Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những giải pháp tài chính huy động vốn đầu tư phát triển du lịch bình thuận giai...

Tài liệu Những giải pháp tài chính huy động vốn đầu tư phát triển du lịch bình thuận giai đoạn 2006 2010

.PDF
58
6
115

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM LƯƠNG VĂN HẢI NHỮNG GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2006-2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006 -1- MỤC LỤC MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC KÊNH HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ 1.1. Vốn đầu tư và các kênh huy động vốn ................................................................ 3 1.1.1. Khái niệm về vốn đầu tư .................................................................................. 3 1.1.2. Nhu cầu vốn đầu tư .......................................................................................... 3 1.1.3. Nguồn hình thành vốn đầu tư ........................................................................... 5 1.1.3.a. Nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước ..................................................... 6 1.1.3.b. Nguồn hình thành vốn đầu tư nước ngoài ..................................................... 7 1.1.4. Các kênh huy động vốn đầu tư ......................................................................... 9 1.1.4.a. Ngân sách nhà nước ...................................................................................... 9 1.1.4.b. Tín dụng ...................................................................................................... 10 1.1.4.c. Huy động vốn từ các doanh nghiệp ............................................................... 12 1.1.4.d. Huy động từ thị trường vốn .......................................................................... 12 1.2. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng ........................................................................ 14 1.2.1. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ............... 14 1.2.2. Vai trò của vốn đầu tư đối với phát triển du lịch ............................................ 16 Chương 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH BÌNH THUẬN 2.1. Quá trình phát triển du lịch Bình Thuận trong thời gian qua ............................. 19 2.1.1. Điều kiện tự nhiên xã hội và nhân văn để phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận ......................................................................................................... 19 2.1.2. Quá trình phát triển du lịch Bình Thuận trong thời gian qua........................... 21 2.2. Thực trạng huy động vốn đầu tư để phát triển du lịch ....................................... 25 2.2.1. Huy động vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước ................................................ 25 2.2.2. Huy động vốn từ nguồn tín dụng .................................................................... 28 -2- 2.2.3. Huy động vốn từ doanh nghiệp ....................................................................... 32 2.2.4. Huy động vốn nước ngoài ............................................................................... 35 2.2.4.a. Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................... 35 2.2.4.b. Huy động vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài .................................................. 37 2.2.5. Huy động từ thị trường vốn ............................................................................. 37 2.3. Một số ý kiến nhận xét ....................................................................................... 37 Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch Bình Thuận đến năm 2010 .................. 41 3.2. Định hướng đầu tư cho du lịch Bình Thuận đến năm 2010 ............................... 44 3.3. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển du lịch Bình Thuận giai đoạn 2000 – 2010 ............................................................................................... 47 3.4. Các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển du lịch Bình Thuận ................... 49 3.4.1. Các giải pháp vĩ mô ......................................................................................... 49 3.4.2. Các giải pháp của địa phương ......................................................................... 54 3.4.2.a. Các giải pháp thúc đẩy huy động vốn đầu tư để phát triển hạ tầng du lịch ................................................................................................... 54 3.4.2.b. Giải pháp huy động vốn để đầu tư cơ sở kinh doanh du lịch ....................... 58 3.4.2.c. Giải pháp huy động vốn từ nguồn tín dụng .................................................. 