VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NHƯ LAI
NHÀ Ở CỦA NGƯỜI CA-DONG
Ở HUYỆN NAM TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 22 01 13
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
HÀ NỘI, 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI,
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM MINH PHÚC
Phản biện 1: ........................................:..........................
Phản biện 2: ........................................:..........................
Luận văn sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội ........ giờ ........ ngày ........
tháng ........ năm 2017.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Ca-dong là một trong 5 nhóm tộc người của dân tộc
Xơ-đăng, cư trú chủ yếu ở huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), huyện
Kômplông (Kon Tum) và khu vực bao quanh chân núi Ngọc Linh ngọn núi cao nhất của dãy Trường Sơn. Trong suốt quá trình sinh
sống của mình, họ đã tạo dựng nên những nét văn hóa rất đặc sắc về
nếp sống, phong tục, tập quán... giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ.
Tuy nhiên, có một điều khá bất ngờ đó là trong khi nhiều tộc
người, nhóm địa phương sinh sống ở khu vực Trường Sơn - Tây
Nguyên được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, thì đối
với người Ca-dong, những trang viết về họ còn khá hạn chế, và cho
đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về
từng lĩnh vực văn hóa của họ, trong đó có phong tục nhà ở. Trong khi
đó, nhà ở là một trong những thành tố văn hóa quan trọng trong đời
sống của mỗi dân tộc, bởi nó không chỉ là nơi che mưa, che nắng, mà
còn là nơi thực hành các nghi thức, nghi lễ, nơi thể hiện nếp sống tộc
người.
Trong những năm gần đây, quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa một mặt làm cho đời sống kinh tế đồng bào các dân tộc được
cải thiện đáng kể nhưng mặt khác cũng làm thay đổi nhiều mặt trong
đời sống văn hóa - xã hội, trong đó có nhà ở. Do vậy, việc nghiên cứu
nhà ở của các dân tộc, trong đó có nhà ở của người Ca-dong thiết
nghĩ là một việc làm hết sức cần thiết.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài:”Nhà ở của người Cadong ở huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp chương đào tạo thạc sĩ của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Năm 1933, sau khi điểm lại những chuyến xâm nhập của thực
dân Pháp vào vùng miền núi Quảng Nam, G.H.Hoffet, nhà địa chất
học người Pháp đã phải than thở rằng: “không thể nào nghiên cứu các
dân tộc ở đây, trừ một số vùng cư dân ở ven vùng người Việt. Không
thể nào tiếp cận được các cư dân trong nội địa vì họ không chịu thần
phục chính quyền ngoại bang”. Ông kể lại câu chuyện hải hùng của
Odend’hal vào cuối thế kỉ trước, chỉ dám dừng lại ở Trà My ba ngày,
sau phải bỏ chạy qua đèo Xêy lên phía Bắc, để về Huế [31, tr.20].
L.Condominas, sĩ quan Pháp, cha đẻ của nhà dân tộc học nổi tiếng
G.Condominas, là Đồn trưởng Đồn Trà My vào những năm 30 thế kỉ
XX (1934 - 1937) cũng chỉ phác hoạ một cách sơ sài về các cư dân
“Mọi” miền thượng sông Tranh [31, tr.20].
Thời gian gần đây, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
nhiều vấn đề về các dân tộc trong đó có nhóm tộc người Ca-dong ở
Nam Trà My đã dần dần sáng tỏ. Các nhà nghiên cứu đi đầu trong
việc nghiên cứu về người Ca-dong ở Trà My như: Đặng Nghiêm
Vạn, Ninh Văn Hiệp, Lưu Hùng, Nguyễn Tri Hùng, Tôn Thất
Hướng,… đã công bố nhiều tư liệu, bài viết đăng tải trên sách, báo và
tạp chí. Chẳng hạn như, cuốn: “Tìm hiểu con người miền núi Quảng
Nam” do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, đã tập hợp một số bài nghiên
cứu của các tác giả khác nhau, trong đó có đề cập đến một số vấn đề
về sự hình thành tộc người Ca-dong ở Quảng Nam, đặc trưng tộc
người Ca-dong cũng như vấn đề về việc bảo tồn và phát huy giá trị
kinh tế - văn hoá làng của đồng bào. Hay như, bài viết: “Người Cadong ở Trà My” của Đặng Nghiêm Vạn và Ninh Văn Hiệp trên Tạp
chí Dân tộc học số 3/1978 đã đề cập đến vấn đề nguồn gốc tộc người
Ca-dong, quan hệ làng nóc, dòng họ gia đình hay một số vấn đề về
2
hôn nhân, tang ma của người Ca-dong. Cuốn “Tiểu vùng văn hóa xứ
Quảng’’ do Hà Nguyễn chủ biên, Nhà xuất bản Thông tin và truyền
thông ấn hành năm 2012 bước đầu đề cập đến cách xây dựng nhà ở
của người Ca-dong.
