Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Ngòi bút nghệ thuật đặc sắc qua truyện ngắn vợ chồng a phủ của tô hoài...

Tài liệu Ngòi bút nghệ thuật đặc sắc qua truyện ngắn vợ chồng a phủ của tô hoài

.DOCX
54
542
129

Mô tả:

NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ A. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM I. Tác giả Tô Hoài 1. Tiểu sử Tô Hoài, tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 7 tháng 9 năm 1920 ở quê ngoại tại làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam) trong một gia đình thợ thủ công, là một nhà văn người Việt. Tuy nhiên ông lớn lên ở quê nội là Thanh Oai, Hà Tây. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy trẻ,bán hàng, kế toán hiệu buôn,... và nhiều khi thất nghiệp. Đến với văn chương ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là với truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như : Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. 2. Sự nghiệp văn học Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tô Hoài đã sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi đầu sách) ở nhiều thể loại khác nhau như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. 1 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ Tác phẩm của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám :Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942), Giăng thề (1943), Nhà nghèo (1944), Xóm Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944). Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám : -Truyện ngắn : Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây Bắc (1953, Giải nhất tiểu thuyết năm 1956 của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác trước (1957), Vỡ tỉnh (1962), Người ven thành(1972). -Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm 1970 của Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự truyện (1978), Những ngõ phố, người đường phố(1980), Quê nhà (1981, Giải A năm 1980 của giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội), Nhớ Mai Châu (1988). - Kí: Đại đội Thắng Bình (1950), Thành phố Lênin (1961), Tôi thăm Cămphuchia (1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978), Hoa hồng vàng song cửa (1981). Cát bụi chân ai (1992). - Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999) -Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết văn (1997). Tô Hoài có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn phiêu lưu kí được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Nhìn chung, Tô Hoài là một nhà văn sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều thể loại và thể loại nào ông cũng đạt được những thành công đặc sắc. Đặc biệt là ở những tác phẩm viết về loài vật và miền núi Tây Bắc. Tô Hoài luôn có những cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sức hấp 2 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh thần của người đọc nhiều thế hệ. II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh ra đời Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi Tây Bắc được in trong tập Truyện Tây Bắc(1953). Truyện Tây Bắc gồm 3 truyện Cứu đất cứu mường, Mường giơn, Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm là kết quả của những đợt nhà văn thâm nhập thực tế cuộc sống của đồng bào dân tộc ít người vùng Tây Bắc, đánh dấu sự chín mùi về tư tưởng, tình cảm của nhà văn.Năm 1954, Tô Hoài theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Nhà văn đã kể về những ngày tháng ấy, “ cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhớ cho tôi nhiều quá…Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác”.( Một số kinh nghiệm viết văn của tôi). Truyện Vợ chồng A Phủ đã được ra đời trong hoàn cảnh ấy. Tác phẩm viết về đồng bào Mèo trong quá trình đấu tranh giành quyền sống tự do, hạnh phúc đã phải nếm trải bao đau thương, tủi nhục, cay đắng.Họ đấu tranh để được giải phóng khi gặp cách mạng.Sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong bối cảnh cuộc kháng chiến của dân tộc. - 2. Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật Nội dung Truyện Tây Bắc là một thành công của Tô Hoài trong việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến ở một địa bàn đặc biệt vùng cao phía Tây Bắc tổ quốc đặc biệt là những khám phá mới mẻ sâu sắc về số phận và tâm hồn người lao động 3 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ nghèo miền núi Tây Bắc trên hành trình đến với cách mạng. Truyện kể về quá trình tự vươn lên đổi đời và sự thức tỉnh cách mạng của hai thanh niên người Mèo: Mị và A Phủ, thoát khỏi kiếp đời nô lệ trong tay cha con thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài để tìm đến khu du kích mới ở Phiềng Xa trở thành những du kích dũng cảm chiến đấu giữ bản làng. - Nghệ thuật Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ, chất trữ tình thấm đựơm, ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình. Nghệ thuật kể chuyện: lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, giọng văn trầm lắng. Lối trần thuật ăn nhập vs nội dung , tư tưởng tác phẩm. Nghệ thuật miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật : + Nhà văn ít miêu tả hành động mà chủ yếu là khắc họa tâm tư, thế giới đời sống nội tâm nhân vật. + Giọng kể có lúc hòa nhập vào dòng tâm tư của nhân vật, vẻ lên đủ loại cung bậc tình cảm của nhân vật. Nghệ thuật tả cảnh và phong tục tập quán : cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu tính tạo hình. Cảnh miền núi TB hiện lên bởi cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán. Tác phẩm được giải nhất về truyện, kí (đồng hạng với Đất Nước đứng lên của Nguyên Ngọc) giải thưởng của hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955. B. NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ I. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc Khi nhắc đến nền văn học từ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, các thế hệ bạn đọc yêu văn học không ai 4 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ không biết đến tên tuổi của nhà văn Tô Hoài (1920 – 2014) - “một cây đại thụ” trong nền văn học Việt Nam với hàng loạt tác phẩm văn học nổi tiếng. Tô Hoài là một gương mặt khá tiêu biểu. Ông viết văn khá sớm. Tính đến thời điểm này, Tô Hoài đã có hai phần ba thế kỷ cầm bút. Chính vì vậy, trong sự nghiệp văn chương của mình, Tô Hoài đã có những đóng góp rất tích cực vào sự phát triển của văn xuôi Việt Nam. Các sáng tác của ông nhiều về số lượng tác phẩm, đa dạng về thể loại, phong phú về đề tài, nhất quán về tư tưởng với một phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Từ những năm 1940, ông đã có truyện ngắn đăng trên các báo thời bấy giờ. Nhiều tác phẩm của ông được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được nhiều thế hệ, nhiều đối tượng độc giả yêu mến, hâm mộ. Trong kỷ niệm tuổi thơ, các thế hệ bạn đọc không thể nào không nhớ, không bị lôi cuốn vào cuộc phiêu lưu của chú dế mèn. Những người lao động nghèo khổ, tầng lớp dưới đáy của xã hội và công chúng văn học có tinh thần nhân văn không thể nào không nhớ đến hàng loạt tác phẩm được in trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 như "O chuột", "Xóm Giếng ngày xưa", "Nhà nghèo”... Từng trải, am hiểu và thương yêu các dân tộc miền núi phía Bắc, Tô Hoài đã viết hàng loạt tác phẩm về những con người vùng ấy như "Núi cứu quốc", "Mường Giơn", "Cứu đất cứu mường", "Vợ chồng A Phủ", "Miền Tây". Đọc "Cát bụi chân ai", ta có thể thấy rằng Tô Hoài là một kho từ điển về Hà Nội trong thời Pháp thuộc, trong những năm tháng sục sôi cách mạnhg, trong những năm sau hòa bình lập lại (1954)... Xuất thân trong một gia đình lao động nghèo khổ, chất nhân văn đã trở thành một yếu tố tự nhiên trong văn chương Tô Hoài. Chính điều đó đã đưa ông sớm đến với Hội Văn hóa cứu quốc từ những ngày bí mật. Cách mạng tháng Tám, rồi kháng chiến chống thực dân Pháp, Tô Hoài lại ra đi. Và lần này, ông đi cùng bộ đội, đến với nhân dân các