Tiểu luận triết học Mác Lê Nin
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN. PHÊ PHÁN BỆNH KINH NGHIỆM VÀ BỆNH GIÁO
ĐIỀU
Chủ nghĩa duy vật trước Mác mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ:
“Khuyết điểm chủ yếu, từ trước tới nay của mọi chủ nghĩa duy vật là không thấy
được vai trò của thực tiễn”. Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu
sót trong quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen
đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với
nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tạo ra một cuộc cách mạng
trong lý luận nhận thức. Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển một cách
sáng tạo và được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học, kỹ thuật, của thực
tiễn xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về
nhận thức: “nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo
thế giới khách quan vào đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn”.
Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mac-Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói
chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, mang
tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng
theo mục đích của mình. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không
ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà thực
tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử - xã hội. Vì
vậy thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là những
hoạt động vật chất hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con
người. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự vật trong hiện
thực, từ đó làm cơ sở biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Do đó hoạt động
thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sáng tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá
trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình
tương tác giữa các chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo
khách thể, trên cơ sơ đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu
trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc
trưng cho con người. Con người nhờ vào thực tiễn, như là hoạt động có ý thức, có
mục đích của mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một
cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới. Con người không thoả mãn
với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến
1
hành lao động sản xuất tạo ra của cải vât chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao
động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo ra công cụ lao động và sử dụng công
cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo
nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con
người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói
rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương
thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới.
Tuy thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn
luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Hoạt động đó
không thể được tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động đông
đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về phương thức
thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản
ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Đó
là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ
không đầy đủ chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn. Quá trình nhận thức
của con người và loài người nói chung trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính ...
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn tới sự xuất hiện của lý luận.
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện như là
trình độ cao của nhận thức.
Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những
tri thức về tự nhiên và xã hội tích luỹ lại trong quá trình lịch sử (Hồ Chí minh: Toàn
tập).
Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát hoá từ
thực tiễn, phản ánh mối liên hệ về bản chất, những tính quy luật của thế giới khách
quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ
với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động
qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định, vì nó là cơ sở, nền tảng của lý
luận bởi vì chính thực tiễn là cơ sở xuất phát của nhận thức nói chung trong đó có lý
luận., nó đặt ra các vấn đề cho nhận thức, cho lý luận.
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý
luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con
người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính
quy luật để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài
liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý tính, xây dựng thành lý luận, khoa
học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận.
Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực
tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở
giai đoạn cảm tính hay lý tính, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều
2
bắt nguồn từ thực tiễn. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người cũng biến đổi
luôn cả bản thân mìn, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình, từ đó
trình độ được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học.
Thực tiễn là động lực, là mục đích của nhận thức, của lý luận, vì chính thực
tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển cho nhận thức. Nhận thức
phát triển được hay không là nhờ vào sự thúc đẩy của thực tiễn. Lý luận, khoa học
không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức,
lý luận. Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn,
chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa
học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn
phục vụ mục tiêu phát triển nói chung nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng
của con người.
Vai trò của thực tiễn còn được thể hiện ở chỗ nó là tiêu chuẩn để kiểm tra tính
đúng sai của chân lý. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể
đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý…” Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng
hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ
sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng, tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Là tuyệt đối vì nó là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất của nhận thứ, là thước đo duy nhất khẳng định tính đúng
sai của tri thức. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiẽn không
đứng yên một chỗ mà biến đổi và phát triển không ngừng, ở một phương diện thực
tiễn nhất định, nó chỉ kiểm tra được sự đúng đắn của một nhận thức nhất định chứ
không kiểm tra được toàn bộ nhận thức đã có, nên tiêu chuẩn thực tiễn không cho
phép biễn những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng, mà
những tri thức này vẫn phải thường xuyên được kiểm nghiệm để tránh những cực
đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, hay chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí,
chủ nghĩa tương đối.