Trên đây là những tài liệu nói về nguồn gốc cũng như một số
đặc trưng kinh tế, văn hoá, xã hội… và bước đầu khái quát về cách
xây dựng nhà ở của người Ca-dong, song chưa có một công trình nào
đi sâu nghiên cứu hay đã có một tài liệu nào đề cập một cách đầy đủ,
có hệ thống về nhà ở của người Ca-dong ở Nam Trà My, tỉnh Quảng
Nam. Mặc dù vậy, chúng tôi cho rằng đây là nguồn tư liệu quí để
tham khảo trong việc xác định vấn đề nghiên cứu và kế thừa trực
tiếp cho luận văn này.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhà ở của người Ca-dong ở
huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào người Ca-dong cư
trú tại huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Đề tìm hiểu nhà ở của người Ca-dong trong truyền thống và
ngày nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp những tư liệu từ quá trình lựa chọn và chuẩn bị
nguyên vật liệu đến quy trình dựng nhà; cấu trúc ngôi nhà; một số
nghi lễ, kiêng kị liên quan đến ngôi nhà.
Tìm hiểu những biến đổi về các khía cạnh vật chất cũng như
những yếu tố văn hoá - xã hội của ngôi nhà ở.
Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hóa nhà ở của người Ca-dong.
3
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã nêu trên, đề tài sẽ tập trung làm sáng
tỏ các khái niệm, khái quát về lịch sử tộc người, trình bày những vấn
đề về nhà ở truyền thống của người Ca-dong như các yếu tố vật chất,
kỹ thuật, cấu trúc ngôi nhà, cách bố trí mặt bằng sinh hoạt và các
nghi lễ liên quan đến ngôi nhà; bên cạnh đó, chỉ ra những biến đổi
của nhà ở hiện nay và nguyên nhân sự biến đổi.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu chủ yếu là các tài liệu thực tế thu thập được
trong quá trình đi nghiên cứu điền dã ở các làng, các nóc của người
Ca-dong ở huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh đó là
những tài liệu đã được công bố, đó là các báo cáo, thống kê, các công
trình nghiên cứu của các tác giả đã xuất bản ở Trung ương, ở tỉnh
Quảng Nam cũng như các địa phương và các bài viết liên quan đến
đề tài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cơ bản và liên ngành, như:
Phương pháp điền dã dân tộc học: Đây là phương pháp chủ đạo
được tác giả sử dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tại điểm
nghiên cứu, tác giả tiến hành quan sát, cùng ở, cùng ăn, cùng tham
gia sinh hoạt với người Ca-dong trong một thời gian. Bằng cách này,
tác giả có điều kiện quan sát kỹ hơn phần kết cấu ngôi nhà cũng như
tìm hiểu những đặc điểm văn hóa liên quan đến ngôi nhà của người
Ca-dong.
Trong quá trình điền dã, tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực
tiếp nhiều đối tượng khác nhau bằng những câu hỏi mở đã được
4
chuẩn bị nhằm thu thập thông tin liên quan đến nhà ở của người Cadong.
Trong thời gian điền dã, tác giả đã tiến hành chụp ảnh, lựa
chọn các hình ảnh đẹp, tiêu biểu, phù hợp để minh họa cho nội dung
của luận văn.
Phương pháp thu thập, phân tích, xử lý tư liệu: Tác giả đã kế
thừa có tính chọn lọc các kết quả nghiên cứu về người Ca-dong của
các nhà nghiên cứu đi trước ở Trung ương, tỉnh Quảng nam cũng như
một số địa phương khác.
Phương pháp so sánh đối chiếu
Từ những kết quả nghiên cứu sau quá trình phân tích, tổng hợp
tư liệu và những tài liệu điền dã, tác giả tiến hành phương pháp so
sánh đối chiếu để rút ra được những đặc điểm nổi bật của người Cadong so với các tộc người khác.