dân tộc ít người vùng cao Tây Bắc. Nếu như trước cách mạng 5 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ tháng Tám ta thấy Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm “Dế mèn phưu lưu kí” thì sau cách mạng tháng Tám và đi theo kháng chiến với nhãn quan cách mạng và tình yêu thương con người Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập Truyện Tây Bắc . Tập "Truyện Tây Bắc" gồm ba truyện: "Mường Giơn", "Cứu đất cứu mường" và "Vợ chồng A Phủ". Trong đó truyện ngắn được đánh giá xuất sắc hơn cả là truyện "Vợ chồng A Phủ". Vợ chồng A Phủ là tác phẩm in trong tập Truyện Tây Bắc, được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Vợ chồng A Phủ được sáng tác vào khoảng 1952-1953, là kết quả của cuộc thâm nhập đời sống vào các dân tộc Thái, Dao, H’mông, Mường trên các vùng cao Tây Bắc đất nước. Trước và sau khi sáng tác truyện này, Tô Hoài đã và vẫn giữ một tình cảm sâu nặng với đồng bào miền núi. Ông từng sống chung với họ, ông học một ít tiếng Thái, Hmông để giao tiếp, từng đo tay kết làm anh em với một số người, từng nhận một người con Hmông làm con nuôi, từng là bạn thân của nhiều cán bộ lãnh đạo người miền núi. Có thể nói Vợ chồng A Phủ cũng như các truyện khác trong Truyện Tây Bắc là kết tinh của vốn sống, vốn hiểu biết và nhất là tình yêu thương, lòng kính trọng của nhà văn đối với người dân miền núi Tây Bắc. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Vợ chồng A Phủ và cả tập Truyện Tây Bắc có một vị trí chắc chắn trong văn học đương đại Việt Nam. Nó mở rộng đề tài văn học sang những vùng núi hẻo lánh chưa được nhà văn đào xới. Nó nhìn nhận con người miền núi với một tình cảm trân trọng, yêu thương, gần gũi. Và chủ yếu là truyện ngắn đã xây dựng được những 6 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ hình tượng sống động làm người đọc nhớ mãi. Tác phẩm đã được nhà văn chuyển thể và dựng thành phim. Chủ đề của truyện Vợ chồng A Phủ, theo lời Tô Hoài phát biểu vào năm 1960 là: "Nông dân các dân tộc Tây Bắc bao năm gian khổ chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc biệt. Nhìn lướt qua nơi thế lực phong kiến còn đương kéo lùi đất nước lại hàng trăm năm trước", nhưng "các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Cán bộ của Đảng tới đâu thì các dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời... còn một phút sống vẫn còn chờ đợi, vẫn mong, vẫn tin một ngày bình yên, yên vui của tình yêu và của đất nước". Hơn 40 năm sau, khoảng năm 1994, Tô Hoài lại nhấn mạnh đến số phận đắng cay của người phụ nữ miền núi, ngoài việc lao động cực nhọc, còn bị mê tín, thần quyền cầm tù trong tinh thần. Nhưng tình yêu và tuổi trẻ đã chiến thắng tù ngục phong kiến và thần quyền. Cuộc kháng chiến của các dân tộc đã đưa họ lên con đường chiến đấu bảo vệ hạnh phúc của chính họ. Tác giả đặc biệt lưu ý tới vẻ đẹp của tuổi trẻ và tình yêu của họ, vẻ đẹp của tâm hồn Mị trong giờ khắc cắt dây cứu thoát cho A Phủ và cho chính mình. Có thể coi đó là những gợi ý để đi sâu phân tích nội dung và nghệ thuật tác phẩm. Là tác phẩm xuất sắc, Vợ chồng A Phủ đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình bậc Trung học phổ thông. Tác phẩm đã được nghiên cứu về nhiều mặt: về sức sống tiềm tàng của nhân vật, về nội dung bản cáo trạng và bản tình ca, về những nghịch lý, về nghệ thuật trong truyện... Có thể nói với Vợ chồng A PhủTô Hoài lại một lần nữa khẳng định được ngòi bút nghệ thuật đặc sắc của mình sau hàng loạt các tác phẩm ra đời trước đó. Vợ chồng A Phủ Tô Hoài đã kết hợp được sở trường mô tả thiên nhiên, phong tục tập quán với khả năng thể hiện đời sống nội tâm nhân vật với diễn biến tâm lí hết sức tinh tế và phức tạp, nghệ thuật trần thuật khéo léo; ngôn ngữ sinh động, câu văn 7 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ chọn lọc, giàu chất tạo hình...Tác phẩm sáng tạo được nhiều chi tiết đầy sức gợi cảm, đồng thời thể hiện ý nghĩa tư tưởng sâu sắc: tiếng sáo đêm tình mùa xuân đánh thức niềm khao khát được sống, được hưởng hạnh phúc của Mị, giọt nước mắt chảy từ hốc mắt của A Phủ bị trói đứng bên bếp lửa như tiếng gọi của tình giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị, lễ ăn thề kết nghĩa anh em giữa A Phủ với A Châu,...