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận còn thể hiện ở chỗ chỉ thông qua thực tiễn,
lý luận mới được vật chất hóa, chỉ thông qua thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham
gia vào biến đổi hiện thực, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực
Tuy nhiên, việc coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp
vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này hạ thấp cái kia, và ngược lại. Không thể
dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên
thành lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng
thời lại thống nhất với nhau, chúng bổ sung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập
và chuyển hoá lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng không
đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Bởi vì trong nhận thức kinh nghiệm ngoài
hoạt động trực quan cảm tính, còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Do đó, có thể coi
kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính, nhưng khác nhau về đối
tượng, về trình độ, tính chất phán ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật tự
3
lịch sử. Vì vậy, không nên coi thường kinh nghiệm song cũng không nên cường điệu
kinh nghiệm, không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng lên trình độ lý luận. Lý
luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm, “Lý luận là sự tổng kết những
kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ
lại trong quá trình lịch sử” (Hồ Chí minh: Toàn tập). Lý luận mang tính trừu tượng và
khái quát cao hơn kinh nghiệm, nó thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn,
hệ thống hơn, nên phạm vi ứng dụng của lý luận mang tính phổ biến hơn, rộng hơn
nhiều lần so với tri thức kinh nghiệm.
Lý luận là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn, nó soi đường dẫn dắt, chỉ
đạo thực tiễn. Lý luận vạch ra các quy luật khách quan của hiện thực, từ đó mới có cơ
sở để định ra mục tiêu, phương hướng, phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực
tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mới làm cho hoạt động thực tiễn của con người trở nên
chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Như vậy, chính lý luận thông
qua hoạt động của con người để tác động trở lại với thực tiễn, góp phần làm biến đổi
thực tiễn. “Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” (Hồ Chí minh: Toàn
tập), khi lý luận đã xâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất vì
trong khi khát quát thực tiễn, lý luận đã vạch ra được sự liên hệ lẫn nhau giữa các
hiện tượng, các quy luật khách quan của sự phát triển, đồng thời nó còn thể hiện dự
báo, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn, làm cho hoạt
động của thực tiễn có hiệu quả hơn. “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể
có phong trào cách mạng” (Lênin: Toàn tập). Thống nhất với thực tiễn và trên cơ sở
đó sáng tạo và phát triển, đó là nguyên tắc rất cơ bản, đảm bảo sức sống cho lý luận,
đưa lại cho nó khả năng định hướng đôí với những mâu thuẫn cốt lõi của đời sống
sinh động. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì bản thân lý luận sẽ mất động lực phát
triển, rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ quan duy ý chí. Điều đó cũng có nghĩa là
phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận
thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Chúng ta luôn nhớ lời căn dặn của Bác Hồ:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà
không thực tiễn là lý luận suông”.
*Chúng ta coi trọng lý luận, nhưng không cường điệu vai trò lý luận, coi
thường thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa, phải quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt
động cách mạng.
Càng đi sâu vào các vấn đề thực tiễn của đất nước trong thời kỳ đổi mới càng
thấy lý luận lại gắn liền với chính sách, mô hình, mà chính sách, mô hình lại không
thể tách rời đường lối, thực chất là biểu hiện cụ thể của lý luận, đường lối. Những vấn
đề cụ thể đó lại đang là những đòi hỏi bức xúc của số đông cán bộ, đảng viên, công
chức đối với vấn đề lý luận. Không xông vào giải quyết những vấn đề đó thì mãi mãi
lý luận sẽ bị coi là lạc hậu, đi sau cuộc sống, không giải đáp được những vấn đề mắc
mứu mà xã hội trong thời kỳ đổi mới đặt ra, do đó không thể có vai trò tích cực
hướng dẫn hoạt động, không thể được đông đảo cán bộ, đảng viên quan tâm. Không
có lý luận đúng đắn, rõ ràng chỉ đường thì hành động dễ chệch choạc hoặc không
dám làm, sinh ra trì trệ, thậm chí có thể gây hiểu lầm, mất đoàn kết nội bộ.
4
Lý luận luôn luôn gắn liền với thực tiễn và chỉ đường cho hoạt động thực tiễn.