Với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như trên, có
thể thấy rằng, luận văn sử dụng chủ yếu nguồn tư liệu thu thập được
trong quá trình điền dã dân tộc học tại địa bàn sinh sống của người
Ca-dong. Ngoài ra, tác giả còn kế thừa một số kết quả của các nhà
nghiên cứu, nhà khoa học đã nghiên cứu về người Ca-dong.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp không chỉ bổ sung nguồn tư liệu phong phú, tin cậy
cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về nhà ở của người Ca-dong ở huyện
Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam nói riêng và người Ca-dong nói
5
chung, mà qua đó còn góp phần nhận diện rõ hơn các lý thuyết về
văn hóa mà luận văn áp dụng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với kết quả đạt được, đề tài sẽ giúp mọi người có cái nhìn toàn
diện hơn về nhà ở của người Ca-dong huyện Nam Trà My, tỉnh
Quảng Nam; Những kiến nghị, đề xuất của đề tài sẽ góp phần giúp
những cơ quan, ban ngành hữu quan đề ra những chính sách, những
chiến lược để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đồng bào Ca-dong
nơi đây; Thông qua đề tài, bồi đắp tình yêu, niềm tự hào về quê
hương cho các thế hệ người Ca-dong hôm nay và mai sau.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo,
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, khái quát về địa bàn nghiên cứu và
người Ca-dong.
Chương 2: Nhà ở truyền thống của người Ca-dong.
Chương 3: Biến đổi nhà ở và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị
nhà ở truyền thống của người Ca-dong.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
VÀ NGƯỜI CA-DONG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Luận văn làm rõ một số khái niệm như nhà, nhà ở, nhà sàn, mặt
bằng sinh hoạt là cơ sở để nhận định và giải quyết vấn đề nghiên cứu.
1.1.2. Cơ sở lý thuyết
6
Luận văn này, chúng tôi dựa vào hai thuyết đó là thuyết sinh
thái văn hóa và thuyết biến đổi văn hóa để phân tích các mối quan hệ
và phần nào có thể lý giải sự thích nghi của người Ca-dong với môi
trường tự nhiên thông qua ngôi nhà ở cũng như sự biến đổi ngôi nhà
truyền thống của người Ca-dong trong điều kiện giao lưu, tiếp xúc
văn hóa trong bối cảnh hội nhập hiện nay để từ đó thấy được các yếu
tố truyền thống nào còn được lưu giữ và yếu tố nào đang dần bị mai
một.
1.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên
Huyện Nam Trà My nằm trên ngã ba ranh giới giữa tỉnh
Quảng Nam với hai tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum, vị trí địa lý vào
khoảng: 15°57' độ vĩ Bắc và 109°09' độ kinh Đông. Nam Trà My
chịu ảnh hưởng của 2 kiểu khí hậu: khí hậu khu vực duyên hải Nam
Trung bộ và khí hậu Bắc Tây Nguyên. Huyện có 87.127 ha rừng tự
nhiên, tỷ lệ che phủ khoảng 41,96%. Nhiệt độ trung bình năm 24°c.
1.2.2. Đặc điểm dân cư
Tính đến tháng 9 năm 2010, Nam Trà My có 8 dân tộc và
nhóm tộc người cùng sinh sống. Do có sự cộng cư với nhau lâu đời,
nên sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc, nhóm tộc người thiểu số ở
Nam Trà My đã diễn ra từ rất lâu mà đến nay các hình thức sinh hoạt
văn hoá của từng tộc người thật khó phân biệt rạch ròi đâu là yếu tố
bản sắc riêng của tộc người, đâu là yếu tố vay mượn. Vì vậy, cũng có
thể nói rằng các dân tộc, nhóm tộc người ở đây đã có sự giao lưu, tiếp
nhận nhiều đặc điểm văn hóa của nhau, trong đó có vấn đề về nhà ở.
1.3. Đôi nét về người Ca-dong
1.3.1. Lịch sử hình thành tộc người
7
Xuất phát từ huyền thoại và giả thiết, các nhà dân tộc học tạm
thời phác thảo những cuộc chuyển cư của các tộc người ở Bắc Tây
Nguyên và định vị vùng cư trú của các tộc người và các nhóm tộc
người. Lời giải thích đầu tiên là sự chấp nhận một sự thật có thể tin
cậy được là những cư dân Môn - Khơme, trong đó có người Xơ-đăng
và các nhóm Ca-dong đã có mặt sớm nhất ở Bắc Tây Nguyên so với
các cư dân đang tồn tại ở đây. Nhưng họ định cư ở đây từ khi nào và
vì sao họ bị đẩy lên vùng núi cao cư trú, thì chưa ai giải thích thoả
đáng.
