,
độc lập; giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của đế
10
quốc và tay sai, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho nhà nước cách mạng để thực
hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kì mới.
- Bộ máy chính quyền nhà nước được kiện toàn, trở thành công cụ sắc bén phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
6.2 Kinh tế:
- Cả nước đã góp được 370 kg vàng và 20 triệu đồng vào Quỹ độc lập, 40 triệu
cho Quỹ đảm phụ quốc phòng.
- Kinh tế tạm thời ổn định, khó khăn từng bước bị đẩy lùi.
6.3 Văn hóa – Xã hội – Đời sống.
- Sau 1 năm trên toàn quốc đã tổ chức gần 76.000 lớp học và có trên 2,5 triệu
người thoát nạn mù chữ.
- Đời sống nhân dân lành mạnh hơn, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết của
nhân dân, xây dựng đời sống mới.
Về giặc đói: chỉ sau một thời gian ngắn nạn đói bị đẩy lùi, đời sống nhân dân
nhất là nông dân được cải thiện, sản xuất nông nghiệp cả nước nhanh chóng được
phục hồi. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào chính quyền cách mạng.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu "Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", tiếp tục con đường cách mạng
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Vì thế đổi mới
là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH, chứ không phải là thay đổi mục tiêu.
Tuy nhiên khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mắt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách
ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, đảm bảo nhịp độ phát triển nhanh và
bền vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
không vì phát triển tăng trưởng kinh tế băng mọi giá mà làm phương hại các mặt
khác của cuộc sống con người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng
XHCN, biết cách sử dụng các thành tựu của loài người phục vụ cho công cuộc
xây dựng CNXH, nhất là thành tựu khoa học công nghệ hiện đại làm cho tăng
trưởng kinh tế luôn đi liện với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong sạch, làm
lành mạnh về đạo đức, tinh thần
7.Tính đúng đắn.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn
lực, trước hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức.
11
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức là con đường tất
yếu phải đi của nước ta. Chúng ta tranh thủ thành tựu cách mạng khoa học và
công nghệ của điều kiện giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế để nhanh chóng biến
nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiên đại, sánh với các cường
quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, do
Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải
biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân đẻ xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với sự phát triển kinh tế chi thức dựa vào nguồ lực trong nước
là chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực mới co thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các
nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
8. Hướng phát triển.
Nguồn lực nhân dân của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức
lao động, của cải to thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc nhằm
xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
+ Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền lam chủ của nhân dân trên thực tế,
làm cho chế đọ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thực sợ trở thành động lực
của sự phát triển xã hội.
+ Chăm no mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
+ Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh,
trên cơ sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo lên sự đồng
thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Chăm no xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư đẻ xây dựng CNXH.
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính, một nhà
nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Muốn vậy phải:
- Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng "đạo đức, văn
minh". Cán bộ đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vùa là người hướng dẫn,
lãnh đạo nhân dân, vùa hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi
việc.
12
- Xây dựng nhà nước pháp quyền XNCH của nhân dân, do nhâ dân, vì
nhân dân. Thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để phục
vụ đời sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm
khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân, kiên quyết đưa ra khoi bộ máy chính
quyền những "ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi
ích riêng, phát huy vai trò nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đat nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước,
hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây
dựng nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành
quốc sách, thành một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức,
một hành vi văn hóa như Hồ Chí Minh đã căn dặn: Một dân tộc biết cần, biết tiết
kiệm là một dân tộc văn minh, tiến bộ, dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được
nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
13
- Xem thêm -