Nhưng đổi mới là sự nghiệp rất mới mẻ. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
không giống như ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, mà có điều
kiện, hoàn cảnh và đặc thù khác... Nên nghị quyết Đại hội VI đã chỉ rõ rằng: sự
nghiệp đổi mới của ta "không có tiền lệ", phải "vừa làm vừa rút kinh nghiệm". Nói
như thế không có nghĩa rằng sự nghiệp đổi mới của nước ta không có lý luận soi
đường. Nhưng chắc chắn sơ đồ, lộ trình vạch ra không thể một lúc đã rõ ràng, đầy đủ
được. Điều đó nói lên rằng, tổng kết thực tiễn nhất là thực tiễn thời kỳ đổi mới càng
có vị trí rất quan trọng đối với việc phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Trong các văn kiện Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX đều nhấn mạnh "tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận", và đều đặt tổng kết thực tiễn lên trên, từ tổng kết
thực tiễn đổi mới mà vận dụng sáng tạo, phát triển lý luận, từng bước hoàn chỉnh lý
luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới sai lầm
của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.*
II. Phê phán bệnh kinh nghiêm và bệnh giáo điều:
Việc vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thường dẫn đến
hai sai lầm cực đoan là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều chủ nghĩa.
Đây là hai “căn bệnh” mà cán bộ, đảng viên chúng ta ít nhiều đã mắc phải trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua và đã gây những tác hại nhất định. Vì vậy,
Đại hội VII của Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng phương pháp tư duy khoa
học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
Trong triết học, khái niệm “giáo điều” chỉ một nguyên lý hay một luận điểm
được tiếp nhận như là một chân lý hiển nhiên không thể phê phán, không cần chứng
minh mà chỉ dựa vào lòng tin mù quáng.
Chủ nghĩa giáo điều là phương pháp tư duy vận dụng những khái niệm,
những công thức bất biến, không chú ý đến những tài liệu mới của thực tiễn và
của khoa học, những điều kiện cụ thể của địa điểm và thời gian, tức là coi thường
nguyên lý về tính cụ thể của chân lý. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng tuyệt
đối hoá lý luận coi thường kinh nghiệm, khuyếch đại vai trò của lý luận để hạ thấp
vai trò của thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể, áp
dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn máy móc.
Sự xuất hiện chủ nghĩa giáo điều về mặt lịch sử gắn liền với sự phát triển của
những quan niệm tôn giáo, của những yêu cầu tin vào những tín điều của tôn giáo
được khẳng định với tính cách là chân lý bất di bất dịch, không thể phê phán và có
tính chất bắt buộc đối với tất cả các tín đồ. Trong triết học hiện đại, chủ nghĩa giáo
điều gắn liền với những quan niệm phản biện chứng, phủ nhận tư tưởng về tính biến
đổi và sự phát triển của thế giới, cũng như gắn liền với tình trạng không hiểu rõ bản
thân những quy luật biện chứng được thể hiện một cách khách nhau trong những điều
kiện lịch sử khác nhau, trong những sự vật và quá trình khác nhau.
5
Xét về mặt nhận thức và phương pháp luận, sai lầm của những người mắc bệnh
giáo điều là ở chỗ không hiểu được thực chất, tính biện chứng, năng động, phức tạp
của quá trình nhận thức, đặc biệt là mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Bệnh giáo
điều cản trở sự phát triển của lý luận và tư duy lý luận khoa học, từ đó làm trì truệ sự
phát triển của xã hội, hạ thấp vai trò của con người, hạn chế tính năng động của nhân
tố chủ quan trong cải tạo hiện thực. Hai khái niệm “bệnh giáo điều” và “chủ nghĩa
giáo điều” xét về bản chất, hai khái niệm này vẫn được sử dụng như nhau, song giữa
chúng có sự khác biệt: Nói về “Chủ nghĩa giáo điều” tức là nói tới một quan điểm lý
luận nhận thức tương đối hoàn chỉnh, có tính hệ thống, lôgích nhất quán nhằm tuyệt
đối hoá vai trò của lý luận hay luận điểm, quan niệm, học thuyết nào đó. Còn nói tới
khái niệm “Bệnh giáo điều” là chúng ta muốn nói tới một trạng thái, tính chất biểu
hiện đặc thù sai lầm trong quá trình tư duy của chủ thể, như tính máy móc, rập khuôn,
cứng nhắc, thiếu sáng tạo, mang lại hiệu quả tiêu cực trong hoạt động thực tiễn và
hoạt động lý luận.
