TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC
----- o0o -----
ĐỀ TÀI MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
NHÖÕNG HAÏN CHEÁ KHI TRIEÅN KHAI
DÒCH VUÏ NGAÂN HAØNG ÑIEÄN TÖÛ
TAÏI VIEÄT NAM
GVHD
: Tiến sĩ Vũ Thị Minh Hằng
Lớp
: K20 Ngày 4
Nhóm thực hiện : Nhóm 2
TP.HCM, THÁNG 03/2011
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ (E-BANKING)
I.
KHÁI NIỆM VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
II. CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1. Thanh toán điện tử tại điểm bán hàng (EFTPOS)
2. Máy rút tiền tự động (ATM)
3. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Phone Banking)
4. Dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home Banking)
5. Dịch vụ ngân hàng qua internet (Internet Banking)
6. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động (Mobile Banking)
7. Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive TV Banking)
III. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
CHƯƠNG 2: NHỮNG HẠN CHẾ KHI TRIỂN KHAI DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN
TỬ TẠI VIỆT NAM
1. Về phía khách hàng
2. Về phía ngân hàng
3. Tính pháp lý trong dịch vụ ngân hàng điện tử
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN
TỬ TẠI VIỆT NAM
I. Kiến nghị đối với Chính phủ và cơ quan quản lý
II. Kiến nghị đối với Hiệp hội Ngân hàng
III.Kiến nghị đối với hệ thống ngân hàng
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 2
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập niên gần đây, sự phát triển của khoa học công nghệ mà đặc biệt là
công nghệ thông tin và khoa học viễn thông đã làm một cuộc cách mạng trong thương mại.
Các phương pháp kinh doanh truyền thống đã và đang dần dần được thay thế bằng một
phương pháp mới. Đó chính là thương mại điện tử mà "xương sống" của nó là công nghệ
thông tin và Internet.
Thương mại điện tử đã đưa ra một giải pháp hữu hiệu, một hướng đi trực tiếp trong việc
trao đổi thông tin, hàng hoá, dịch vụ và mở rộng quy mô thị trường, thị trường không biên
giới. Chính cuộc cách mạng về quy mô thị trường này đã trở thành động lực cho một cuộc
cách mạng trong ngành ngân hàng hướng tới một hệ thống thanh toán phù hợp với yêu cầu
của thị trường thương mại điện tử. Điều này đã tạo ra một dịch vụ ngân hàng mới, dịch vụ
ngân hàng điện tử.
Dịch vụ ngân hàng điện tử đã được phát triển ở Việt Nam trong vài năm trở lại đây. Nó
đáp ứng được phần nào nhu cầu thanh toán của người dân Việt Nam đồng thời mở ra cho các
ngân hàng Việt Nam các cơ hội lớn cũng như những thách thức trong việc hoàn thiện dịch vụ
ngân hàng để có thể cạnh tranh trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế.
Không thể phủ nhận rằng dịch vụ ngân hàng điện tử đã mang lại những lợi ích nhất định
cho ngân hàng, cho khách hàng và cho toàn thể nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi
ích trên, vẫn còn một số hạn chế trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
Cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong nước và khối ngân hàng nước
ngoài, việc mở rộng dịch vụ ngân hàng điện tử là điều cần thiết. Nghiên cứu và đề xuất một
số giải pháp để thúc đẩy dịch vụ ngân hàng điện tử phát triển ở Việt Nam, là vấn đề quan
trọng trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 3
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, gần như tất cả các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang chạy đua cùng với
công nghệ thanh toán điện tử trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, điều đó đặt ra xu thế
cạnh tranh gay gắt đối với các ngân hàng. Do đó, câu hỏi đặt ra là : “Các NHTMNN và
NHTMCP ở Việt Nam đã phát triển được những dịch vụ ngân hàng điện tử nào? Kết quả hoạt
động của dịch vụ này ra sao? Giá trị mà dịch vụ mang lại cho khách hàng, ngân hàng và cho
nền kinh tế? Bên cạnh đó, đâu là những mặt hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử cũng như
những rủi ro của ngân hàng, khách hàng khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ đang trong giai đoạn
đầu phát triển ở Việt Nam hiện nay?”
Xuất phát từ những vấn đề đã đặt ra, nhóm 2 chọn đề tài : “Những hạn chế khi triển
khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề của
nhóm.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
-
Phân tích những hạn chế trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
-
Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam phát
triển.
3. Phạm vi nghiên cứu:
-
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng
điện tử của các NHTM ở Việt Nam.
-
Đối tượng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử là doanh nghiệp và khách hàng cá nhân.
4. Phương pháp nghiên cứu:
-
Thu thập dữ liệu sơ cấp: Lập bảng câu hỏi khảo sát. Dùng phần mềm Excel để thống
kê và phân tích dữ liệu.
-
Thu thập dữ liệu thứ cấp: Tham khảo từ website Ngân hàng Nhà nước VN, một số
NHTM; từ các website chuyên về lĩnh vực công nghệ thông tin, thương mại điện tử và
tài chính – ngân hàng.
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 4
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ (E-BANKING)
I. KHÁI NIỆM VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
"Ngân hàng điện tử" tiếng Anh là Electronic Banking, viết tắt là e-banking. Có rất nhiều
cách diễn đạt khác nhau về "Ngân hàng điện tử", song nhìn chung "Ngân hàng điện tử" được
hiểu là một loại hình thương mại về tài chính ngân hàng có sự trợ giúp của công nghệ thông
tin, đặc biệt là máy tính và công nghệ mạng. Nói ngắn gọn, "Ngân hàng điện tử" là hình
thức thực hiện các giao dịch tài chính ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử.