1.3.2. Tên gọi
Theo công bố của Tổng cục Thống kê tại Quyết định số 121 TCTK/PPCĐ, ngày 2/3/1979 ban hành “Danh mục các thành phần
dân tộc Việt Nam” thì người Ca-dong là một nhóm thuộc dân tộc Xơđăng xếp theo thứ tự dân số là 14 trong 54 thành phần dân tộc. Sau
khi có công bố của Tổng cục Thống kê xếp tộc người Ca-dong là một
nhóm địa phương của dân tộc Xơ-đăng, rất nhiều người dân đã có ý
kiến không đồng tình, họ đều tự nhận mình là người Ca-dong. Trong
các văn bản, giấy tờ của người dân như giấy khai sinh, chứng minh
nhân dân, các khai báo tư pháp hộ tịch, hộ khẩu,… người Ca-dong
đều kê khai thành phần dân tộc là Ca-dong.
1.3.3. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Kinh tế
Đến nay, người Ca-dong vẫn sinh sống chủ yếu bằng trồng trọt
rẫy, sản xuất cây lúa rẫy. Ngoài ra còn tiến hành các hoạt động kinh
tế khác như: săn bắt, hái lượm và chăn nuôi.
Xã hội
Trong xã hội truyền thống, người Ca-dong sống thành từng
plơi. Mỗi plơi gồm một hay nhiều nóc nhà. Mỗi nóc là một nhà dài
8
nhiều căn hộ. Đến nay, những ngôi nhà dài này đã hiếm thấy, thay
vào đó là những nhà gồm 1 đến 2 – 3 gian làm sát vách nhau. Người
đứng đầu làng là người được các trưởng nóc hay trưởng gia đình
chọn ra. Ngoài người đứng đầu làng, trong làng còn có hội đồng già
làng.
1.3.4. Đặc điểm văn hóa
Đời sống văn hóa vật chất
Trong ẩm thực, có các món ăn đặc sắc như cơm gạo đỏ, cơm
lam, món kiến,…Trước đây gia vị nêm nếm chỉ là muối chứ ko có
gia vị khác, có nơi chưa có muối thì họ dùng các loại cây rừng có vị
mặn để thay muối. Đồ uống của người Ca-dong chủ yếu là chè xanh,
lá dẻ và rượu.
Người Ca-dong ở Nam Trà My không tự dệt vải mà chủ yếu
mua hoặc trao đổi để lấy vải về may quần áo. Xã hội truyền thống,
đàn ông đóng khố, cởi trần, mùa lạnh khoác thêm tấm choàng, búi
tóc. Phụ nữ, con gái mặc váy ống, có lúc họ mặc váy cởi trần. Trang
sức của phụ nữ là vòng tai,vòng cổ, chuỗi cườm. Trong đời sống hiện
tại, sự giao lưu tiếp xúc với các dân tộc khác ảnh hưởng đến cách ăn
mặc của người Ca-dong, hầu như họ mặc theo kiểu người Kinh.
Đời sống văn hóa tinh thần
Người Ca-dong theo tín ngưỡng đa thần. Đời sống văn hóa văn
nghệ của người Ca-dong tương đối phong phú với nhiều loại nhạc cụ
như cồng chiêng, trống, sáo, đàn…
Tiểu kết
Xác định chương 1 là cơ sở, tiền đề cho các chương tiếp theo
của luận văn, trong chương này chúng tôi đã thao tác hóa các khái
niệm, trình bày các lý thuyết luận văn áp dụng để làm giả thiết
nghiên cứu và khung phân tích của luận văn. Bên cạnh đó, để có thể
9
xem xét, phân tích, nhận diện vấn đề nhà ở một cách khách quan
trong các mối liên hệ theo tinh thần của phương pháp luận duy vật
biện chứng, chúng tôi đã trình bày các vấn đề có liên quan trực tiếp
và gián tiếp đến vấn đề nhà ở của người Ca-dong, đó chính là chủ thể
của nhà ở là người Ca-dong, văn hóa Ca-dong và các yếu tố tác động
đến phong tục nhà ở của họ, đó là các điều kiện môi trường tự nhiên,
xã hội xunh quanh nơi họ cư trú.
Chương 2
NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CA-DONG
2.1. Lựa chọn và chuẩn bị trước khi làm nhà
2.1.1. Chọn đất, chọn hướng
Trong xã hội truyền thống, người Ca-dong thường chọn khu
vực lưng chừng núi để lập làng (nóc).Vì theo họ, ở phía trên cao hơn
(phía đỉnh) là nơi các vị thần trên trời trú ngụ, còn ở dưới thấp hơn là
nơi ma quỷ lẩn quẩn.