59 3.4.2.d. Mở rộng các kênh huy động vốn .................................................................. 60 3.4.2.e. Đẩy mạnh xúc tiến du lịch, quảng bá thông tin kêu gọi đầu tư .................... 60 3.4.2.f. Phát triển nguồn nhân lực để thu hút vốn đầu tư .......................................... 60 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO -3- MỞ ĐẦU Những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành du lịch cả nước, du lịch Bình Thuận đã có những bước tiến đáng kể. Từ một vùng đất ven biển còn hoang sơ cách đây không lâu, đến nay Bình Thuận đang được biết đến như một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng trong cả nước, có sức thu hút mạnh mẽ du khách trong nước và quốc tế. Việc phát triển du lịch địa phương đã được chính quyền các cấp và các nhà đầu tư quan tâm thúc đẩy. Cùng với nhiều dự án được đăng ký và triển khai, lượng vốn đầu tư vào ngành du lịch Bình Thuận ngày càng tăng đã tạo nên sự phát triển nhanh chóng các cơ sở hoạt động du lịch của tỉnh nhà. Ngày 11/01/2002, UBND Tỉnh Bình Thuận đã ra quyết định số 07/2002/QĐUBBT Phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch tỉnh Bình Thuận đến năm 2010” xác định quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển và những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu đưa du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, góp phần thực hiện chiến lược phát triển ngành mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã vạch ra, trong đó “khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch” được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Một trong những giải pháp chủ yếu để thực hiện quy hoạch là xác định nhu cầu và tổ chức tốt công tác huy động vốn đầu tư. Thời gian qua, mặc dù Bình Thuận đã đạt được những kết quả khả quan trong việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển du lịch, thể hiện qua số lượng vốn đầu tư tăng nhanh, các kênh huy động vốn từng bước được đa dạng hoá, thu hút nhiều thành phần tham gia đầu tư… song, công tác huy động vốn đầu tư phát triển ngành nhìn chung vẫn còn bất cập so với yêu cầu đầu tư, không ít khó khăn, vướng mắc cần phải khắc phục và tháo gỡ để tiếp tục nâng cao quy mô và hiệu quả thu hút vốn đầu tư, bảo đảm tạo điều kiện cho ngành du lịch Bình Thuận phát triển đúng mục tiêu định hướng đã đề ra. -4- Với mong muốn được góp phần phân tích và đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất một số giải pháp thúc đẩy công tác huy động vốn đầu tư cho phát triển du lịch Bình Thuận trong thời gian tới nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, tôi xin chọn đề tài: “Những giải pháp tài chính huy động vốn đầu tư phát triển du lịch Bình Thuận giai đoạn 2006 – 2010” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. Mục đích của đề tài là ứng dụng lý luận về vốn và các kênh huy động vốn đầu tư để phân tích vai trò của công tác huy động vốn trong quá trình phát triển du lịch Bình Thuận trong thời gian qua, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc, từ đó xác định những giải pháp và kiến nghị các vấn đề cần giải quyết. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là mô tả và phân tích, với nguồn số liệu được thu thập từ niên giám thống kê, các báo cáo của các ban ngành trong tỉnh và số liệu được công bố trên các phương tiện thông tin. Trong quá trình thực hiện luận văn, do năng lực và điều kiện nghiên cứu còn nhiều hạn chế, chắc chắn nội dung luận văn không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự quan tâm góp ý của các Thầy Cô. -5- Chương 1 TỔNG QUAN VỀ CÁC KÊNH HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ Vốn đầu tư và các kênh huy động vốn: 1.1.1. Khái niệm về vốn đầu tư: 1.1. Tài sản của một quốc gia bao gồm tài nguyên thiên nhiên, tài sản được sản xuất ra và tích luỹ lại trong suốt quá trình hình thành và phát triển nguồn nhân lực và tri thức. Quá trình phát triển của mỗi nước luôn đặt ra yêu cầu phải tạo ra tài sản mới nhằm bù đắp những tài sản tiêu hao trong quá trình sử dụng, đồng thời không ngừng tăng thêm khối lượng tài sản quốc gia. Để tạo ra tài sản mới phải đầu tư những yếu tố cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh như công cụ, máy móc, nguyên vật liệu, lao động, công nghệ… tất cả các yếu tố đó được xem là nguồn vốn đầu tư để tạo ra thu nhập, tài sản cho quốc gia. Vốn đầu tư hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ nguồn lực đưa vào hoạt động của nền kinh tế – xã hội, gồm máy móc thiết bị, nhà xưởng, lao động, tài nguyên, đất đai, khoa học công nghệ... Vốn hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lực được thể hiện bằng tiền của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và của quốc gia. Hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn để phục hồi và tạo ra năng lực sản