- Những biểu hiện chủ yếu của bệnh giáo điều:
Biểu hiện đầu tiên của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở
câu chữ, ở những nguyên lý chung chung, trừu tượng mà không thâu tóm được thực
chất cách mạng và khoa học của nó, nặng nề những gì đã có trong sách vở mà không
đối chiếu với cuộc sống, không xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, từ thực
tiễn vận động để vận dụng lý luận. Tiếp thu những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội
khoa học một cách đơn giản, phiến diện mang tính chất cảm tính, áp dụng rập khuôn
mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ngoài. Nhất là khi đề ra những chủ trương chính
sách, thường nặng về sách vở, mà không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của
thực tiễn đất nước, xa rời thực tiễn sinh động.
Một biểu hiện khác của bệnh giáo điều là áp dụng một cách rập khuôn, máy
móc kinh nghiệm của nước này vào nước khác, địa phương này vào địa phương khác,
lĩnh vực này vào lĩnh vực khác… ở đây bệnh giáo điều thể hiện thành giáo điều kinh
nghiệm, đây là bệnh giáo điều chủ yếu ở nước ta, và là căn bệnh cũng do trình độ lý
luận, tư duy lý luận còn yếu kém, hiểu lý luận một cách chung chung, tách rời lý luận
với thực tiễn. Chính sự yếu kém về lý luận làm cho dễ tiếp thu lý luận một cách đơn
giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nơi đến chốn, và chính sự tiếp thu lý
luận từ trình độ tư duy kinh nghiệm dễ dẫn đến méo mó lý luận, dẫn đến cán bộ ta
thường phải dựa vào kinh nghiệm cũng như tư duy kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Song, ở những người giáo điều, việc tiếp thu kinh nghiệm
nhiều khi thiếu phân tích, chọn lọc và vận dụng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể.
Bệnh giáo điều tồn tại đồng thời và đan kết với bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh
kinh nghiệm. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta vừa qua, cán bộ ta
không những mắc bệnh giáo điều mà cả bệnh chủ quan duy ý chívà kinh nghiệm chủ
nghĩa, chúng đan kết quyện chặt thành một khối làm cho mõi mặt thêm trầm trọng.
Với Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, mang nặng dấu
ấn của nền kinh tế phong kiến. Do đó, bệnh giáo điều còn thể hiện ở tư tưởng gia
trưởng phong kiến, hay nói cách khác bệnh giáo điều ở nước ta mang đậm màu sắc
phong kiến.
6
- Những nguyên nhân chủ yếu của bệnh giáo điều:
Nguyên nhân đầu tiên là do hiểu lý luận một cách trừu tượng, do tách rời lý
luận với thực tiễn. Chính sự yếu kém về lý luận làm cho dễ tiếp thu lý luận một cách
gián đơn, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nới đến chốn. Chính sự tiếp thu lý
luận từ trình độ tư duy kinh nghiệm dễ dẫn đến làm méo mó lý luận. Sự yếu kém về
phương pháp tư duy khoa học bộc lộ rõ trên các khía cạnh như: tư duy nặng tính
chung chung, hời hợt, sơ lược, phiến diện và chủ quan, duy ý chí; yếu về khả năng
luận chứng, lập luận, tính phê phán, tính chiến đấu, tính hoài nghi khoa học; yếu kém
về tính logic cũng như khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát thực tiễn và khả năng
tư duy độc lập sáng tạo.
Nguyên nhân thứ hai là sự xa rời thực tiễn đất nước và thời đại trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh giáo điều. Vì
lẽ, xa rời thực tiễn sẽ không có cơ sở và khả năng vận dụng lý luận một cách đúng
đắn, cũng như phát triển sáng tạo lý luận. Mặt khác, do không bám sát sự vận động
của cuộc sống nên lý luận, chủ trương, chính sách không được kiểm tra và kịp thời
điều chỉnh, bổ sung, đổi mới cho phù hợp với hiện thực luôn vận động. Do vậy xa rời
thực tiễn sẽ không tránh khỏi giáo điều.