Hay có một khái niệm khác: “Dịch vụ ngân hàng điện tử là những dịch vụ được ngân
hàng cung cấp cho khách hàng dựa trên nền tảng công nghệ thộng tin hiện đại, cho phép
khách hàng có thể truy nhập từ xa vào một ngân hàng nhằm thực hiện một số giao dịch với
ngân hàng hoặc với các khách hàng khác thông qua các phương tiện thông tin hiện đại mà
không cần phải đến quầy giao dịch.”
Thuật ngữ "Ngân hàng điện tử" đối với nhiều người có vẻ khó hiểu và xa lạ. Thực ra rất
nhiều ứng dụng của "Ngân hàng điện tử" đang phục vụ cho bạn. Bạn rút tiền từ một máy rút
tiền tự động, trả tiền cho hàng hoá và dịch vụ bằng thẻ tín dụng, kiểm tra số dư tài khoản qua
mạng hay điện thoại; công ty của bạn giao dịch, thanh toán, chuyển khoản với các đối tác qua
internet, điện thoại...; tất cả những hoạt động tương tự như vậy đều có thể gọi là dịch vụ
"Ngân hàng điện tử".
Ngân hàng điện tử - giải pháp thanh toán hiện đại.
II.
CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1. Thanh toán điện tử tại điểm bán hàng (EFTPOS - Electronic Funds Transfer at
Point of Sale)
Khách hàng sử dụng thẻ tín dụng (credit card) hoặc thẻ ghi nợ trực tiếp (direct debit
card) để thực hiện các giao dịch mua bán. Máy đọc thẻ tại các điểm bán hàng sẽ kết nối với
trung tâm chứng thực khách hàng của ngân hàng để thực hiện việc chứng thực thẻ, chấp
thuận/từ chối giao dịch mua bán.
2.
Máy rút tiền tự động (ATM - Automatic Teller Machines)
Khách hàng dùng thẻ tín dụng (credit card) hoặc thẻ ghi nợ trực tiếp (direct debit card)
để rút tiền mặt. Máy rút tiền tự động sẽ chứng thực thẻ sau khi người sử dụng nạp mã số nhận
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 5
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
dạng cá nhân (Personal Identity Number – PIN). Mỗi ngân hàng thường đưa ra các loại máy
ATM riêng của ngân hàng mình. Khách hàng rút tiền tại các máy ATM của ngân hàng mà
mình có tài khoản. Tuy nhiên, khách hàng cũng có thể rút tiền từ máy ATM của ngân hàng
khác nhưng phải trả một mức phí.
3.
Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Phone Banking)
Khách hàng sẽ gọi điện thoại đến trung tâm cung cấp dịch vụ bằng một (hoặc nhiều) số
điện thoại được cung cấp. Thông qua các phím chức năng được khái niệm trước, khách hàng
sẽ được phục vụ một cách tự động hoặc thông qua nhân viên tổng đài . Để được chứng thực là
khách hàng hợp lệ, khách hàng sẽ phải nạp mã số nhận dạng cá nhân (PIN) hoặc mật khẩu
bằng cách sử dụng các phím trên điện thoại.
4.
Dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home Banking)
Với ngân hàng tại nhà ( Homebanking), khách hàng giao dịch với ngân hàng qua mạng
nhưng là mạng nội bộ ( Intranet) do ngân hàng xây dựng riêng. Các giao dịch được tiến hành
tại nhà thông qua hệ thống máy tính nối với hệ thống máy tính của Ngân h àng. Để sử dụng
được dịch vụ Homebanking khách hàng chỉ cần có máy tính ( tại nhà hoặc trụ sở) kết nối với
hệ thống máy tính của Ngân hàng thông qua modem-đường điện thoại quay số, đồng thời
khách hàng phải đăng ký số điện thoại và chỉ những số điện thoại này mới được kết nối với
hệ thống Homebanking của Ngân hàng.
Khách hàng sẽ quay số trực tiếp để kết nối với trung tâm cung cấp dịch vụ qua đường
điện thoại thông thường. Sau khi thực hiện các bước chứng thực (nhập số PIN hoặc mật khẩu
giao dịch), khách hàng sẽ có quyền thực hiện các giao dịch ngân hàng từ máy tính cá nhân.
5.
Dịch vụ ngân hàng qua internet (Internet Banking)
Dịch vụ này tương tự như dịch vụ ngân hàng tại nhà. Các thiết bị cần có bao gồm máy
tính cá nhân, modem và đường truy cập điện thoại. Tuy nhiên, thay vì quay số điện thoại để
kết nối trực tiếp với trung tâm dịch vụ ngân hàng thì khách hàng sử dụng Internet banking
cần phải truy cập vào Internet thông qua một (hoặc nhiều) nhà cung cấp dịch vụ Internet
(Internet Services Provider – ISP). Ngoài ra, trong khi khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng
tại nhà cần phải có phần mềm được thiết kế dành riêng cho việc kết nối với ngân hàng cung
cấp dịch vụ thì khách hàng sử dụng Internet banking hầu như không cần phần mềm đặc biệt.