2.1.2. Chuẩn bị làm nhà
Chuẩn bị vật liệu
Các vật liệu được sử dụng trong việc làm và dựng nhà đều
được khai thác từ tự nhiên như: các loại gỗ, tre, nứa, lồ ô,… trong đó
gỗ là vật liệu cơ bản.
Công cụ dựng nhà
Từ khai thác nguyên liệu đến dựng nhà, người Ca-dong dùng nhiều
công cụ, nhưng đều thuộc loại đa năng. Các công cụ hiện đại như: cưa,
bào, thước… được người dân biết đến và sử dụng từ khi có sự giao
lưu văn hóa giữa các tộc người mà nhất là sự xuất hiện của đội ngũ
thợ dựng nhà thuê từ dưới xuôi lên.
Thợ
10
Trong xã hội truyền thống của người Ca-dong chưa xuất hiện
những người thợ chuyên làm nhà. Hầu như tất cả người dân đều có
thể tự dựng nhà cho mình và tham gia dựng nhà cho những gia đình
cần sự giúp đỡ.
2.2. Quy trình dựng nhà
Trước khi dựng nhà người ta tiến hành đo cây, khoét đẽo
ngoãm. Khi tiến hành làm nhà, việc trước tiên là người ta chia đều
các vị trí cột, sau đó tiến hành đào lỗ chôn cột. Sau khi các cột được
chôn vững chắc, khuôn nhà đã được định hình thì người ta là làm sàn.
Khi phần dưới hoàn tất, người ta tiếp tục làm các phần trên của ngôi
nhà. Trước hết là làm gác và sau đó là làm phần mái. Cuối cùng là
phần thưng vách và lợp. Sau khi ngôi nhà được hoàn thành, già làng
tiến hành một số nghi lễ tín ngưỡng, phong tục trước khi gia đình dọn
đến nhà mới.
2.3. Kết cấu ngôi nhà và bố trí mặt bằng sinh hoạt
2.3.1. Kết cấu ngôi nhà
Kết cấu sàn
Hai loại vật liệu chính để làm sàn đó là lồ ô và gỗ. Hầu hết mặt
sàn nhà của người Ca-dong trước đây đều là lồ ô. Đối với sàn lồ ô,
kết cấu khung sàn phức tạp, trải qua nhiều công đoạn hơn là kết cấu
sàn gỗ. Đầu tiên người Ca-dong đặt các thanh dầm dọc chính vào
ngoãm đã được tạo ra trên cột chính, mỗi nhà còn thêm ít nhất là một
dầm dọc được đỡ bởi cột phụ. Số lượng cột phụ tùy thuộc vào số gian
nhà. Đặt phía trên dầm dọc sàn là những cây gỗ để làm dầm ngang đỡ
sàn. Tiếp theo dầm ngang đỡ sàn là những cây gỗ có đường kính nhỏ
hơn để đỡ mặt sàn. Các bộ phận được cố định với nhau bằng dây lạt
hoặc dây mây.
11
Đối với nhà có sàn gỗ, kết cấu sàn đơn giản hơn nhiều. Trên hệ
thống dầm sàn, người Ca-dong dùng những tấm gỗ trải dọc, ngang để
làm mặt sàn. Tuổi thọ của sàn gỗ cao hơn rất nhiều so với sàn được
làm từ lồ ô.
Kết cấu vách
Vách nhà được làm rất đơn giản, gồm những lóng dọc và lóng
ngang ghép lại làm sườn, lồ ô sau khi chặt thì bổ banh, đập dập, phơi
nắng sau đó kẹp thành từng tấm to rồi buộc chặt vào những lóng
ngang, lóng dọc và dựng theo chiều thẳng đứng từ mặt sàn lên đến
sát mái.
Kết cấu mái
Mái của nhà sàn người Ca-dong có đòn tay nằm ngang trên
thanh kèo, đòn nóc nằm ở vị trí giao nhau của hai thanh kèo. Mái
gồm rui, mè kết cấu theo lối buộc nẹp ngang dọc nhau và được làm
trước ở dưới mặt đất, sau đó đưa lên buộc vào các đòn tay mái để làm
vỏ mái. Vật liệu lợp có thể được sử dụng nhiều loại lá như lá mây, lá
tranh, lá nón và các loại lá rừng khác.