Nguyên nhân tiếp theo là do sự tác động tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp kéo dài cũng dẫn tới chủ nghĩa giáo điều. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
hành chính hoá là cơ chế đối lập với yêu cầu phát triển sáng tạo của sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Nó làm triệt tiêu tính năng động, tích cực sáng tạo của cán bộ,
làm nảy sinh tệ quan liêu, xa rời quần chúng do mọi vấn đề hầu như được tiến hành
theo “pháp lệnh” từ trên xuống dưới, bất chấp thực tiễn có chấp nhận hay không, coi
nhẹ hoạt động dân chủ, dần dần làm phát sinh tệ độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng,
coi thường kỷ cương pháp luật, coi thường quần chúng. Cơ chế bao cấp trong công
tác lý luận nói chung và trong nghiên cứu triết học nói riêng cũng là nguyên nhân
quan trọng gây ra tình trạng lý luận xa rời cuộc sống, ngăn cách lý luận với thực tiễn.
Thực chất của cách nghĩ không đúng đắn này có lẽ xuất phát từ nhận thức sai lệch
nguyên tắc thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học, nên đã dẫn tới phá vỡ sự
thống nhất lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu lý luận nói chung và triết học nói
riêng.
Bệnh kinh nghiệm:
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi
thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
Người mắc bệnh kinh nghiệm thường thoả mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại
học lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi
thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ. Nước ta vì điều kiện
sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ dân chí thấp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, tư
tưởng phong kiến còn ảnh hưởng nhiều trong nhân dân nên đó là những mảnh đất
thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh.
Như vậy, sự yếu kém về lý luận là một nguyên nhân trực tiếp và rất quan trọng
của bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về lý luận không chỉ dẫn đến bệnh
kinh nghiệm mà còn dẫn đến bệnh giáo điều. Bởi vì, chính sự yếu kém về lý luận làm
7
cho chúng ta dễ tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin một cách đơn giản, phiến diện,
cắt xén, sơ lược, không đến nơi đến chốn. Việc tiếp thu lý luận từ trình độ tư duy kinh
nghiệm dễ dẫn đến làm méo mó lý luận. Trước đây, khi nói về Đảng ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng Đảng ta còn có nhiều nhược điểm, mà một trong những nhược
điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém. Có thể nói, nhận định đó ngày nay vẫn
đúng. Vì vậy, nâng cao một cách căn bản trình độ lý luận, trình độ trí tuệ của Đảng,
là một phương hướng quan trọng và cấp bách để khắc phục cả bệnh kinh nghiệm và
cả bệnh giáo điều trong cán bộ ta.
Để khắc phục sự yếu kém về lý luận, trước hết, phải coi trọng lý luận và công
tác lý luận của Đảng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh,phải quán triệt nhiệm vụ và hướng nghiên cứu chủ yếu cũng như những phương
châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận đã được nêu ra trong nghị quyết của Bộ Chính Trị
về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay.
Phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp
tối đa khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn.Phải đổi mới việc nghiên cứu lý luận và
thực tiễn; từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện; thường xuyên đối chiếu lý luận với
cuộc sống, kết hợp lý luận với thực tiễn, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế cách
mạng nước ta một cách sáng tạo.
Coi trọng tổng kết thực tiễn là một phương pháp cơ bản trong hoạt động lý
luận.Đó cũng là phương pháp cơ bản để khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều, thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Qua tổng kết thực tiễn mà sửa
đổi, phát triển lý luận đã có, bổ sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý
luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự nghiệp đổi mới xã hội nước ta.