Khách hàng sử dụng Internet banking hiện nay có thể dễ dàng truy cập vào trang web cung
cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua các trình duyệt Internet (Internet web browser) như:
Microsoft Internet Explorer, Firefox, Google Chrome.
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 6
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Một số giao dịch như truy vấn số dư, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn, nạp tiền điện
thoại,… đều có thể thực hiện trực tuyến. Khách hàng không phải đích thân đến trụ sở ngân
hàng, chỉ cần truy cập vào website ebanking của ngân hàng, đăng nhập bằng username và
password là có thể thực hiện các giao dịch trực tuyến.
6.
Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động (Mobile Banking)
Đây là loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ viễn thông không dây
của mạng di động (mobile network) bao gồm việc thực hiện dịch vụ ngân hàng bằng cách kết
nối điện thoại di động (mobile phone) với trung tâm cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử và
kết nối Internet trên điện thoại di động sử dụng giao thức truyền thông WAP/GPRS. Dịch vụ
ngân hàng qua mạng viễn thông không dây yêu cầu khách hàng cần được trang bị thiết bị kết
nối thích hợp (điện thoại di động hiện đại sử dụng công nghệ WAP/GPRS, đa băng tần...) và
được cài đặt chương trình phần mềm phù hợp. Sự phổ biến của điện thoại di động trên thế
giới cùng với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ viễn thông trong những năm gần đây
cho thấy việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng bằng điện thoại di động là một hướng phát
triển chiến lược dài hạn của các ngân hàng trên thế giới.
7.
Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive TV Banking)
Dịch vụ này thường được cung cấp trên cơ sở hệ thống truyền hình cáp (cable TV). Ngân
hàng sẽ tận dụng đường truyền hình cáp để tích hợp đường truyền cung cấp các dịch vụ ngân
hàng. Khách hàng sử dụng màn hình TV thông thường để truy cập vào dịch vụ ngân hàng
thông qua việc nhập mã số nhận dạng cá nhân hoặc mật khẩu. Để truy cập vào các dịch vụ
khác nhau trên màn hình, khách hàng sẽ sử dụng bộ điều khiển từ xa thông thường hoặc
được thiết kế riêng cho việc sử dụng dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác.
Đây là hình thức dịch vụ tiện lợi cho khách hàng vì hầu như gia đình nào cũng có vô tuyến.
Tuy nhiên, do tính chất bảo mật và riêng tư của các giao dịch còn thấp nên dịch vụ này ít
được khách hàng chấp thuận.
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 7
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Hiện tại ở Việt Nam, các dịch vụ ngân hàng điện tử thường được sử dụng nhất là:
ATM
Internet Banking
Mobile Banking (+ SMS Banking)
POS
Phone Banking (+ Call Center)
Home Banking
Còn dịch vụ ngân hàng điện tử Interactive TV Banking chưa được triển khai tại Việt
Nam.
III.NHỮNG LỢI ÍCH CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
Sự ra đời và phát triển của dịch vụ "Ngân hàng điện tử" là một xu hướng tất yếu phù hợp
với nhu cầu và sự phát triển của xã hội. Và chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích mà
dịch vụ ngân hàng điện tử mang lại.
1.
Lợi ích cho ngân hàng
Thứ nhất, ngân hàng điện tử giúp các ngân hàng có thể tiết kiệm chi phí, giảm bớt các
thủ tục giấy tờ, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các giao dịch. Các giao dịch qua kênh điện tử
có chi phí vận hành rất thấp. Chi phí chủ yếu là đầu tư ban đầu, ngân hàng không cần đầu tư
nhân sự, địa điểm và các chi phí in ấn, lưu chuyển hồ sơ cho việc giao dịch. Khi chi phí hoạt
động được cắt giảm đáng kể thì doanh thu của ngân hàng cũng theo đó tăng lên và tất nhiên
kéo theo đó là lợi nhuận hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Thứ hai, đối với nhiều ngân hàng thì ngân hàng điện tử là một giải pháp mang tính chiến
lược nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động. Ngân hàng điện tử được xem
như một kênh phân phối quan trọng đối với các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng điện tử cũng là công cụ quảng bá, khuyếch trương thương hiệu của NHTM
một cách sinh động, hiệu quả.
Thứ ba, ngân hàng điện tử có thể giúp các ngân hàng thương mại tăng khả năng cung
cấp các dịch vụ gia tăng khác của mình. Theo đó, các Ngân hàng có thể liên kết với các công
ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính khác để đưa ra các sản phẩm tiện ích đồng
bộ nhằm đáp ứng căn bản các nhu cầu của một khách hàng hoặc một nhóm khách
hàng về các dịch vụ liên quan tới ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư, chứng khoán,… Bằng việc
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 8
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
cung cấp một loạt các dịch vụ và sản phẩm tài chính thông qua mạng Internet, ngân hàng lại
có thể kiếm được một nguồn lợi đáng kể.
Thứ tư, một lợi ích quan trọng khác mà ngân hàng điện tử đem lại cho ngân hàng, đó
là việc ngân hàng có thể thực hiện chiến lược “toàn cầu hoá”, chiến lược “bành trướng” mà
không cần phải mở thêm chi nhánh. Ngân hàng có thể vừa tiết kiệm chi phí do không phải
thiết lập quá nhiều các trụ sở hoặc văn phòng, nhân sự gọn nhẹ hơn, đồng thời lại có thể phục
vụ một khối lượng khách hàng lớn hơn. Internet quả là một phương tiện có tính kinh tế cao để
các ngân hàng có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra các quốc gia khác mà không
cần đầu tư vào trụ sở hoặc cơ sở hạ tầng.