xuất kinh doanh mới. Đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để làm tăng tài sản quốc gia. 1.1.2. Nhu cầu vốn đầu tư: Nhu cầu vốn đầu tư phát sinh do yêu cầu: - Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: Cơ sở hạ tầng được coi là nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, mỗi địa phương. Ở các nước đang phát triển, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên các cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, hệ thống điện, cấp nước, bưu chính viễn thông … còn thiếu thốn và yếu kém, do đó cần đầu tư một lượng vốn rất lớn cho cơ sở hạ tầng, nhưng bản thân các nước này lại đang trong tình trạng -6- tích lũy thấp, thiếu vốn, vì vậy nhu cầu thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài là rất cấp bách. Kinh nghiệm của các nước cho thấy việc tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng sẽ có tác động mạnh mẽ trở lại đến việc thu hút vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Một nước có cơ sở hạ tầng tốt cùng với các chính sách ưu đãi khác sẽ có lợi thế hơn các nước khác trong việc thu hút dòng chảy của vốn đầu tư quốc tế. Vì vậy các nước rất chú trọng và dành một phần lớn ngân sách và nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) để chi cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, để giảm gánh nặng cho ngân sách, chính phủ thường cho phép tư nhân tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng, phát hành trái phiếu công trình, thành lập quỹ đầu tư, quỹ phát triển hạ tầng… - Đầu tư vốn vào các doanh nghiệp để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ: Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, các nước rất coi trọng việc thu hút vốn đầu tư cho các doanh nghiệp. Vốn đầu tư dùng để thành lập mới, đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng và cải tạo nhà xưởng, trang thiết bị. Đầu tư cho các doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo ra công ăn việc làm, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho xã hội, tạo nguồn thu cho ngân sách. - Đầu tư cho giáo dục và đào tạo: Đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhằm phát triển tiềm năng con người có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, những nước có thành công nổi bật trong kinh tế thường là những nước chú trọng đầu tư lớn cho giáo dục đào tạo. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển kinh tế, chính phủ các nước thường dành một phần đáng kể ngân sách để chi cho giáo dục đào tạo. Cùng với sự đầu tư của chính phủ, các nước còn cho phép huy động thêm các nguồn đầu tư khác như tư nhân, viện trợ, các tổ chức phi chính phủ… để phát triển giáo dục và đào tạo. - Đầu tư cho khoa học công nghệ: -7- Khoa học công nghệ đóng vai trò nền tảng và động lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc đầu tư vốn cho khoa học công nghệ sẽ tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển nhanh và bền vững. Phát triển khoa học công nghệ là hoạt động đòi hỏi phải đầu tư vốn lớn, lâu dài, phải có đủ vốn và chấp nhận rủi ro trong quá trình nghiên cứu, triển khai. Hoạt động khoa học công nghệ chủ yếu dựa vào các nguồn vốn sau: + Vốn do ngân sách nhà nước cấp. + Kinh phí thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học. + Vốn do liên doanh, liên kết với các tổ chức khác. + Vốn viện trợ của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, tài trợ của cá nhân trong và ngoài nước. 1.1.3. Nguồn hình thành vốn đầu tư: Trong tổng thu nhập của mỗi nước, sau khi trừ đi phần tiêu dùng, còn lại là phần để bù đắp và tích lũy. Quỹ bù đắp và quỹ tích lũy chính là nguồn gốc hình thành vốn đầu tư, trong đó quỹ tích lũy là bộ phận quan trọng nhất. Quỹ tích lũy được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Nền kinh tế càng phát triển thì tỉ lệ tích luỹ càng cao. Đối với các nước đang phát triển, do thu nhập còn thấp nên quy mô và tỉ lệ tích lũy đều thấp, trong khi nhu cầu về vốn đầu tư rất cao, do đó rất cần đến nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặt khác, trong xu hướng chu chuyển vốn quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, ngay cả các nước phát triển vẫn cần có sự kết hợp giữa vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Như vậy, vốn đầu tư có được của mỗi nước hình thành từ tiết kiệm trong nước và tiết kiệm của nước ngoài. Tiết kiệm trong nước bao gồm tiết kiệm của Nhà nước, tiết kiệm của doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư là nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước. Tiết kiệm của nước ngoài hình thành vốn đầu tư nước ngoài dưới các dạng đầu tư trực tiếp và gián tiếp. 1.1.3.a. Nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước: Nguồn vốn đầu tư trong nước hình thành từ tiết kiệm của ngân sách nhà nước, tiết kiệm của các doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư. -8- Tiết kiệm của ngân sách nhà nước chính là chênh lệch giữa tổng các khoản thu mang tính không hoàn lại (chủ yếu là các khoản thu thuế) với tổng chi tiêu dùng của ngân sách. Tổng thu ngân sách sau khi chi cho các khoản chi thường xuyên, còn lại hình thành nguồn vốn đầu tư phát triển. Như vậy, vốn đầu tư của Nhà nước là một phần tiết kiệm của ngân sách để chi cho đầu tư phát triển. Nguồn vốn này phụ thuộc vào khả năng tập trung thu nhập quốc dân vào ngân sách và quy mô chi tiêu dùng của nhà nước. Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng, ổn định và có tính định hướng cao đối với các nguồn vốn đầu tư khác. Tiết kiệm của các doanh nghiệp là một nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước. Tiết kiệm của các doanh nghiệp nhà nước cũng như tiết kiệm của các doanh nghiệp tư nhân (gọi chung là tiết kiệm của công ty) được hình thành từ lợi nhuận đạt được trong kinh doanh để lại cho doanh nghiệp để đầu tư (không chia) và quỹ khấu hao tài sản cố định của công ty. Tiết kiệm của công ty là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nhằm mở rộng quy mô kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế . Tiết kiệm của dân cư là phần tiết kiệm của các hộ gia đình và các cá nhân, tổ chức đoàn thể xã hội. Đây là phần còn lại của thu nhập sau khi đã đóng thuế và sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Mức độ tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mức thu nhập bình quân đầu người, chính sách lãi suất, chính sách thuế và sự ổn định kinh tế vĩ mô. Tiết kiệm của dân cư giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính, do khả năng chuyển hoá nhanh chóng thành nguồn vốn cho đầu tư thông qua các hình thức gởi tiết kiệm, mua chứng khoán, trực tiếp đầu tư... Tiết kiệm dân cư cũng dễ dàng chuyển thành nguồn vốn đầu tư của Nhà nước bằng cách mua trái phiếu chính phủ, hoặc chuyển thành nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp qua việc mua trái phiếu, cổ phiếu của các công ty phát hành. -9- 1.1.3.b. Nguồn hình thành vốn đầu tư nước ngoài: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI): là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào để thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh, góp vốn vào các công ty, xí nghiệp liên doanh hoặc thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hình thành từ tiết kiệm của tư nhân và các công ty nước ngoài đầu tư vốn vào một nước khác nhằm khai thác lợi thế so sánh, tận dụng các yếu tố lao động, tài nguyên của địa phương, tiết kiệm chi phí vận chuyển để tăng lợi nhuận cho việc đầu tư . Đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nên cú hích ban đầu cho sự tăng trưởng, bên cạnh nguồn vốn ngoại tệ, FDI còn mang theo công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và khả năng tiếp cận thị trường thế giới. Vì vậy, thu hút FDI đang trở thành hình thức huy động vốn phổ biến, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: là những khoản đầu tư thực hiện thông qua các hoạt động cho vay và viện trợ. Nguồn vốn có thể là của chính phủ các nước, có thể là của các tổ chức quốc tế. Đầu tư gián tiếp nước ngoài bao gồm: Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và Vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO). + Viện trợ phát triển chính thức (ODA: Official Development Assictance) là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Nguồn viện trợ phát triển chính thức được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Trong đó viện trợ song phương chiếm đến 80%. Viện trợ đa phương được thực hiện qua các tổ chức Liên hiệp quốc (UNDP, UNICEF…) và các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế (IMF, WB, ADB, OPEC…). Nội dung của ODA gồm: - Viện trợ không hoàn lại (thường chiếm 25% tổng vốn ODA); - Hợp tác kỹ thuật; - 10 - - Cho vay ưu đãi: Bao gồm cho vay không lãi suất và cho vay với lãi suất ưu đãi (lãi suất thấp, thời hạn trả vốn dài). Nguồn vốn ODA thường được thực hiện với nhiều điều kiện ưu đãi, các nước tiếp nhận dùng nguồn vốn này để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào các lĩnh vực y tế, giáo dục… Tuy nhiên, vốn viện trợ phát triển chính thức thường gắn với thái độ chính trị của chính phủ và các tổ chức quốc tế đối với chính phủ nước tiếp nhận. Bên cạnh đó, do trình độ quản lý của các nước đang phát triển còn thấp cho nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn này không cao, làm cho nhiều nước lâm vào cảnh nợ nần chồng chất và nền kinh tế không phát triển được. Vì vậy, vấn đề quan trọng là cần phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra. + Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO: Non – Government Organization) là các khoản viện trợ không hoàn lại. Trước đây loại viện trợ này chủ yếu là vật chất, phục vụ cho mục đích nhân đạo như cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế, chỗ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai… Hiện nay, loại viện trợ này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khỏe, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn… Nguồn vốn đầu tư gián tiếp được sử dụng có hiệu quả sẽ có tác dụng thúc đẩy, khuyến khích và tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp. Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài là nguồn vốn rất quý giá, cần phải tận dụng và khai thác có hiệu quả, tạo đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế. 1.1.4. Các kênh huy động vốn đầu tư: Huy động vốn đầu tư là quá trình thu hút, tập trung một phần tiết kiệm trong nước và nước ngoài để chuyển vào hoạt động đầu tư cho sản xuất kinh doanh nhằm phát triển kinh tế. Quá trình chuyển hoá từ tiết kiệm đến đầu tư được thực hiện thông qua các kênh huy động vốn đầu tư. Các kênh huy động vốn thường được sử dụng là: 1.1.4.a. Ngân sách nhà nước: - 11 - Một trong những chức năng chủ yếu của Nhà nước là tổ chức xây dựng nền kinh tế. Để thực hiện chức năng này, Nhà nước sử dụng công cụ tài chính vĩ mô quan trọng là ngân sách nhà nước để phân phối các nguồn tài chính cho sự phát triển của lĩnh vực sản xuất và các ngành kinh tế quốc dân. Một phần chủ yếu của ngân sách nhà nước được sử dụng để chi đầu tư phát triển bao gồm chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước; chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp; chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển; chi dự trữ nhà nước và chi trả nợ gốc tiền do chính phủ vay. Nguồn vốn chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ yếu và quan trọng trong việc thực hiện chiến lược đầu tư của nền kinh tế, tạo định hướng và kích thích quá trình đầu tư vốn của các doanh nghiệp và tư nhân nhằm mục đích hình thành cơ cấu kinh tế theo định hướng của nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển, nhà nước tổ chức động viên vào ngân sách một phần thu nhập quốc dân thông qua các công cụ thuế, lệ phí, thu viện trợ của nước ngoài… đây là kênh huy động vốn quan trọng tạo nguồn vốn đầu tư ổn định và vững chắc. 1.1.4.b. Tín dụng: Tín dụng được xem là chiếc cầu nối giữa các nguồn cung cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Bằng việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế để bổ sung kịp thời cho những doanh nghiệp, cá nhân kể cả ngân sách đang gặp thiếu hụt về vốn trên nguyên tắc có hoàn trả. Các tổ chức tín dụng góp phần quan trọng trong việc điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, đồng thời còn giúp cho các doanh nghiệp bổ sung vốn đầu tư để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Tín dụng bao gồm tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng. + Tín dụng nhà nước: - 12 - Xét trên góc độ huy động vốn, tín dụng nhà nước là hoạt động đi vay do nhà nước tiến hành nhằm cân đối ngân sách khi mà nguồn thu thuế và các nguồn khác không đáp ứng đầy đủ các nhu cầu chi tiêu của ngân sách. Tín dụng nhà nước giúp nhà nước huy động và tập trung được một nguồn thu lớn tạo điều kiện cho ổn định kinh tế vĩ mô, phân bổ lại nguồn lực tài chính, nâng cao nguồn vốn tập trung để thoả mãn nhu cầu đầu tư của nhà nước. Tín dụng nhà nước được thực hiện nhằm vay nợ trong nước thông qua các công cụ như công trái, tín phiếu ngắn hạn, trái phiếu dài hạn phát hành trong nước. Bằng việc phát hành các chứng khoán này, nhà nước cung cấp cho thị trường tài chính một khối lượng hàng hoá lớn, ít rủi ro làm phong phú thêm sản phẩm để phát triển thị trường. Tín dụng nhà nước cũng được thực hiện nhằm vay nợ nước ngoài bằng việc vay từ nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA, phát hành trái phiếu của nhà nước trên thị trường quốc tế. Tín dụng nhà nước là một kênh huy động vốn cần thiết và quan trọng để bù đắp bội chi ngân sách và tạo nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên việc vay nợ phải được kiểm soát một cách chặt chẽ để tránh tình trạng vay quá giới hạn cho phép, dẫn đến áp lực nặng nề của việc trả nợ, cũng như mất cân đối giữa đầu tư của ngân sách và đầu tư của khu vực doanh nghiệp và dân cư làm gia tăng lãi suất huy động vốn, gây hạn chế việc vay vốn đầu tư . + Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là công cụ thu hút vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp và dân cư để cho vay. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian tín dụng bằng việc cho vay những nguồn tiền đã huy động được đã cung cấp cho nền kinh tế một khoản vốn đầu tư cần thiết để phát triển. Bên cạnh việc thực hiện nghiệp vụ truyền thống là vay và cho vay các ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ đầu tư vốn dưới các hình thức đầu tư trực tiếp như hùn vốn liên doanh, liên kết, thành lập công ty, xí nghiệp bằng vốn tự có của mình; hoặc đầu tư gián tiếp như sử dụng các nguồn vốn huy động có thời hạn và vốn tự có để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu và - 13 - các chứng từ có giá khác qua đó hưởng thu nhập qua chênh lệch giá trên thị trường thứ cấp. Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng, quá trình điều tiết và chu chuyển vốn đã vượt khỏi giới hạn của một quốc gia làm hình thành các quan hệ tín dụng quốc tế. Như vậy tín dụng không chỉ là một kênh quan trọng thu hút vốn đầu tư trong nước mà còn là một nhân tố thúc đẩy huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. 1.1.4.c. Huy động vốn từ các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp luôn có nhu cầu đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị và công nghệ, tăng vốn luân chuyển, hoặc đầu tư thành lập doanh nghiệp mới. Nguồn vốn đầu tư phần lớn được lấy từ thu nhập không chia (thu nhập để lại không chi trả cổ tức) và quỹ khấu hao tài sản. Nếu nguồn vốn này chưa đủ, doanh nghiệp phải huy động từ nguồn phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc đi vay. Các doanh nghiệp thường dành ưu tiên cho việc đầu tư từ nguồn vốn nội bộ hơn là phát hành cổ phiếu hoặc đi vay. Điều này được lý giải là do các doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả thường không muốn chia sẻ cơ hội tăng trưởng của mình cho các nhà đầu tư bên ngoài, đồng thời tránh những chi phí phát sinh trong quá trình phát hành cổ phiếu và đi vay. Tuy nhiên, nhìn chung các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển hoạt động với hiệu quả chưa cao nên phần vốn tích lũy nội bộ còn thấp. Để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, các doanh nghiệp phải huy động thêm nguồn vốn trên các thị trường tài chính và tạo thành một kênh huy động vốn quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. 1.1.4.d. Huy động từ thị trường vốn: Thị trường vốn là nơi huy động và cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Cùng với thị trường tiền tệ, thị trường vốn là một kênh quan trọng để huy động vốn đáp ứng cho các nhu cầu đầu tư của nhà nước và các doanh nghiệp. Thông qua công cụ chủ yếu là các loại chứng khoán, các chủ thể thị trường thực hiện việc giao lưu vốn. Đối với người cần vốn, chứng khoán là công cụ tài chính để - 14 - huy động vốn, còn đối với người thừa vốn thì chứng khoán là công cụ đầu tư để mang lại thu nhập. Trên thị trường vốn, các loại chứng khoán có những tính chất chung là tính thanh khoản, tính rủi ro và tính sinh lợi. Với những tính chất này, chứng khoán trở thành công cụ rất có hiệu quả để thu hút các khoản vốn nhàn rỗi trong dân cư, tập trung thành một khối lượng vốn lớn phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế. Vì vậy, phát triển thị trường vốn là một yêu cầu cấp bách nhằm khai thác nguồn tiết kiệm để tăng khả năng đầu tư. Thị trường vốn phát triển làm tăng tính thanh khoản của chứng khoán, làm cho giá cả chứng khoán trở nên phù hợp hơn đối với sự tăng trưởng kinh tế và quan hệ cung cầu về vốn, giúp nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào thị trường. Thị trường vốn phát triển sẽ làm nảy sinh ngày càng nhiều chủng loại chứng khoán đa dạng và phong phú, tạo nên sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Thị trường vốn còn giúp chính phủ thực hiện tốt chính sách tài chính tiền tệ, tăng tính ổn định của nền kinh tế, giảm thiểu rủi ro do lạm phát gây ra, từ đó kích thích tiết kiệm và đầu tư vốn cho nền kinh tế. Do tính hiệu quả trong việc huy động vốn, thị trường vốn được nhà nước và các doanh nghiệp sử dụng để bù đắp phần vốn thiếu hụt trong đầu tư khi cần phải tập trung một lượng vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư các dự án lớn vượt quá khả năng của nhà đầu tư. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng: 1.2.1. Vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế: 1.2. Từ thực tiễn của các nước có mức tăng trưởng cao cho thấy vốn là một nhân tố đặc biệt quan trọng, là chìa khoá của sự thành công về tăng trưởng. Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NIC) đã đạt được những thành quả vượt bậc về kinh tế nhờ thực hiện tốt chính sách huy động và đầu tư vốn. Vốn đã đóng góp hơn 50% mức tăng trưởng thu nhập của các nước này trong một thời gian dài. Vai trò quan trọng của vốn thể hiện ở chỗ, muốn khai thác tốt các nguồn lực tự nhiên như đất đai, tài nguyên thì luôn cần có một lượng vốn đầu tư nhất định. Mô hình tăng trưởng - 15 - kinh tế của Harrod - Domar đã chứng minh là có sự quan hệ tỉ lệ thuận giữa tỉ lệ vốn đầu tư và tỉ lệ tăng trưởng thu nhập quốc nội (GDP). Quan hệ giữa mức tăng vốn đầu tư và tăng trưởng đã được xác lập bằng phương trình kinh tế: Mức tăng GDP = Mức tăng vốn đầu tư / ICOR Trong đó ICOR (Incremental Capital Output Ratio) là Hệ số tăng trưởng vốn - đầu ra, biểu thị hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư. Như vậy, bên cạnh việc sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả thì việc tỷ lệ vốn đầu tư tăng lên sẽ kéo theo tốc độ tăng trưởng tăng và ngược lại. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chỉ là một điều kiện tiền đề để tạo ra sự phát triển. Phát triển kinh tế là cả một quá trình làm biến đổi sâu sắc về mọi mặt kinh tế xã hội của một đất nước cả về số lượng và chất lượng trong dài hạn. Phát triển kinh tế đòi hỏi sự tăng trưởng phải được duy trì liên tục trong dài hạn, tạo nên những chuyển biến trong cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã hội theo hướng hiện đại. Nền kinh tế hoạt động với năng suất và hiệu quả càng cao, hàng hoá càng có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, ý thức bảo vệ môi trường được nâng cao, đời sống vật chất và văn hoá của người dân được cải thiện rõ rệt. Ngoài những tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, việc duy trì lâu dài nguồn cung cấp vốn đầu tư một cách hiệu quả sẽ góp phần quan trọng để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế. Điều này thể hiện trước hết ở tác động của vốn đầu tư đến việc phát triển cơ sở hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư vốn vào cơ sở hạ tầng sẽ tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế một cách vững chắc. Việc kiến tạo cơ sở hạ tầng luôn phải đi trước một bước để mở đường cho nền kinh tế phát triển. Ngân hàng Thế giới đã nhận định rằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc gia thường tương ứng với sự gia tăng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Vì vậy, muốn phát triển kinh tế cần phải có một lượng vốn đủ lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Mặt khác, để đạt được mục đích phát triển kinh tế nhanh và bền vững, cần phải tạo cơ cấu kinh tế tối ưu phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi nước. Một cơ cấu kinh tế tối ưu luôn bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa cả về cơ cấu ngành và cơ cấu - 16 - vùng và lãnh thổ. Ở đây vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác hiệu quả các nguồn lực tiềm năng tạo ra động lực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng tối ưu, từ đó tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững. Vai trò của vốn đối với phát triển kinh tế còn thể hiện qua việc vốn bảo đảm sự kết hợp cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư. Tiết kiệm chính là nguồn gốc của đầu tư, nhưng việc tiết kiệm và đầu tư được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau, do đó dễ dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị thừa hoặc thiếu vốn làm cho sự phát triển không ổn định, tăng trưởng thấp, thất nghiệp gia tăng. Trong tình trạng thừa vốn, nhà nước phải khuyến khích đầu tư và kích cầu tiêu dùng để tiêu hoá tốt lượng vốn từ tiết kiệm. Trong trường hợp thiếu vốn, nhà nước phải có chính sách thu hút vốn từ bên ngoài, kiểm soát và nâng cao hiệu quả hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời phải thực hành tiết kiệm để nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trong nước. Sự chu chuyển vốn sẽ tạo nên sự cân bằng vĩ mô giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần ổn định và phát triển kinh tế. Vốn còn là điều kiện không thể thiếu trong việc tạo ra công ăn việc làm, qua đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Vốn đầu tư góp phần quan trọng trong việc phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thúc đẩy xã hội theo hướng công bằng, văn minh. 1.2.2. Vai trò của vốn đầu tư đối với phát triển du lịch: Theo Luật Du lịch năm 2005, các khu du lịch được hiểu là “nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường”. Nhưng trên thực tế, hầu hết các khu du lịch hiện nay trên cả nước đều không thỏa mãn các tiêu chí này. Theo những thông tin công bố trên các phương tiện thông tin, ước tính đến năm 2006 trên cả nước có khoảng trên 100 khu du lịch và khu nghỉ dưỡng (resort) được đầu tư xây dựng và đưa vào khai thác kinh doanh du lịch, trong đó gần 90% tập trung tại các khu vực các tỉnh ven biển miền trung. Đặc biệt, riêng tỉnh Bình Thuận có 65 resort với khoảng 6.000 phòng nghỉ, 2.000 phòng khách sạn đang được - 17 - khai thác. Tuy nhiên, chỉ trừ một vài khu du lịch có quy mô rộng 100 – 200 ha như khu du lịch Tuần Châu (Quảng Ninh), khu du lịch sinh thái Linh Trường (Thanh Hóa)… còn lại hầu hết các khu du lịch, resort khác đều được đầu tư xây dựng với quy mô chỉ từ 3 – 20 ha, chủ yếu phục vụ loại hình cụm nhà nghỉ, khách sạn có tính chất du lịch nghỉ dưỡng là chính; các hoạt động vui chơi giải trí, các dịch vụ du lịch cần thiết khác hầu như vắng bóng. Để lý giải cho hiện tượng