2.3.2. Bố trí mặt bằng sinh hoạt
Ngôi nhà sàn của người Ca-dong gồm có hai phần: phần trên
mặt sàn và phần dưới mặt sàn. Phần trên là nơi sinh hoạt của con
người. Phần dưới dùng để chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Bên trong nhà được bố trí như sau: Bếp chính nằm gần với cửa
cúng. Đây là vị trí thiêng trong ngôi nhà. Cạnh bếp chính và cửa cúng
là nơi ngủ của cha mẹ, tiếp đến là nơi ngủ của con cái trong gia đình.
Vị trí ở gian giữa có cửa hông là nơi tiếp khách và khách ngủ ở đó.
Mỗi nhà có thể có một hay nhiều bếp, số bếp nhiều hay ít tùy thuộc
vào số lượng gia đình nhỏ sống trong nhà.
2.4. Nghi lễ và kiêng kị liên quan đến ngôi nhà truyền thống
12
2.4.1. Nghi lễ liên quan đến ngôi nhà
Lễ cúng xin dựng nhà
Đây là nghi lễ quan trọng và đầu tiên trong tất cả các lễ cúng
liên quan đến ngôi nhà. Lễ diễn ra vào buổi sáng. Lễ vật gồm có: một
nắm đất, một con gà trống, một con dao, chín miếng trầu, chín miếng
cau, vôi, thuốc rê hoặc thuốc lá, rượu, thẻ xin keo. Bên cạnh đó là
một chén than có bỏ hương rừng. Lễ cúng diễn ra hai giai đoạn: giai
đoạn 1 cúng sống, giai đoạn 2 cúng chín. Cúng sống là cúng con gà
còn sống còn cúng chín là cúng con gà khi đã được làm chín đi rồi.
Lễ lên nhà mới
Lễ được tiến hành ngay buổi tối ngày hoàn thiện ngôi nhà. Lễ
vật chính ngoài trầu cau, rượu, hương rừng là một con lợn đen (lợn
đực) còn sống được buộc tại cửa cúng. Lễ lên nhà mới cũng diễn ra
qua 2 giai đoạn cúng là cúng sống và cúng chín. Sau tất cả các nghi
thức của lễ lên nhà mới, chủ nhà sẽ tổ chức ăn uống mời anh em, họ
hàng cùng vào mâm ăn cỗ mừng nhà mới.
2.4.2. Nghi lễ diễn ra trong ngôi nhà
Lễ cưới
Lễ cưới của người Ca-dong trải qua nhiều bước nhưng tất cả
đều diễn ra trong nhà. Trong lễ dặm hỏi, sau khi làm thủ tục xã giao
thì đại diện nhà gái làm lễ cúng trình con ma nhà và sau đó tổ chức lễ
ăn thề không bỏ nhau. Lễ này diễn ra tại cửa cúng. Sau khi nghi lễ
kết thúc, mọi người cùng nhau ăn uống. Sau lễ dặm hỏi một thời gian
thì diễn ra lễ cưới hay gọi là lễ đón dâu. Trong dịp này tổ chức một
lần nữa lễ ăn thề không bỏ nhau của vợ chồng. Đêm đó toàn nhà trai
nghỉ lại nhà gái. Tại nhà trai, nghi lễ cũng được thực hiện như ở nhà
gái nhưng có sự khác biệt đó là sự hoán đổi vị trí ngồi giữa đôi trai
gái trong quá trình thực hiện nghi lễ.
13
Tang ma
Khi làm ma, với cái chết dữ người Ca-dong không đưa xác
người chết vào trong nhà vì sự thi thể mang theo âm khí không tốt
cho việc làm ăn cũng như sinh sống của những người trong nhà. Nếu
có ai đó bị chết xấu ngay ở trong nhà thì người ta cũng đưa xác ra
ngoài làm các nghi lễ tiễn biệt. Đối với chết lành, người chết được
đặt trong nhà, chân hướng ra phía cửa ra vào. Người thân tiến hành
thay quần áo rồi bắt đầu cúng cho hồn người chết thịt gà, thịt trâu và
rượu. Người Ca-dong không để người chết quá lâu trong nhà, khi đi
chôn người chết chỉ có những người đàn ông, không bao giờ cho phụ
nữ đi đám ma.
2.4.2. Kiêng kị liên quan đến ngôi nhà
Trong thời gian làm nhà, người Ca-dong kiêng vợ chồng
không được đi rừng đi rừng, đi rẫy, kiêng không trao đổi, mua bán
với ai. Trong chọn vật liệu làm nhà, kiêng không chọn những cây cụt
ngọn, hỏng gốc, cây có dấu hiệu bất thường. Trong quá trình sinh
hoạt kiêng nấu các con vật chậm chạp trên bếp lửa trong nhà sàn từ
sau lễ lên nhà mới đến gần một tháng sau đó, kiêng không ai được
đến gần hoặc ngồi tại vị trí cửa cúng ngoại trừ chủ gia đình.