2. Lợi ích cho khách hàng
Không chỉ riêng ngân hàng mới tìm thấy ở ngân hàng điện tử nhiều ưu điểm, loại hình
dịch vụ ngân hàng mới này cũng đem lại cho khách hàng vô số những thuận lợi, và đó mới
chính là nền tảng và lý do tồn tại, phát triển của ngân hàng điện tử với mục đích là phục vụ
tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Thứ nhất, ngân hàng điện tử là một kênh quan trọng giúp cho khách hàng có thể thông
tin liên lạc với ngân hàng nhanh hơn và hiệu quả hơn. Khi khách hàng sử dụng ngân hàng
điện tử, họ sẽ nắm được nhanh chóng, kịp thời những thông tin về tài khoản, tỷ giá, lãi suất.
Chỉ trong chốc lát, qua máy vi tính được nối mạng với ngân hàng, khách hàng có thể giao
dịch trực tiếp với ngân hàng để kiểm tra số dư tài khoản, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn
dịch vụ công cộng, thanh toán thẻ tín dụng, mua séc du lịch, kinh doanh ngoại hối, vay nợ,
kinh doanh chứng khoán với ngân hàng,...
Thứ hai, dịch vụ ngân hàng điện tử giúp cho khách hàng tiết kiệm thời gian quý báu của
mình. Các giao dịch ngân hàng từ Internet được thực hiện và xử lý một cách nhanh chóng và
hết sức chính xác. Khách hàng không cần phải tới tận văn phòng giao dịch của ngân hàng,
không phải mất thời gian đi lại hoặc nhiều khi phải xếp hàng để chờ tới lượt mình. Ngoài ra,
còn giúp khách hàng tiết kiệm chi phí (xăng, xe,…). Giờ đây, với dịch vụ ngân hàng điện tử,
họ có thể tiếp cận với bất cứ một giao dịch nào của ngân hàng vào bất cứ thời điểm nào hoặc
ở bất cứ đâu họ muốn. Chỉ cần nhấn chuột, tất cả mọi thao tác được thực hiện chỉ trong nháy
mắt thay vì một chuỗi dài những thao tác phức tạp nếu giao dịch qua giấy tờ hoặc tại quầy.
Thứ ba, dịch vụ ngân hàng điện tử giúp cho khách hàng (nhất là doanh nghiệp) nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua các dịch vụ Ngân hàng điện tử, các lệnh chi trả, nhờ thu của
khách hàng được thực hiện nhanh chóng, tạo điều kiện chu chuyển nhanh vốn tiền tệ, trao
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 9
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
đổi tiền - hàng. Qua đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tiền tệ, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
Thứ tư, khách hàng không phải mang theo nhiều tiền mặt, giảm thiểu rủi ro mất tiền, bị
cướp giật, tiền giả, nhầm lẫn, thời gian kiểm đếm.
3.
Lợi ích đối với nền kinh tế
Ngoài những lợi ích chính đối với các bên tham gia "Ngân hàng điện tử" nói trên, "Ngân
hàng điện tử" còn đem lại những lợi ích to lớn tiềm tàng đối với toàn thể nền kinh tế.
Về mặt xã hội - kinh tế, NHĐT góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế thương mại,
dịch vụ và du lịch phát triển, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với khu vực
và thế giới. Đặc biệt góp phần thúc đẩy các hoạt động thương mại điện tử phát triển. Với
ngân hàng điện tử, các bên liên quan có thể tiến hành giao dịch khi ở cách xa nhau, không bị
giới hạn bởi không gian địa lý. Điều này cho phép các khách hàng tiết kiệm chi phí đi lại,
thời gian gặp mặt trong khi mua bán. Với người tiêu dùng, họ có thể ngồi tại nhà để đặt hàng,
mua sắm nhiều loại hàng hóa, dịch vụ thật nhanh chóng.
Việc tiêu dùng chủ yếu bằng tiền mặt có rất nhiều điều hạn chế. Nhà nước phải bỏ ra một
chi phí nhất định hàng năm trong việc in và quản lý số lượng tiền in ra cho thị trường. Việc
khó xác định chính xác lượng tiền lưu hành trong dân khiến cho nhà nước gặp nhiều khó
khăn trong việc đưa ra các chính sách tài khoá nhằm đảm bảo một thị trường tài chính ổn
định. "Ngân hàng điện tử" với sự phổ biến sử dụng tài khoản cá nhân và tiền điện tử sẽ góp
phần không nhỏ trong việc tháo gỡ khó khăn này. Chính tiền điện tử và giao dịch tài khoản
làm cải thiện khả năng thanh toán trong thị trường tài chính. Bên cạnh đó, ngân hàng điện tử
còn giúp cho khách hàng không phải mang theo nhiều tiền mặt, giảm thiểu rủi ro mất, tiền
giả, nhầm lẫn, thời gian kiểm đếm. Tường minh các giao dịch giảm bớt được việc thiếu minh
bạch so với giao dịch bằng tiền mặt.
"Ngân hàng điện tử" giúp cho nhà nước có thông tin đầy đủ về việc thực hiện thu nộp
thuế một cách nhanh chóng và cập nhật kịp thời.