trên, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng công tác đầu tư xây dựng, khai thác và kinh doanh du lịch, resort tại các địa phương còn bộc lộ còn nhiều yếu kém và bất cập. Đầu tiên là do sự thiếu quy hoạch tổng thể phát triển các vùng, khu vực có tiềm năng du lịch trên địa bàn nên đã gây hiện tượng lập quy hoạch chi tiết, dự án đầu tư xây dựng tràn lan tại cùng một khu vực, từ đó xuất hiện các khu du lịch, resort có cùng tính chất hoạt động, vừa đơn điệu, vừa giống nhau về sản phẩm làm ảnh hưởng đến tính khả thi và phát triển bền vững của dự án. Để xây dựng và phát triển các khu du lịch chất lượng cao, tương xứng với tiềm năng du lịch sẵn có theo đúng mục tiêu và yêu cầu đặt ra, cần có những giải pháp đồng bộ, lồng ghép và phối hợp đa ngành từ quản lý quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển du lịch, quản lý đất đai, kiến trúc, bảo vệ tài nguyên môi trường, quản lý kinh doanh và an toàn trật tự xã hội, trong đó vốn và huy động vốn đầu tư nắm giữ vai trò chủ đạo và xuyên suốt trong quá trình quy hoạch, đầu tư, xây dựng phát triển ngành kinh tế du lịch. Đối với ngành kinh tế du lịch, ngoài các yếu tố sẵn có như điều kiện tự nhiên, khí hậu… đầu tư hoàn thiện hạ tầng phục vụ phát triển du lịch có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành, trong đó vốn đầu tư có vai trò quyết định. Xác định ngành kinh tế du lịch là ngành dịch vụ, chủ yếu thỏa mãn các nhu cầu về nghỉ ngơi, an dưỡng trong điều kiện tốt nhất của du khách. Do đó, để đưa du khách đến với các địa điểm du lịch, ngoài việc quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng trước hết cần phải đầu tư xây dựng hoàn thiện và đảm bảo an toàn các cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật như hệ thống giao thông, phương tiện vận chuyển... - 18 - Muốn giữ chân du khách phải đầu tư xây dựng, tôn tạo các khu du lịch, xây dựng cơ sở lưu trú, hoàn chỉnh hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp năng lượng, nước sạch cho các khu du lịch. Ý tưởng kinh doanh mới cùng với vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư có thể tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng, phong phú và hấp dẫn... tạo điều kiện cho du khách tăng chi tiêu. Tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch cũng có quan hệ chặt chẽ và tỷ lệ thuận với với mức gia tăng vốn đầu tư và tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư. Vốn đầu tư vào du lịch còn làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, trong đó nâng dần tỉ trọng của các ngành dịch vụ trong thu nhập quốc dân và giảm dần tỉ trọng của các ngành nông lâm nghiệp. Việc xác định quy mô và định hướng đầu tư vốn đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho du lịch phát triển bền vững, khai thác tốt các tiềm năng và bảo vệ cảnh quan môi trường. - 19 - Chương 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH BÌNH THUẬN 2.1. Quá trình phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trong thời gian qua: 2.1.1. Điều kiện tự nhiên xã hội và nhân văn để phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận: Bình Thuận là tỉnh nằm ở cực Nam Trung Bộ, trong khu vực ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ, nằm gần các thành phố công nghiệp lớn của cả nước. Phía Bắc giáp hai tỉnh Lâm Đồng và Ninh Thuận, phía tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Phía Đông và Đông Nam giáp Biển Đông. Bình Thuận có đường bờ biển dài 192 km trải dài trên địa bàn của 6 huyện, thành phố và thị xã với các bãi biển đa dạng: từ những bãi biển cát trắng, cây xanh rợp mát quanh năm ở Phan Thiết - Hàm Tiến - Mũi Né - Hòn Rơm, bãi biển Tiến Thành - Thuận Quý - Khe Gà, bãi biển Đồi Dương – Cam Bình (thị xã LaGi)… cho đến các bãi biển đá cuội nhiều màu ở Bình Thạnh (huyện Tuy Phong), bãi cát bên cạnh vách núi hang động kỳ ảo ở Vĩnh Tân - Cà Ná; các đảo nhỏ, cù lao ven biển có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ như khu đảo Cù Lao Câu (huyện Tuy Phong), đảo Hòn Bà (thị xã LaGi), môi trường tự nhiên trong lành còn thuận lợi cho việc phát triển du lịch cuối tuần, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao biển và du lịch sinh thái. Bình Thuận có tài nguyên rừng nhiệt đới với nhiều loại thực vật và động vật quý hiếm, cảnh quan hùng vĩ, sơn thủy hữu tình với nhiều núi non, hồ thác, sông suối đẹp như Núi Tàkóu, Núi Ông - Biển Lạc, Thác Bà, Thác Reo, Hồ sông Quao, Hồ Hàm Thuận - Đa Mi… có thể phát triển các loại hình du lịch dã ngoại, du lịch sinh thái kết hợp với tham quan nghiên cứu tự nhiên. Bình Thuận có một số mỏ nước khoáng có giá trị phục vụ tiêu dùng và chữa bệnh như nước khoáng Vĩnh Hảo (huyện Tuy Phong), Đa Kai (huyện Đức Linh), Văn Lâm (huyện Hàm Thuận Nam) và đặc biệt có nguồn nước nóng tại khu Bưng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan