Đề bài : Phân tích luân điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh : “ Yêu
Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội ”. Liên
hệ với thực tiễn Việt Nam ngày nay.
Bài làm :
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam,
anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời là danh nhân văn hóa thế giới.
Người đã dành cả cuộc đời, để hy sinh hết mình cho đất nước, cho
dân tộc Viêt Nam. Trải qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, cuối
cùng, Người đã đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác- Lenin, đó là
con đường của chủ nghĩa xã hội. Bằng cách kế thừa, sáng tạo dựa
trên nền tảng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ra đời những hệ tư
tưởng của mình dựa trên những tiền đề của các dân tộc đi trước. Một
trong số đó chính là : Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với
yêu chủ nghĩa xã hội ”. Vậy luận điểm của Người có nội dung và ý
nghĩa gì? Ngày nay, dất nước ta đã vận dụng tư tưởng của Người như
thế nào ?
Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng yêu nước trong lịch sử dân tộc.
Người viết : “Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì nó
lại sôi lên, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán
nước và cướp nước ”. Tinh thần yêu nước đã được Người thể hiện rõ
nhất qua câu nói này.
Lịch sử hàng nghìn năm của nước ta đã chỉ rõ được tinh thần
chiến đấu và chiến thắng của bọn xâm lược. Trong lịch sử phong kiến,
Lý Thường Kiệt đánh quân Tống trên sông Như Nguyệt. Trần Hưng
Đạo chiến thắng quân Mông Nguyên trên sông Bạch Đằng. Lê lợi
kháng chiến chống quân Minh trong mười năm khởi nghĩa Lam Sơn.
1
Quang Trung đánh tan quân Thanh Xâm lược. Rồi trong cuộc kháng
chiến chống Pháp thì toàn dân kháng chiến , đồng sức đồng lòng
kháng chiến toàn diện. Và chiến Dịch Biên giới 1950, chiến dịch Hòa
Bình 1952, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954….. Tiếp đến là cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân Miền
Nam: cuộc đồng khởi nghĩa vĩ đại, thành lập mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam năm 1960, cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm Mậu
Thân 1968… Tinh thần quyêt tâm kháng chiến của nhân dân miền
Bắc. Chính nhờ tinh thần quyết tâm chống giặc bảo vệ Tổ quốc đã dẫn
đến hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và cuối cùng là chiến thắng
mùa xuân 1975, thống nhất đất nước. Đó chính là những minh chứng
rõ nét nhất cho tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế
quốc thực dân, nhằm giải phóng dân tộc , con người khỏi lầm than thì
chỉ có tinh thần yêu nước vẫn chưa đủ. Cả dân tộc Việt Nam kết thành
một khối đại đoàn kết dân tộc, phải tập hợp được tất cả các lực lượng
có thể tập hợp, và xây dựng khối đại đoàn kết đó thật bền vững, để
khi Tổ quốc cần, săn sàng đứng lên khi Tổ quốc lâm nguy. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cơ bản, nhất
quán và lâu dài, xuyên suốt quá trình tiến hành cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, là tài
sản vô giá của dân tộc ta. Đó là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là
kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc
và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
những vấn đề chung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho
sự phát triển dân tộc theo con đường chủ nghĩa xã hội. Câu nói nổi
tiếng của Người : “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu
2
chủ nghĩa xã hội” đã thể hiện tư tưởng của Người về phương hướng,
mục tiêu phát triển đất nước sau khi giành độc lập, đó là xây dựng
một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng yêu nước phát triển thành chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam, hệ tư tưởng yêu nước, dòng chủ lưu của lịch sử tư
tưởng Việt Nam, xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó đã trở
thành động lực mạnh mẽ, trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ, xây dựng
và phát triển dân tộc, đất nước. Theo đó, chủ nghĩa yêu nước đòi hỏi
mỗi cư dân, cả cộng đồng phải có trách nhiệm bảo vệ những bản sắc
văn hoá của dân tộc mình, gắn với bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia.
Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc nhưng cũng biết tiếp thu có chọn lọc,
hợp lý tinh hoa văn hoá thế giới. Bảo vệ nhưng không đóng cửa, bảo
vệ gắn liền với sự phát triển. Ở mỗi bước phát triển của lịch sử dân
tộc có bước phát triển của một nền văn hoá cao hơn. Đó là tính quy
luật của sự phát triển văn hoá Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành trong quá trình
lập nước, trong đấu tranh giành độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của ngoại
bang, xác lập có ý thức về sự thống nhất, bản sắc nổi bật và riêng biệt
của cộng đồng đó bằng mối liên kết lâu dài về lịch sử văn hóa. Nó
phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước với vị
trí là chuẩn mực đạo đức cao nhất của đạo lý và đứng đầu trong bậc
thang giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam. Yêu nước là sức
mạnh tiềm tàng, thường trực trong lòng dân tộc, là nguồn lực không
bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Chủ nhĩa yêu
nước tạo năng lực nội sinh to lớn của cộng đồng dân tộc, tạo nên sức
mạnh vô địch trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trong
xây dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sự sáng tạo độc
đáo của Hồ Chí Minh, là bộ phận cấu thành quan trọng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
3
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại đề cao tinh thần sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân
tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, chỉ đạo cách
mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản. Thực tiễn Cách mạng nước
ta từ khi có Đảng đã khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Trong gần 80 năm
qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ
vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử và thời đại. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và
việc thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đây là kết quả
tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm
sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cuộc vận
động dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 19391945, Cách Mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong
kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến
oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa
thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là sự hoà quyện, kết hợp
hài hoà các mối quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại; chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giải
quyết hài hoà giữa lợi ích cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội. Sự kết
hợp này được biểu hiện thông qua từng con người, từng tổ chức và cả
cộng đồng dân tộc.Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại đối lập
hoàn toàn với chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa sô vanh nước
lớn, sự kỳ thị dân tộc, sắc tộc, chủng tộc, tính tự ty dân tộc, dân tộc
hẹp hòi, từ bỏ sự giúp đỡ quốc tế đối với các dân tộc khác. Như vậy,
nội dung của chủ nghĩa yêu nước hiện đại thể hiện tập trung mục tiêu,
4
lý tưởng của dân tộc ta, nhân dân ta là xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Ngay từ trong những giai đoạn lịch sử trước, Nguyễn Trãi đã viết
: “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân ”. Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là
chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây
không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân
nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Câu thơ đã
thể hiện một tư tưởng tiến bộ, tích cực, phù hợp với đạo lí chính nghĩa
của dân tộc Việt Nam. Đây quả là một tư tưởng mới, tư tưởng nhân
nghĩa gắn chặt với lòng yêu nước thương dân như Phạm Văn Đồng đã
nói: “ Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là
lòng yêu nước, thương dân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng
chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của nước, hạnh phúc của
dân ”. Con người quân tử ấy đã luôn luôn đặt quyền lợi của nhân dân
lên trên hết. Nguyễn Trãi đã hiểu rõ rằng: sức mạnh của toàn dân là
sức mạnh vô biên, sự đoàn kết của toàn dân là động lực thúc đẩy mọi
việc nhanh chóng thành công tốt đẹp, dễ dàng. Rõ ràng, việc nhận
thức quan điểm đúng đắn của các thế hệ đi trước, đã tạo nên tiền đề
vững chắc, cho hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.
Ngày 7 tháng 5 năm 1958, trong bài nói chuyện tại Đại hội Sinh
viên Việt Nam lần thứ hai, Bác Hồ có lời phát biểu : “Yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ
quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Trước tiên, ta cần hiểu thêm về
hoàn cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ. Hiệp định Giơnevơ 1954 về
Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia ; đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Bắc –
Nam. Nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ra sức xây dựng
5
và củng cố miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh
thực hiện thông nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Bước sang năm
1958, miền Bắc đã kết thúc thời kì khôi phục kinh tế và mở đầu thời
kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch. Chúng ta bắt đầu thực
hiện kế hoạch ba năm (1958-1960) mà trọng tâm là cải tạo nền kinh tế
quốc dân và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, là hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của đồng
bào miền Nam đòi hoà bình thống nhất Tổ quốc.
Quay trở lại với câu nói của Người với ba chữ “yêu” xuất hiện
trong đó. **Yêu Tổ quốc, yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu
mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Yêu nhân dân, yêu là phải hiểu
rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân còn cực khổ như thế nào,
biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc
với nhân dân. Đặc biệt hai cái “yêu” trên phải gắn liền với “Yêu chủ
nghĩa xã hội”. Bác đã giải thích lí do ngay sau đó “vì có tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày no ấm thêm, Tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh thêm”. Phải chăng, đó cũng chính là lí do Bác
chọn con đường phát triển đất nước sau khi hoàn thành cách mạng
giải phóng dân tộc là con đường chủ nghĩa xã hội !
Để hiểu rõ tư tưởng của Người về chế độ xã hội chủ nghĩa, trước
tiên ta phải biết được cách người tiếp cận vấn đề này. Cụ thể từ
phương diện kinh tế, Bác sử dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội của
chủ nghĩa Mác-lênin. Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phạm trù hình thái kinh tế-xã hội dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Với quan niệm khoa học về xã
6
hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy, Bác đã có cơ sở phương pháp
luận trong việc nghiên cứu tính tất yếu của hình thái xã hội chủ nghĩa
đối với nước ta. Bên cạnh đó, Bác tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ
phương diện của một người yêu nước. Người đã tìm thấy trong học
thuyết khoa học và cách mạng của Mác con đường chân chính để giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng loài người. Người cho
rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới**. Còn
trên phương diện đạo đức, Hồ Chí Minh nhận định rằng : “Không có
chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ chủ nghĩa xã
hội”. Từ đó Người tin tưởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là
trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”. Bao trùm lên
tất cả là Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hoá. Văn hoá
trong chủ nghĩa xã hôi ở Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính
trị, kinh tế. Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
cũng là xây dựng một nền văn hoá mà trong đó kết tinh, kế thừa, phát
triển những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp hàng ngàn năm của
dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, kết hợp với
truyền thống hiện đại, dân tộc và quốc tế. Ngoài ra, Người còn tiếp
cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện lịch sử, văn hoá phương Đông để
thể hiện tính tất yếu của hình thái kinh tế-xã hội này. Chủ nghĩa xã hội
dễ thích ứng ở phương Đông hơn phương Tây và ra đời ở phương
Đông sớm hơn (khoảng thế kỉ thứ 7) phương Tây (thế kỉ 18). Cơ sở
kinh tế ở các nước phương Đông rất khác phương Tây, không có hình
thái tư bản chủ nghĩa. Ngoài ra, chế độ phong kiến tập quyền ở
phương Đông vừa có quốc hữu vừa có công xã nông thôn. Sau cùng,
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử, văn
hoá và con người Việt Nam. Cơ sở kinh tế nước ta là kinh tế công
điền. Nhà nước phong kiến thiết kế đơn vị kinh tế hành chính nhỏ
7
nhất nhưng quan trọng nhất là làng. Còn văn hoá Việt Nam lấy nhân
nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan dung, hoà mục để
hoà đồng. Văn hoá Việt Nam là văn hoá trọng tri thức hiền tài. Con
người Việt Nam yêu nước, đoàn kết, lạc quan, cần cù, thông minh,
ham học hỏi và sáng tạo. Tóm lại, đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã
hội mang bản chất nhân văn và văn hoá; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn
phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và giải phóng con
người.