Phương hướng, biện pháp khắc phục và ngăn ngừa bệnh giáo điều, bệnh
kinh nghiệm:
a. Phải nâng cao trình độ tư duy lý luận khoa học cho đội ngũ cán bộ. Muốn
vậy cần giải quyết tốt một số vấn đề sau:
Giúp cho cán bộ Đảng viên thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng
như kinh nghiệm lịch sử đã được tích luỹ và từ chính tình hình thực tiễn của đất nước
để đổi mới công tác lý luận, nhằm góp phần điều chỉnh, bổ sung, phát triển những
quan điểm mới về CNXH và con đường đi lên CNXH, phù hợp với những biến đổi to
lớn về thực tiễn, nhằm từng bước xây dựng và hoàn chỉnh đường lối đổi mới toàn
diện, làm cho nước ta có bước phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Rèn luyện và phát triển tư duy biện chứng duy vật vì mỗi tri thức triết học là
những tri thức mang ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận. Do đó, nắm vững
các tri thức triết học trong tính hệ thống và nâng cao lên trình độ tư duy hệ thống
thống là một điều kiện để khắc phục tình trạng tách rời giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận liên quan đến vận mệnh của xã hội chủ nghĩa và vận mệnh lịch sử của
Đảng ta. Do vậy, chúng ta phải coi trọng vai trò của lý luận trong sự nghiệp đối mới ở
nước ta. Bởi, lý luận là cơ sở khoa học cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà
nước. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Mỗi cán bộ, Đảng viên phải thấm nhuần lý
8
luận trong công tác để tránh rơi vào tình trạng mò mẫm, tự phát. Lý luận phải dự báo
được tương lai, một nhu cầu không thể thiếu được của công cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Lý luận làm cơ sở cho công tác tư tưởng, cho việc đấu tranh tư tưởng, lý
luận phải góp phần xây dựng xây dựng niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta, giúp ta có định hướng tư tưởng đúng đắn.
Từ những căn cứ trên, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới công tác lý luận,
chống tư tưởng coi lý luận như một hệ thống khép kín, bất di bất dịch, vì sức sống
của lý luận chân chính nằm trong sự bổ sung thường xuyên cái mới, rút ra từ sự khái
quát thực tiễn đa dạng và phong phú. “Thực tiễn cao hơn lý luận” nên phải luôn xuất
phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn, thước đo sự đúng sai của lý luận, chứ
không phải ngược lại. Thực tiễn cũng chính là nguồn gốc sâu xa tiếp thêm sinh lực
dồi dào, phong phú cho hoạt động lý luận, điều chính nó theo phương hướng đúng,
đưa nó lên một tầm cao mới. Do đó phải thường xuyên đổi mới công tác lý luận, làm
cho nó thực sự sống động và thực sự định hướng cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
b. Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn*
Với Việt Nam, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, chúng ta
phải quán triệt một nguyên tắc hết sức quan trọng là nguyên tắc nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã rút ra
bào học kinh nghiệm bổ ích: “Xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy
luật khách quan”. Đây là một phương hướng cơ bản để khắc phục và ngăn ngừa bệnh
giáo điều có hiệu quả.
Con đường khắc phục bệnh giáo điều là phải thường xuyên đối chiếu lý luận
với cuộc sống, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và
thực tiễn. Phải coi trọng tổng kết thực tiễn, qua tổng kết thực tiễn mà sửa đổi, phát
triển lý luận đã có, bổ sung, hoàn chỉnh, hình thành lý luận mới để chỉ đạo thực tiễn.
c. Xây dựng từng bước nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Đây là một nhân tố cơ bản để khắc phục, ngăn ngừa bệnh giáo điêu, nhằm
tránh sự can thiệp một cách duy ý chí vào các quá trình kinh tế, văn hoá và khoa học
kỹ thuật. Vì nếu áp đặt ý muốn chủ quan, xa rời thực tế khách quan vào việc hoạch
định đường lối chính sách, vào hoạt động thực tiễn sẽ dẫn đến những biến dạng, “tha
hoá” trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng trầm
trọng kéo dài. Bởi vậy, từng bước xây dựng nền dân chủ thực sự xã hội chủ nghĩa,
khắc phục chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong việc hoạch định đường lối chính sách
và trong hoạt động thực tiễn luôn là vấn đề mang tính thời sự cấp bách.