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 10
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
CHƯƠNG 2: NHỮNG HẠN CHẾ KHI TRIỂN KHAI DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
Trong điều kiện và hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, tâm lý thanh toán bằng
tiền mặt trong giao dịch vẫn chiếm đa số, dẫn tới những hạn chế khi các ngân hàng triển khai
dịch vụ ngân hàng điện tử. Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai ngân hàng điện tử, các
ngân hàng luôn đối mặt với nhiều rủi ro. Tính pháp lý và những chính sách của nhà nước
cũng ảnh hưởng tới sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Từng khía cạnh tác động đến
dịch vụ ngân hàng điện tử sẽ được xem xét ở phần dưới đây:
I.
VỀ PHÍA KHÁCH HÀNG
1. Thói quen tiêu dùng tiền mặt
Sự chấp nhận của người dân trong thanh toán điện tử, đây là một vấn đề cũng đóng vai
trò không kém phần quan trọng trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Thực tế hiện
nay cho thấy việc thanh toán bằng tiền mặt đã trở thành thói quen của người dân, nhất là
trong mua sắm nhỏ lẻ. Vì vậy, việc thay đổi thói quen này để dần đưa dịch vụ ngân hàng điện
tử vào cuộc sống cũng là một thách thức đối với các ngân hàng.
2. Tốn chi phí đầu tư máy vi tính, nối mạng internet và chưa có kiến thức sử dụng máy
tính
Ngân hàng điện tử mà cụ thể hơn là Internet banking đã làm tăng sự lệ thuộc của con
người vào máy tính điện tử và mạng Internet. Khách hàng cần có máy vi tính, modem, tài
khoản Internet. Đây là một khoản chi phí đầu tư ban đầu không nhỏ. Thêm nữa, người sử
dụng cũng phải nắm được những thao tác và kiến thức cơ bản nhất để sử dụng máy tính. Điều
này hoàn toàn khác biệt so với quá trình giao dịch trực tiếp tại ngân hàng: bất cứ khách hàng
nào cũng có thể đến thẳng ngân hàng tiến hành giao dịch trực tiếp và có thể được nhân viên
ngân hàng hướng dẫn.
3. Tâm lý e ngại về mức độ an toàn trong giao dịch điện tử
Vấn đề bí mật, an toàn cho khách hàng là điều đáng lo ngại nhất. Có lẽ đây là lý do chủ
yếu mà một số lượng không nhỏ các khách hàng còn tỏ ra ngần ngại và lưỡng lự khi quyết
định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Phần lớn tài sản và của cải họ cất giữ trong tài khoản
gửi tại ngân hàng, vậy thì việc họ lo lắng về mức độ an toàn khi sử dụng một loại hình dịch
vụ mới cũng là điều dễ hiểu. Khách hàng vẫn cảm thấy yên tâm hơn nếu được cầm trong tay
những chứng từ giao dịch bằng giấy tờ cụ thể để làm bằng chứng. Với giao dịch điện tử,
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 11
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
khách hàng trên thực tế có thể phải chấp nhận nhiều rủi ro hơn so với giao dịch chứng từ vì
trường hợp xảy ra tranh chấp, chứng từ sẽ là bằng chứng đáng tin cậy hơn.
Trong giao dịch rút tiền từ thẻ ATM, khách hàng e ngại bị bọn tội phạm cài đặt đầu đọc
thẻ và camare ăn trộm thông tin thẻ và làm giả thẻ ATM.
4. Thích giao dịch trực tiếp với nhân viên ngân hàng
Nhiều khi khách hàng muốn được giao dịch trực tiếp với cán bộ ngân hàng để có thể diễn
giải hoặc được giải quyết các vấn đề phức tạp một cách cụ thể hơn đồng thời khách hàng cần
khai thác những thông tin mà ngân hàng điện tử hoặc Internet Banking không thể cung cấp
đầy đủ như một cán bộ chuyên trách có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ của ngân hàng.
II. VỀ PHÍA NGÂN HÀNG
Ngân hàng điện tử mang lại lợi ích cho ngân hàng là rõ ràng và không thể phủ nhận. Tuy
nhiên, loại hình này cũng đem lại không ít những bất cập và khó khăn cho ngân hàng.
1. Khó khăn về nguồn vốn
Một số ngân hàng quy mô nhỏ hạn chế về nguồn vốn, dẫn tới gặp khó khăn trong việc
triển khai và đầu tư hạ tầng công nghệ ngân hàng. Để triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử
được thuận lợi, yêu cầu các ngân hàng phải đầu tư vào Core Banking (ngân hàng lõi, xử lý
nhiều công việc dựa vào cơ sở dữ liệu tập trung).
2. Trình độ của đội ngũ nguồn nhân lực còn hạn chế
Chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng có thể chính là điểm mấu chốt khi áp
dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Nói một cách khác một loạt các câu hỏi đặt ra là liệu ngân
hàng có áp dụng ngân hàng điện tử hay không? Ngân hàng có quyết định đúng đắn khi quyết
định đầu tư vào ngân hàng điện tử hay không? Ngân hàng có nên là người đi tiên phong vượt
xa các đối thủ cạnh tranh hay chỉ nên đi sau?
Như thế, nếu cán bộ lãnh đạo ngân hàng không có tầm nhìn chiến lược thì sẽ không dám
mạo hiểu đầu tư vào dịch vụ ngân hàng điện tử. Bên cạnh đó, đội ngũ nhân viên ngân hàng
chưa tiếp cận công nghệ hiện đại, kiến thức về CNTT chưa vững, không nắm rõ các quy trình
nghiệp vụ của các dịch vụ ngân hàng điện tử.