Với cách tiếp cận từ nhiều phương diện nêu trên, tư tưởng của
Người còn chứa những quan điểm về bản chất và đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội. Về mặt chính trị, chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân
dân làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để
huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của
chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại
quyền lợi cho nhân dân. Về kinh tế, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Về mặt văn hoá, chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn
hoá, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, anh
em, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống vật
chất và tinh thần phong phú, được tao điều kiện để phát triển hết khả
năng sẵn có của mình. Cuối cùng, chủ nghĩa xã hội là một xã hội công
bằng và hợp lí : làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
thì không được hưởng ; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được
giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi. Từ các đặc trưng trên, ta có thể thấy
được bản chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội mới, hoàn toàn tốt
đẹp. Xã hội giải phóng triệt để cho con người và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của con người. Quả đúng như
8
mong ước của Bác : mọi người dân được ấm no, sung sướng ; đất
nước từ đó giàu mạnh thêm.
Tiếp theo, chủ nghĩa xã hội còn có mục tiêu và động lực tiến bộ
hơn hẳn các hình thái kinh tế xã hội trước đó. Mục tiêu cao nhất mà
Người hướng đến là không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho nhân dân. Từ đó, Người đề ra mục tiêu chung rồi mục tiêu cụ
thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng ở
nước ta. Về mục tiêu chung, chủ nghĩa xã hội đem lại độc lập tự do
dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã xác
định các mục tiêu cụ thể của chủ nghĩa xã hội ở các lĩnh vực sau. Về
chính trị, xây dựng chế độ dân chủ do nhân dân lao động làm chủ,
Nhà nước là của dân, do dân, vì dân. Về mục tiêu kinh tế, xây dựng
nền kinh tế vững mạnh, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công – nông
nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ
nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng
được cải thiện. Bên cạnh đó là mục tiêu văn hoá, xã hôi, theo Hồ Chí
Minh, văn hoá là mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩ, “phải xã hội chủ nghĩa về
nội dung”, phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học
tập văn hoá tiên tiến của thế giới. Xây dựng văn hoá mới theo phương
châm : dân tộc, khoa học đại chúng. Phải làm văn hoá gắn liền với lao
động sản xuất. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người, xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa. Người luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn
luyện đạo đức cách mạng ; tât cả mọi người phải luôn trau dồi đạo
đức và tài năng, vừa có đức vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Với
chủ nghĩa xã hội, động lực quan trọng nhất là con người. Người đã
nêu ra phương thức phát huy động lực con người: phát huy sức mạnh
đoàn kết của cả cộng đồng người to lớn; phát huy ý thức tự giác, hành
9
động nhiệt tình của mỗi cá nhân; tác động vào con người bằng lợi ích,
đảm bảo công bằng về lợi ích theo nguyên tắc phân phối theo lao
động, kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi
ích cá nhân trong đó lợi ích xã hội ưu tiên đặt lên hàng đầu; tăng
cường vai trò của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
khác; phát động phong trào thi đua yêu nước, thực hành tiết kiệm;
chống lại các phản động lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã
hội gồm: chủ nghĩa thực dân,đế quốc, phong kiến, các phong tục tập
quán lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân. Có như vậy, sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội mới trở thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa lấy dân làm gốc. Quan điểm của Người rất rõ ràng, đó
là dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế
của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của
dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng
mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách
nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi
quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Nhà
nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là
phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách
nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng
nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc
chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một
phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm,
nghĩa vụ.
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân
dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không
có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không
10
có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi
cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có
hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí
Minh luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân
có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Cả cuộc đời Người "chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi
Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân". Hồ Chí Minh viết: "khi tôi phải
ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính
quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày,
nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó". Xây dựng một Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Đó là tâm huyết cả đời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Yêu nhân dân đồng thời phải gắn liền với yêu Chủ nghĩa xã hội.
Điều này cũng là một trong những yếu tố tiên quyết giúp dân tộc ta
giành thắng lợi trong các cuộc cách mạng từ ngàn năm nay.
Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách
sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác Lênin, phù hợp với thực tế Việt Nam.
Trước hết, Hồ Chí Minh luận giải sự ra đời và bản chất của chủ
nghĩa xã hội từ phương diện kinh tế, trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Người cho rằng, sự hình thành, phát triển và chín muồi của
chủ nghĩa xã hội là một tất yếu mà nguyên nhân sâu xa chính là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Trên cơ sở một nền tảng kinh
tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống, các giá trị đặc thù
mang tính nhân bản thấm sâu vào mỗi quan hệ và lĩnh vực xã hội. Sự
thống nhất giữa tính khoa học và tính giá trị thể hiện rất rõ trong nhận
thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
11
Nét sáng tạo của Hồ Chí Minh trước hết là ở chỗ, Người đến với
chủ nghĩa xã hội, luận giải nó từ khát vọng giải phóng dân tộc và nhu
cầu giải phóng con người một cách triệt để.
Hồ Chí Minh còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa, đã đưa
văn hóa thâm nhập vào bên trong của chính trị và kinh tế, tạo nên một
sự thống nhất biện chứng giữa văn hóa và chính trị, kinh tế, giữa các
mục tiêu phát triển xã hội. Điều này cho thấy, ở Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa xã hội chính là một hình thái phát triển của văn hóa, một đỉnh
cao của nền văn minh nhân loại. Do đó, quá trình hình thành và phát
triển của chủ nghĩa xã hội lại càng phải gắn với văn hóa, và chỉ có
đứng trên đỉnh cao của văn hóa, chủ nghĩa xã hội mới có thể phát
triển theo đúng quy luật xã hội khách quan, phù hợp với tiến trình
phát triển chung của nhân loại.
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, Hồ Chí Minh
cho rằng: chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng
không hề phủ nhận cá nhân, trái lại, đề cao, tôn trọng con người cá
nhân, các giá trị cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì phát triển
xã hội và hạnh phúc con người. Chủ nghĩa xã hội tạo mọi điều kiện
cho sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Xã hội tôn trọng mọi
cá nhân, đồng thời cá nhân biết đề cao lợi ích xã hội, có thể hy sinh
lợi ích cá nhân vì lợi ích xã hội.
Hồ Chí Minh luận giải tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã
hội trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc Việt Nam, của phương Đông. Từ việc phân tích một cách
khoa học truyền thống tư tưởng - văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội
của Việt Nam, các nước phương Đông, sự tàn bạo của chế độ thuộc
địa tại các nước đó, Hồ Chí Minh đi đến một nhận thức mới lạ: Chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không những thích ứng được ở châu
Á, phương Đông mà còn thích ứng dễ hơn ở châu Âu.
12
Hồ Chí Minh đã nhận thức tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa
xã hội như là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống
và hiện tại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa.
Người không tuyệt đối hóa một mặt nào và đánh giá đúng vị trí của
chúng. Như vậy, Hồ Chí Minh đã làm phong phú cách tiếp cận về chủ
nghĩa xã hội, có những cống hiến xuất sắc vào việc phát triển lý luận
Mác – Lênin.
Chính vì lòng yêu dân như con của Người, đã khiến người có
thêm động lực, tiếp thu tinh hoa văn hóa của Chủ nghĩa Mác – Lenin.
Hầu hết các cách tiếp cận, định nghĩa của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội được diễn đạt, trình bày một cách dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và
mang tính phổ thông, đại chúng. Xét dưới góc độ khái quát nguyên lý
thì Hồ Chí Minh về cơ bản không khác với các nhà kinh điển Mác Lênin. Điểm đặc sắc ở Hồ Chí Minh là phát triển các nguyên lý lý
luận phức tạp, khoa học bằng ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày.
Người muốn toàn dân ai cũng phải hiểu, phải nắm được con đường
mà dân tộc ta đang đi. Chỉ có hiểu rõ được vấn đề, nhân dân mới tin
tưởng mà đi theo, chung sức đồng lòng đánh đuổi quân xâm lược,
cùng nhau xây dựng đất nước ngày một tiến lên.
Như vậy, yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu Chủ
nghĩa xã hội là một luận điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Người, điều bất biến thứ nhất là độc lập dân tộc dẫn
đến điều bất biến thứ hai là chủ nghĩa xã hội nên người yêu cầu “ Yêu
tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội vì có
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm
thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Với tư tưởng “Độc
lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội”, Hồ Chí Minh đã tìm ra quy
luật vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam – một quy luật
“Thuận với chiều hướng tiến hóa của nhân loại”, phù hợp với yêu cầu
giải phóng của xã hội Việt Nam nói chung và của mỗi con người nói
13
riêng và vì vậy, Người đã mở ra thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân
tộc.
Với thế hệ trẻ, có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu nước chân chính
của mình. Cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt, hoàn thành nhiệm vụ học
tập của mình hay tham gia nghiên cứu khoa học, đó là yêu nước; tự
giác thực hiện chính sách, pháp luật, tôn trọng kỷ cương, đó cũng là
yêu nước. Lựa chọn được một nghề nghiệp phù hợp với bản thân
mình, gắn bó và cống hiến hết mình vì công việc, đó là yêu nước. Lao
động tích cực, hăng hái, làm giàu chính đáng, đó là yêu nước. Có khi
lại là việc nhỏ như không vứt rác bừa bãi, không tàn phá môi trường,
không hủy diệt muông thú. Và thậm chí, nói một câu tiếng Việt đúng
ngữ pháp, văn cảnh, thể hiện sự tự tôn với ngôn ngữ, văn hóa của dân
tộc mình, cũng là biểu hiện của lòng yêu nước. Những việc làm không
chỉ thể hiện ý thức công dân của mỗi người, mà còn là trách nhiệm xã
hội, và thông qua đó, thế hệ trẻ chúng ta thể hiện lòng yêu quê hương,
xứ sở của mình một cách sinh động nhất, hiệu quả nhất.Ngày nay,
lòng yêu nước đã có thêm những nội dung phong phú hơn khi đất
nước đang hội nhập toàn diện với thế giới. Trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì tiến công vào mặt trận kinh tế, làm
giàu cho đất nước được xem như nhiệm vụ then chốt của thanh niên.
Ngày hôm nay, trên khắp mọi miền Tổ Quốc đã xuất hiện hàng loạt
gương thanh niên vượt khó vươn lên. Góp phần làm cho "nước
mạnh". Những con người như Nguyễn Chiến Sang- anh thanh niên
nhặt ve chai trở thành triệu phú, hay Nguyễn Văn Sỹ - làm giàu cho
quê mình nhờ chiếc máy phát điện tự chế... đang là những hình ảnh lý
tưởng cho thanh niên học tập và noi theo. Chỉ cần mỗi thanh niên
chúng ta dám nghĩ dám là thì chắc chắn trong tương lai sẽ có nhiều
những Nguyễn Chiến Sang hay Nguyễn Văn Sỹ hơn nữa.Chúng ta
thực sự yêu nước khi tâm lý "chuộng hàng ngoại xa xỉ " bị xóa bỏ và
tâm lý “ Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt” được đặt lên hàng đầu,
phấn đấu cho hàng Việt Nam mang tính cạnh tranh cao góp phần giúp
14
sản xuất trong nước ngày càng phát triển.Chúng ta yêu nước là khi
góp phần xây dựng quyền lực mềm của văn hóa Việt nam để đất nước