2.5. Giá trị của ngôi nhà truyền thống
2.5.1. Giá trị văn hóa - xã hội
Ngôi nhà không chỉ che mưa che nắng cho con người, mà còn
là nơi sinh hoạt văn hóa. Không chỉ những lúc vui chơi mà tất cả
những công việc dù lớn hay bé liên quan đến gia đình, dòng họ.
Những buổi sinh hoạt cộng đồng như vậy làm tính cố kết cộng đồng
khăng khít hơn và trở thành môi trường tốt cho thế hệ đi trước truyền
dạy, nhắc nhở con cháu luôn hướng về nguồn cội và giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc mình.
14
2.5.2. Giá trị tâm linh
Trong quá trình sinh sống cùng những quan niệm về tín
ngưỡng, ngôi nhà dần dần mang trong mình nhiều yếu tố tâm linh.
Điều này thể hiện qua việc thờ cúng tổ tiên và thực hiện cái nghi lễ
như cúng bái, ma chay, cưới xin.... Trong nhà luôn có một không
gian đặc biệt giành cho việc thờ cúng và thực hành nghi lễ. Đồng
thời, khi làm nhà người Ca-dong cũng có những nguyên tắc nhất định
từ việc chọn đất, chọn hướng cho đến cách bày trí ngôi nhà.
Tiểu kết
Trên cơ sở quan điểm tiếp cận toàn diện vấn đề nghiên cứu, ở
chương này, chúng tôi đã trình bày về nhà ở truyền thống của người
Ca-dong ở nhiều khía cạnh như việc chọn đất, chọn hướng; chuẩn bị
vật liệu, công cụ trước khi làm nhà; tìm hiểu quy trình dựng nhà; kết
cấu ngôi nhà; bố trí mặt bằng sinh hoạt; nghi lễ và kiêng kị liên quan
đến ngôi nhà của đồng bào.
Theo đó, đối với người Ca-dong, dựng nhà là công việc trọng
đại của mỗi gia đình do vậy đồng bào rất chú trọng trong từng khâu,
để tránh những rủi ro ngoài ý muốn. Trong suốt quá trình dựng nhà
cũng như sinh sống trong ngôi nhà, nhiều tri thức dân gian đã được
áp dụng. Tất cả những điều này phản ánh những ứng xử của người
Ca-dong không chỉ thích ứng đối với môi trường tự mà cả với môi
trường xã hội của chính tộc người họ.
Qua tìm hiểu nhà ở của người Ca-dong, chúng tôi thấy ngôi
nhà không chỉ mang giá trị sử dụng đơn thuần mà còn chứa đựng cả
giá trị văn hóa, giá trị tâm linh của tộc người.
15
Chương 3: BIẾN ĐỔI NHÀ Ở VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CADONG
3.1. Những khía cạnh biến đổi
3.1.1. Biến đổi trong lựa chọn và chuẩn bị nguyên vật liệu
làm nhà
Trong việc chọn đất, chọn hướng làm nhà
Một số công việc liên quan đến chọn đất làm nhà hiện nay của
người dân không thực hiện theo như truyền thống. Bên cạnh biến đổi
trong chọn đất là sự thay đổi trong chọn hướng.
Trong cách chọn vật liệu
Trong xã hội truyền thống, đồng bào sử dụng vật liệu sẵn có
trong rừng. Ngày nay người Ca-dong thích sử dụng nguyên liệu công
nghiệp hơn như gạch, ngói, xi măng, sắt, thép…để làm nhà.
Về thợ dựng nhà, hầu hết các ngôi nhà mới xuất hiện ở các
buôn làng là sản phảm của những người thợ từ dưới xuôi lên hoặc
vùng khác đến chứ không còn là những người đàn ông trong gia đình.
Công cụ khai thác nguyên vật liệu và dựng nhà, trước đây là
những công cụ đa năng như: rìu, cuốc, dao, xẻng,… thì hiện nay có
những công cụ hiện đại, chuyên dụng như máy cưa, máy cắt, xẻ, dùi,
đục…
3.1.2. Biến đổi kết cấu và bố trí mặt bằng sinh hoạt
Hầu như hiện nay nhà ở của người Ca-dong đều chuyển từ nhà
sàn sang nhà trệt có mái bằng hoặc hai mái và vững chãi hơn trước
nên kết cấu ngôi nhà cũng có sự biến đổi theo.
Phần mái có kết cấu giống nhà của người Kinh. Tôn và ngói là
hai vật liệu được sử dụng chủ yếu để lợp do đó kết cấu của bộ khung
mái cũng thay đổi. Bộ khung mái của nhà sàn trước đây có rất nhiều
16
lớp nhưng với kiểu nhà hiện đại như hiện nay thì các lớp đã giảm đi
nhiều. Những ngôi nhà theo kiểu hiện đại với tường xây, lợp ngói
hay lợp tôn thì không có hệ thống kèo như những nhà vách gỗ lợp tôn
mà hệ thống đòn đông, đòn tay được gác trực tiếp lên tường. Trụ gỗ
được thay bằng trụ bê tông.
Về mặt bằng sinh hoạt, không gian bên dưới gầm sàn trước
đây là nơi nhốt nuôi gia súc, gia cầm thì nay là nơi để các loại máy
móc, bếp nấu nằm trong nhà thì giờ đây hầu như được dời ra ngoài.
Không gian tín ngưỡng, trong truyền thống người dân ngồi
ngay trên sàn tại vị trí cột thiêng hay cửa cúng để thực hiện các nghi
lễ thì hiện nay người dân đưa việc thờ tự lên một vị trí cao hơn, trang
trọng hơn.
3.1.3. Biến đổi trong nghi lễ và kiêng kị liên quan đến ngôi
nhà
Người dân đã giảm bớt những kiêng kị trong việc chọn cây
làm nhà. Tuy nhiên, nơi cúng vẫn là nơi linh thiêng đối với người
dân. Trong quá trình sinh hoạt một số nghi lễ cũng có sự biến đổi, các
nghi lễ diễn ra văn minh hơn.
3.2. Nguyên nhân biến đổi
Chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân
tộc. Các chủ trương, chính sách này đã và đang ngày càng tác động
sâu rộng đến các tỉnh miền núi trong đó có huyện Nam Trà My, tỉnh
Quảng Nam. Đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung
và của người Ca-dong nói riêng được cải thiện đáng kể trong đó có
17
vấn đề về nhà ở. Và đây cũng chính là nguyên nhân làm mất dần đi
những ngôi nhà sàn truyền thống dân tộc.
Sự thay đổi của điều kiện tự nhiên
Nhà ở truyền thống của đồng bào phụ thuộc rất nhiều vào
nguồn nguyên liệu khai thác từ thiên nhiên. Trong nhiều năm trở lại
đây, thiên nhiên trên địa bàn huyện có nhiều thay đổi, nhất là tài
nguyên rừng. Diện tích rừng ngày càng giảm sút. Mặt khác, chính
sách giao đất giao rừng cho các hộ gia đình của Nhà nước cũng phần
nào làm cho việc tìm kiếm, khai thác nguyên vật liệu trở nên khó
khăn. Đây chính là nguyên nhân làm cho cấu trúc nhà của người Cadong có sự thay đổi, những nguyên vật liệu cổ truyền dần được thay
thế bằng vật liệu chế tạo theo phương pháp công nghiêp.
Giao lưu, tiếp thu các yếu tố văn hóa mới
Việc giao lưu gặp gỡ giữa các dân tộc không ngừng được
mở rộng làm cho người Ca-dong có nhiều cơ hội tiếp thu nền văn hóa
mới, trong đó có vấn đề về nhà ở. Sự giao lưu văn hóa cũng làm cho
đồng bào có cái nhìn toàn diện hơn về nhiều vấn đề. Điều này đã có
những tác động đến bố trí mặt bằng sinh hoạt của đồng bào.
Sự thay đổi quan niệm về ngôi nhà truyền thống của người
dân.
Khi khảo sát tại địa phương có nhiều ý kiến cho thấy quan
niệm về ngôi nhà đã thay đổi. Có rất nhiều ý kiến cho rằng việc thay
đổi là hợp lý bởi phù hợp với sự phát triển của xã hội và hơn cả là
tiện cho việc sinh hoạt của chính người dân. Tuy nhiên cũng có một
vài ý kiến là vẫn muốn sống trong ngôi nhà như cha ông họ sinh sống
trước kia nhưng dù muốn cũng đành bất lực bởi nhiều nguyên nhân.
3.3. Một số giải pháp bảo tồn, pháp huy giá trị nhà ở truyền
thống của người Ca-dong
18
- Xem thêm -