3. Khâu tiếp thị và quảng bá còn yếu
Dịch vụ ngân hàng điện tử chưa được phổ biến và quảng bá rộng rãi đến hầu hết các đối
tượng khách hàng và chưa có nhiều hình thức khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng sử dụng
dịch vụ ngân hàng điện tử.
4. Chất lượng và sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử chưa đáp ứng
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 12
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử còn chưa thỏa mãn khách hàng ở những cấp độ
cao hơn như việc gửi tiền mặt vào tài khoản, việc đăng ký sử dụng dịch vụ… còn phải tới
trực tiếp giao dịch tại chi nhánh ngân hàng, hoặc các dịch vụ chất lượng cao hơn còn chưa
được phát triển trong ngân hàng điện tử như dịch vụ cho thuê tài chính,…
Hiện tại, tình trạng quá tải của máy ATM khi khách hàng rút tiền mặt trong những thời
gian cao điểm luôn xảy ra, dẫn tới sự khó chịu, không hài lòng nơi khách hàng.
Sự liên minh giữa các hệ thống thẻ (VNBC, Banknetvn, Smartlink) chưa thật sự hoàn
hảo. Việc dùng thẻ của một ngân hàng này để rút tiền tại ATM của một ngân hàng liên kết
khác vẫn còn tình trạng gặp trục trặc như: thẻ bị nuốt, không rút được tiền nhưng tài khoản bị
trừ tiền,... Ngoài ra, các ngân hàng còn thu phí đối với các chủ thẻ không thuộc ngân hàng
phát hành.
Ngoài ra, phí giao dịch và các trang thiết bị cho dịch vụ ngân hàng điện tử ở một số ngân
hàng còn cao. Ví dụ: phí sử dụng dịch vụ eBanking của Đông Á Bank mỗi tháng là 9.900đ,
phí trả mua thiết bị Hard Token của Tiên Phong Bank là 350.000đ,…
5. Gặp nhiều rủi ro trong quá trình triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử
Cạnh tranh và cuộc chạy đua làm chủ công nghệ mới, việc nhanh chóng đưa sản phẩm,
dịch vụ mới ra thị trường là một đặc trưng của ngân hàng điện tử. Trong hoạt động Ngân
hàng truyền thống, việc triển khai ứng dụng ngân hàng mới thường được tiến hành thử
nghiệm và hoàn thiện trong một thời gian dài trước khi đưa ra thị trường. Với ngân hàng điện
tử, do chịu sức ép cạnh tranh, các ứng dụng, sản phẩm mới được ngân hàng chấp nhận với
thời gian thử nghiệm ngắn hơn. Vì vậy, đối với việc phát triển ứng dụng mới trong ngân hàng
điện tử, phân tích rủi ro, đánh giá an ninh đang là những thách thức trong hoạt động ngân
hàng.
Song song với những rủi ro của loại hình dịch vụ theo cách truyền thống, những rủi ro
mới phát sinh kèm theo loại hình dịchvụ ngân hàng điện tử ở một vài khía cạnh như hoạt
động, uy tín và độ an toàn.
Rủi ro trong quá trình hoạt động
Ước đoán một con số chính xác về số lượng khách hàng tiềm năng sẽ tham gia ngân
hàng điện tử là một việc làm hết sức khó khăn và làm thế nào để đoán trước và quản lý được
khách hàng mà ngân hàng sẽ thu hút trong môi trường mới này là một thách thức đặt ra cho
các ngân hàng. Nhiều ngân hàng khi cung cấp dịch vụ trực tuyến đã ước lượng sai về số
lượng khách hàng tiềm năng và điều này để lại những hậu quả đáng tiếc khi hệ thống trực
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 13
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
tuyến của ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng, danh tiếng và khả năng tài
chính của ngân hàng có thể bị tổn hại.
Rủi ro về an toàn và bảo mật
Rủi ro về an toàn trong giao dịch ngân hàng không phải là vấn đề mới. Trong lịch sử
phát triển, ngân hàng đã quen thuộc với các vấn đề an toàn trong giao dịch hằng ngày như
cướp ngân hàng, ăn cắp tại các máy ATM hay sai sót trong quá trình giao dịch. Tuy nhiên, rủi
ro về an toàn và bảo mật trong các giao dịch ngân hàng điện tử còn có liên quan đến các vấn
đề khác. Những mối đe doạ và tấn công từ bên ngoài như đột nhập hệ thống, nghe ngóng
thông tin bất hợp pháp, đánh lừa hệ thống hay tạo ra các tình huống "từ chối dịch vụ"để làm
tăng rủi ro về an toàn của ngân hàng.
Theo thống kê của Trung tâm An ninh mạng Bách Khoa (Bkis), khoảng 80% trong số
hơn 50 ngân hàng đang hoạt động tại Việt Nam đã triển khai các giải pháp ngân hàng điện
tử cho phép khách hàng thực hiện một số giao dịch ngân hàng trực tuyến như vấn tin tài
khoản, xem sao kê, số dư tài khoản hoặc chuyển tiền qua tin nhắn.