ngày một trở nên hấp dẫn, thu hút bạn bè quốc tế .Chúng ta yêu nước
khi học sinh thuộc sử Việt Nam:“Dân ta phải biết sử taCho tường gốc
tích nước nhà Việt Nam.”Chúng ta tiếp thu văn minh hiện đại của
nước bạn trên thế giới trên phương châm “hòa nhập chứ không hòa
tan.”Trên thực tế, đã có không ít thanh niên nghĩ rằng phải làm một
việc gì thật "to lớn" cho Tổ quốc mới là yêu nước. Nhưng thực sự là
lòng yêu nước không cần biểu hiện ra trong từng lời nói, câu chuyện
hàng ngày mà nó lắng đọng trong những việc làm lặng lẽ âm thầm
tưởng như hết sức bình thường. Có những tình nguyện đến công tác ở
những miền rừng núi xa xôi nhất khi vừa mới tốt nghiệp ra trường. Có
những thanh niên miệt mài bên chiếu chèo truyền thống trong khi giới
trẻ đang ồn ào với "Pop", "Rock". Có những thanh niên ngày ngày
dầm mưa dãi nắng, không quản ngại để dọn sạch phố phường... ở họ
đều toát lên một tinh thần rất Việt Nam - cống hiến, hy sinh mà không
cần ai ca ngợi, không đòi hỏi phải được đền đáp, ghi danh. Vào ngày
lễ Quốc khánh hay ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, người người nhà
nhà treo cờ kết hoa.Còn các mạng xã hội, giới trẻ thể hiện lòng yêu
nước bằng cách đổi hình đại diện thành hình cờ Tổ quốc, ảnh Bác
hoặc đăng những dòng chữ thể hiện tình cảm của mình chúc mừng
ngày lễ lớn của đất nước.Bên cạnh đó là những thanh niên có nhận
thức hết sức lệch lạc. Họ cũng biết hỏi rằng tại sao nước ta lại nghèo,
lại thua kém nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng bản thân họ lại không
biết phải làm gì và không làm gì để “cải thiện tình hình". Một số
thanh niên đang chạy theo lối sống thực dụng, ăn chơi sa đọa, lãng
phí, sống tự do, cá nhân, vô tổ chức. Bây giờ là thời đại hiện đại hoá,
đầy rẫy trên mạng là những bài báo viết về bệnh vô cảm của giới trẻ,
trong đó có cả sự vô cảm đối với ngay cả đất nước mình.Nhưng
không! Đó chỉ là một bộ phận rất nhỏ thanh niên. Lòng yêu nước
được dân tộc Việt Nam nuôi dưỡng từ đời này qua đời khác, dù có
15
biến đổi nhưng không bao giờ mất đi. Những thanh niên đó, đứng
trước tiếng gọi của non sông và thời đại, sớm muộn cũng sẽ nhận thức
được về vai trò và nghĩa vụ của mình, sẽ tìm được ra lối đi đúng đắn.
Lúc ấy, lại chính lòng yêu nước sẽ nâng đỡ họ, đưa họ vượt qua
những xấu xa, cám dỗ và làm được nhiều việc có ích cho bản thân, xã
hội. Bởi vậy, ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự trong sạch, vững
mạnh của đội ngũ thanh niên Việt Nam. Và trong tương lai, chắc chắn
họ sẽ còn làm được nhiều hơn nữa. Lòng yêu nước truyền thống của
cha ông sẽ được phát huy để dù là ở đâu hay bất cứ lúc nào, lòng yêu
nước đó cũng sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy thanh niên Việt
Nam đạt được những thành tích diệu kỳ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa , hiện đại hóa, đem lại vinh quang cho Tổ quốc.Lòng
yêu nước đã thực sự trở thành động lực, thúc giục bao thanh niên ưu
tú ngày đêm phấn đấu không ngừng để giành lấy vinh quang về cho
nước nhà. Lòng tự hào với truyền thống cha ông, ý chí tự lực tự
cường và ý thức tự tôn dân tộc cùng với ước mơ, khao khát cháy bỏng
được góp sức mình đưa Việt Nam tiến lên ngang hàng với các cường
quốc năm châu đã, đang và sẽ đưa thanh niên đi xa hơn nữa.
16
- Xem thêm -