KẾT LUẬN
Xuất phát từ quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát
triển. Đảng ta đã phân tích một cách khách quan, khoa học các sự kiện đã xảy ra, với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, thẳng thắn nhìn nhận những gì đã làm được, cũng
như những gì chưa làm được, tìm đúng nguyên nhân và hướng khắc phục, nhằm kiên
quyết tiến hành đổi mới đất nước, nhưng đổi mới có nguyên tắc để vừa không xa rời
định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa rút ra những kết luận mới bổ sung cho lý luận về
chủ nghĩa xã hội.
9
Ở nước ta, công cuộc đổi mới kinh tế-xã hội do Đảng ta khởi xướng đã thu
được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên, tính chất khó khăn và
phức tạp của sự nghiệp đổi mới cũng như chiều sâu và tầm cở của nó đang đặt ra rất
nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn, đòi hỏi phải được giải quyết. Cho nên, có thể
nói rằng, chưa bao giờ lý luận lại cần thiết và có tầm quan trọng lớn như hiện nay. Lý
luận trở thành thiết thân đối với sự nghiệp đổi mới nói riêng, đối với toàn bộ vận
mệnh của chủ nghĩa xã hội nói chung.
Đổi mới ở nước ta là một mệnh lệnh của cuộc sống, mang tầm vóc của cuộc cải
biến cách mạng, cần được tiến hành toàn diện đồng bộ và triệt để về kinh tế chính trị
và tư tưởng, về tổ chức bộ máy nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng, về tư duy lý luận.
Muốn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, Đảng ta cần phải tự đổi mới và
tự chỉnh đốn, trước hết phải nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng. Mọi
đường lối, chính sách được đưa ra phải phản ánh được quy luật khách quan và lợi ích
của quần chúng, phải được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn và có khả năng thực thi
trong thực tiễn, đồng thời chúng ta cũng khẳng định rằng: Để công cuộc đổi mới mà
chúng ta đang tiến hành thành công, chúng ta cần kiên quyết khắc phục bệnh
quan liêu, giáo điều, làm cho nó không còn là một căn bệnh trầm kha.
kÕt luËn
Lµ ngêi c¸n bé khoa häc kü thuËt, qua häc tËp nghiªn cøu
triÕt häc M¸c lªnin t«i thÊy ph¶i l¾m v÷ng b¶n chÊt c¸ch m¹ng vµ
khoa häc cña tõng nguyªn lý vµ vËn dông nã trªn quan ®iÓm thùc
tiÔn, lÞch sö cô thÓ vµ ph¸t triÓn. Tõ ®ã kh¾c phôc c¸ch xem xÐt
trõu tîng, chung chung, phi lÞch sö siªu h×nh. NghÜa lµ ph¶i xuÊt
ph¸t tõ kh¸ch quan, ®óng thùc tiÔn, sinh ®éng lµm c¬ së cho
nhËn thøc vµ vËn dông lý luËn còng nh nghiªn cøu khoa häc.
Lu«n v÷ng vµng vµ kiªn ®Þnh lËp trêng t tëng, x©y dùng cho
m×nh phÈm chÊt cña ngêi c¸n bé khoa häc kü thuËt ch©n chÝnh.
Nã lµ c¬ së ®Ó x©y dùng niÒm tin khoa häc, lu«n tÝch cùc häc tËp
nghiªn cøu, t×m tßi vµ s¸ng t¹o ®Ó t×m ra nh÷ng tri thøc míi.
TÝch cùc nghiªn cøu khoa häc ®Ó c¶i tiÕn Vò khÝ trang bÞ ®¶m
b¶o cho Qu©n ®éi lu«n s½n sµng chiÕn ®Êu, x©y dùng thµnh
c«ng CNXH ë ViÖt Nam./.
Tµi liÖu tham kh¶o:
1. Gi¸o tr×nh triÕt häc M¸c – Lªnin
Nhµ xuÊt b¶n chÝnh trÞ quèc gia – 1999
2. TriÕt häc M¸c – Lªnin
Nhµ xuÊt b¶n qu©n ®éi nh©n d©n – 1995
3. Gi¸o tr×nh triÕt häc (Dïng cho nghiªn cøu sinh vµ häc viªn
cao häc kh«ng thuéc chuyªn ngµnh triÕt häc)
Nhµ xuÊt b¶n ChÝnh trÞ Quèc gia - 1993
10
11
- Xem thêm -