Bkis đã tiến hành khảo sát tổng thể hệ thống của hơn 20 ngân hàng hàng đầu tại Việt
Nam đã triển khai hệ thống ngân hàng điện tử. Kết quả khảo sát phát hiện thấy tất cả hệ
thống ngân hàng điện tử của các ngân hàng này có lỗ hổng bảo mật, các lỗ hổng bảo mật
trong các hệ thống ngân hàng Việt Nam xuất hiện trong tất cả các khâu từ quá trình xử lý dữ
liệu đầu vào, môi trường hệ thống lỏng lẻo cho đến chính sách bảo mật của các ngân hàng
chưa đúng quy chuẩn.
Trong đó, có 7 lỗ hổng xuất hiện phổ biến nhất trong các hệ thống ngân hàng điện tử ở
Việt Nam hiện nay là: lỗ hổng XSS (Cross Site Scripting) cho phép hacker tấn công trực tiếp
vào máy tính người dùng (93% ngân hàng mắc lỗ hổng này); lỗ hổng CSRF lừa người dùng
truy cập vào đường link chứa mã độc để ăn cắp thông tin hoặc chiếm quyền kiểm soát
(93%); lỗ hổng trong quá trình xác thực cho phép hacker tấn công vào người dùng khác
trong hệ thống (64%); không cập nhật bản vá và cấu hình lỏng lẻo (80%); lỗi SQL Injection
mở đường cho hacker tấn công trực tiếp vào cơ sở dữ liệu (10%), và lỗ hổng MFU
(Malicious File Uploading) cho phép hacker tấn công vào hệ thống hosting (16%).
Các chuyên gia an ninh mạng của Bkis cho rằng sở dĩ các hệ thống ngân hàng điện tử ở
Việt Nam mắc nhiều lỗ hổng bảo mật như vậy là do thiếu quy trình đánh giá bảo mật độc lập
về an ninh mạng khi triển khai hệ thống và không áp dụng các tiêu chuẩn về an ninh mạng
một cách đồng bộ.
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 14
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
(Nguồn: http://www.ictnews.vn/Home/bao-mat/Bkis-100-ngan-hang-dien-tu-hong-baomat/2010/04/2VCMS1926629/View.htm ngày 15/04/2010)
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 15
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Các đoạn mã nguy hiểm
Các đoạn mã nguy hiểm như các loại virus, worm,... là một chương trình máy tính, có
tác hại đối với hệ thống thông tin của máy tính nói chung và hệ thống mạng của ngân hàng
nói riêng. Nó phá hủy các chương trình, các tệp dữ liệu, các phần mềm hệ thống. Các loại mã
nguy hiểm đang và sẽ còn gây ra những tác hại nghiêm trọng, đe doạ tính toàn vẹn và khả
năng hoạt động liên tục, thay đổi các chức năng hay đôi khi làm ngưng trệ toàn bộ hoạt động
của nhiều hệ thống... Đây là một trong những mối đe doạ lớn nhất đối với an toàn giao dịch
ngân hàng điện tử.
Gian lận thẻ thương mại
Trong thương mại truyền thống, gian lận thẻ tín dụng có thể xảy ra trong trường hợp thẻ
tín dụng bị mất, bị đánh cắp các thông tin về số thẻ, mã số định danh cá nhân, các thông tin
về khách hàng bị tiết lộ. Trong thương mại điện tử, các hành vi gian lận thương mại thẻ tín
dụng xảy ra đa dạng và phức tạp hơn. Mối đe doạ lớn nhất đối với khách hàng là bị "mất" các
thông tin liên quan đến thẻ và các thông tin về giao dịch sử dụng thẻ trong quá trình diễn ra
giao dịch. Tin tặc có thể đột nhập vào các website thương mại điện tử, lấy cắp các thông tin
cá nhân của khách hàng như tên, địa chỉ, điện thoại... Với những thông tin này, chúng có thể
mạo danh khách hàng thiết lập các khoản tín dụng mới nhằm những mục đích bất hợp pháp.
Sự khước từ phục vụ
Đây là hậu quả của việc tin tặc sử dụng những thông tin vô ích làm tràn ngập và dẫn tới
tắc nghẽn mạch truyền thông hay sử dụng lượng lớn máy tính tấn công vào một mạng từ
những điểm khác nhau gây nên sự quá tải về khả năng cung cấp dịch vụ. Sự tắc nghẽn này
làm cho khách hàng không thể thực hiện giao dịch được. Và chính sự gián đoạn này sẽ ảnh
hưởng đến uy tín và tiếng tăm của ngân hàng. Cho đến nay các ngân hàng đang tìm kiếm các
giải pháp nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công tương tự như vậy trong tương lai.
Sử dụng nguồn nhân lực bên ngoài
Để tập trung vào việc phát triển các hoạt động chủ đạo, các ngân hàng có quy mô lớn đã
chuyển hướng sang sử dùng nguồn nhân lực bên ngoài để phát triển thi trường và mở rộng
các nghiệp vụ ngân hàng điện tử. Điều này cũng xuất phát từ thực tế là nguồn nhân lực nội bộ
các ngân hàng còn thiếu nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên ngành cũng như khả năng
phát triển một giải pháp tổng thể cho dịch vụ ngân hàng điện tử.
Sử dụng nguồn nhân lực bên ngoài đồng nghĩa với việc phải dựa vào bên thứ ba là các
công ty phần mềm hay các công ty cung cấp giải pháp tổng thể. Để có thể quản lý những hoạt
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 16
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
động của bên thứ ba một cách có hiệu quả nhất nhằm giảm thiểu những rủi ro, ngân hàng
phải thực hiện nghiêm ngặt các quy định nội bộ cũng như giám sát chặt chẽ hoạt động của
bên thứ ba hay các công ty cung cấp. Đây là vấn đề vô cùng nhạy cảm đối với dịch vụ ngân
hàng nói chung cũng như dịch vụ ngân hàng điện tử nói riêng. Việc rò rỉ thông tin khách
hàng xuất phát từ việc quản lý lỏng lẻo các hoạt động bên thứ ba trong quá trình xây dựng,
cung cấp dịch vụ sẽ gây ra những hậu qủa bất lợi trong quan hệ của ngân hàng với khách
hàng.
Do đó, tuy sử dụng nguồn nhân lực bên ngoài là một xu hướng phổ biến mà các ngân
hàng sử dụng để phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử mới nhưng việc sử dụng nguồn nhân
lực này chỉ phát huy hiệu quả và đảm bảo an toàn khi có sự phân công rõ quyền hạn và trách
nhiệm của các bên tham gia.
III. TÍNH PHÁP LÝ TRONG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi nhằm
thu hút công nghệ tiến tiến, khuyến khích hệ thống ngân hàng triển khai ngân hàng điện tử và
doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử.
1. Về hệ thống pháp luật
Hiện nay, một số văn bản về hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng điện
tử như:
-
Luật Giao dịch điện tử, ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật giao dịch điện tử, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2006.
-
Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2006 của Chính Phủ về thương
mại điện tử.
-
Nghị định 35/2007/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân
hàng 04/04/2007
-
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 02 năm 2007 của Chính Phủ quy định
chi tiết thi hành luật giao dịch điện tử về chữ ký và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
-
Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 02 năm 2007 của Chính Phủ về giao
dịch điện tử trong hoạt động tài chính.
-
Quyết định số 40/2008/QĐ-BCT ngày 31 tháng 10 năm 2008 ban hành quy chế quản
lý, sử dụng chữ ký số, chứng thư số và dịch vụ chứng thực chữ ký số của Bộ Công
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 17
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
thương (quyết định này thay thế Quyết định số 25/2006/QĐ-BTM ngày 27 tháng 7 năm
2006 về việc ban hành quy chế sử dụng chữ ký số của Bộ Thương mại.
-
Quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước Số: 04/2007/QĐ-NHNN về việc thấu
chi và cho vay qua đêm áp dụng trong thanh toán điện tử liên ngân hàng.
-
Quyết định số 35/2006/Q Đ-NHNN ngày 31/7/2006 của thống đốc ngân hàng nhà
nước ban hành quy định về các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng
điện tử.
-
Thông tư 23/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc
quản lý, vận hành và sử dụng Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng áp dụng từ
ngày 01/01/2011
-
Thông tư 78/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thi hành một số nội
dung của Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về giao dịch điện tử trong
hoạt động tài chính áp dụng từ ngày 17/10/2008
-
Quyết định 04/2008/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế
cấp phát, quản lý, sử dụng chữ ký số, chứng thư số và dịch vụ chứng thực chữ ký số
của Ngân hàng Nhà nước áp dụng 18/03/2008.
-
Thông tư số 01/2011/TT-NHNN quy định việc đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống
công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, ban hành ngày 21/2/2011.
Hiện nay, các cơ quan nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật để tạo hành lang
pháp lý cho các giao dịch điện tử.
Tuy nhiên vẫn phát sinh một số vấn đề cần xem xét ví dụ như :
Theo khoản 1 điều 44 luật giao dịch điện tử:
“ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn
phù hợp với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử”
Một số lãnh đạo doanh nghiệp thì cho rằng việc nhà nước không ban hành một chuẩn
quốc gia về bảo đảm an ninh trong giao dịch điện tử mà cho phép các công ty được quyền
lựa chọn sẽ tạo xu hướng tìm công nghệ rẻ tiền hoặc cắt giảm chi phí dẫn đến an toàn của
giao dịch không bảo đảm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể cho các trường hợp như: khi sử dụng hóa đơn
điện tử thì chứng từ hợp pháp cho hàng hóa lưu thông trên đường là gì? Các văn bản liên
quan về chứng từ hàng hóa lưu thông trên đường có được sửa đổi cho phù hợp không?
2. Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 18
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Việc triển khai giao dịch điện tử nói chung và dịch vụ ngân hàng điện tử nói riêng tương
đối mới đối với Việt Nam. Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước cũng có một số khó khăn
như đội ngũ cán bộ quản lý chưa có nhiều kinh nghiệm, cơ sở pháp lý chưa hoàn chỉnh.
IV. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
Khảo sát 104 đối tượng là người sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, trong đó có 34
người làm việc tại ngân hàng (33%) và 70 người không làm việc tại ngân hàng (67%).
1. Dịch vụ ngân hàng điện tử được sử dụng nhiều nhất: ATM 40%
2. Hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử đối với người sử dụng:
Một số hạn chế tiêu biểu:
Không thực hiện được giao dịch do lỗi hệ thống/nghẽn mạng: 23 %
Phải tốn phí cho một số giao dịch điện tử: 16%
Không được hỗ trợ trực tiếp bởi nhân viên ngân hàng: 12%
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 19
Đề tài: Những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
3. Những khó khăn của ngân hàng khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử
Thực hiện: Nhóm 2 Lớp K20N4
Trang 20
- Xem thêm -