Đánh dấu một bước phát triển quan trọng của nhà văn về tư tưởng và nghệ thuật. Cốt truyện chính của Vợ chồng A Phủ xoay quanh nội dung: kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mị là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mị đã có người yêu . Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử -con trai thống lý Pá Tra- để xoá nợ. Vào một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ. Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ, câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Ngày Tết về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng, định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt. Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử tội và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ. Mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa . A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm- chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha. Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người đờ đẫn, vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh 8 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta. Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương . Như vậy, nhân vật chính trong Vợ chồng A Phủ là Mị và A Phủ- chàng trai và cô gái dân tộc H’Mông. Với ngòi bút nghệ thuật đặc sắc của mình tác giả đã vẽ lại cuộc đời của hai nhân vật này với những khắc họa sinh động có cá tính rõ nét, Cuộc đời ấy trải qua hai giai đoạn: Đoạn đời đầy bóng tối và đau khổ ở Hồng Ngài và đoạn đời lóe lên ánh sáng của sự sống ở Phiềng Sa. Hai nhân vật có số phận giống nhau nhưng tính cách khác nhau đã được tác giả thể hiện bằng những thủ pháp thích hợp. Nhà văn Bùi Hiển đã từng nói: “Truyện ngắn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời một con người mà dựng lên. Có khi nhân vật được đặt trước một vấn đề phải băn khoăn suy nghĩ, lựa chọn, quyết định. Có khi chỉ là một cảnh sống và việc làm bình thường, trong đó nhân vật biểu lộ ý chí, tình cảm của mình. Có khi là những hành động mãnh liệt. Có khi chỉ là một tâm trạng, một nỗi vui buồn, một ý tình chớm nở. Nhưng phải chọn khoảnh khắc mà nhân vật thể hiện đầy đủ nhất (trong khía cạnh cần thể hiện nhất)”. Đúng như vậy, để làm nên thành công nổi bật cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã rất công phu trong việc xây dựng chân dung nhân vật chân thực, sống động, ít nhiều có cá tính. Cách giới thiệu nhân vật gây chú ý, cách kể ngắn gọn mà gây được ấn tượng về lai lịch của nhân vật, việc dẫn dắt các tình tiết khéo léo làm mạch truyện liên tục biến đổi, hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp. Hơn thế nữa, ông còn đặc biệt thành công trong việc miêu tả tinh vi những diễn biến nội tâm của hai nhân vật – những bước vận động đầy mâu thuẫn trong tâm trạng con người. 9 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ Mị được miêu tả bằng rất ít hành động (lặp đi lặp lại những công việc lao động của người phụ nữ trong cuộc sống tù hãm ở nhà Pá Tra) và một số nét chân dung cũng được nhắc đi nhắc lại gây ấn tượng đậm (cúi mặt, mặt buồn, mặt buồn rười rượi, lùi lũi...). Đặc biệt, nhân vật này được thể hiện chủ yếu qua dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn. Giọng trần thuật của tác giả nhiều chỗ nhập vào dòng tâm tư của nhân vật. Đối lập với Mị, A Phủ lại là một tính cách gan góc, bộc trực, táo bạo thể hiện bằng nhiều hành động, công việc và vài lời đối thoại rất ngắn, giản đơn. Để hiểu rõ hơn về những thành công trong việc xây dựng nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả sau đây nhóm xin lần lượt trình bày về hai nhân vật chính trong truyện. ­ Nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị Mị là nhân vật chính, nhân vật trung tâm và cũng là nhân vật xuất hiện trước tiên trong tác phẩm. Mị là hiện thân cho tuổi trẻ miền núi bị vùi dập và đã vùng lên tự giải thoát cho mình. Mị là linh hồn của truyện Vợ chồng A Phủ. Đời Mị trong tác phẩm có thể chia làm bốn đoạn: Đoạn trước khi làm dâu, đoạn mới về làm dâu, đoạn làm dâu đã quen và đoạn cứu A Phủ rồi bỏ trốn cùng A Phủ. Ta có thể phân tích nhân vật Mị theo bốn chặng đường đời đó. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật này một cách rất ấn tượng và nghệ thuật: tác giả đã nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát cao:“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vợ chồng A Phủ mở đầu như thế , một sự mở đầu xứng đáng với giọng kể chuyện đẹp như ru . Thế giới Tây Bắc đã được mở ra xa xăm kì diệu, trên cả ý 10 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ nghĩa và nhạc điệu và lời văn . Một thế giới không phải cổ tích mà như thoảng hương ca dao cổ tích, một thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi cảm, qua một bức chân dung thiếu phụ buồn . Mị xuất hiện ngay trong mấy dòng đầu của truyện. Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác họa ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra “ nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Mị như gắn vào những cảnh vật ấy, tạo nên một cảnh sống riêng, cái mảng im lìm, tăm tối, cực nhọc cả kiếp sống đọa đầy, nó phơi bày ra bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lí, nhưng chính nó là một phần trong bức tranh trọn vẹn của nhà thống lí. Chân dung nhân vật được khắc họa bằng một nét đậm : “ lúc nào cũng vậy, dù quay sợi , thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cúng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Hình ảnh bất thường ấy khiến người đọc phải đặt câu hỏi: Cô gái ấy là ai? Cô ấy có phải con gái nhà thống lý hay không? Con của một nhà giàu có, sao lại ủ rũ, buồn bã như vậy? Đó là cách giới thiệu nhân vật khéo léo của Tô Hoài. Nó kích thích sự tò mò trong lòng người đọc. Từ đây, Tô Hoài đã tạo được một ấn tượng ban đầu đối với người đọc về dáng vẻ bề ngoài của cô Mị. Giống như “Chí Phèo” của Nam Cao, lúc này Tô Hoài mới ngược thời gian, kéo người đọc về với lai lịch của nhân vật chính. Hóa ra, Mỵ là vợ của A Sử, là con dâu gạt nợ của thống lý Pá Tra. Như vậy, chỉ trong mấy câu văn mở đầu, tác giả đã rất khéo trong việc giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác họa chân dung gây chú ý cho người đọc. Sau đó, tác giả mới kể lại chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra. Trước khi bị bắt làm dâu thống lý, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo, lao động giỏi và đặc biệt Mị có tài thổi sáo rất hay:“ Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. 11 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ Lúc ấy, Mị từng là niềm mơ ước của nhiều chàng trai :“Suốt đêm, con trai đến nhà người yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” . Rõ ràng, Tô Hoài không nói gì nhiều nhưng đã nói được rất nhiều điều về cả ngoại hình lẫn tính cách của Mị. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời có thể nói là bạc mệnh. Trong một đêm xuân, Mị đã bị băt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Nguyên nhân do đâu? Chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị: Bố mẹ Mị ngày trước lấy nhau, không có tiền cưới phải đến vay của bố thống lí Pá Tra. “Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng già rồi mà vẫn chưa trả được nợ. Người vợ chết cũng chưa trả hết nợ”. Mị mang món nợ ấy như một thứ “tội tổ tông” của người nghèo. Để cứu nạn cho cha, Mị đã chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí . Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị - một con người bằng lòng yêu tự do và ham sống mạnh mẽ - đã phản kháng quyết liệt. Hàng mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị quyết định tự tử. Ở đây, việc làm của Mị khiến ta liên tưởng tới Nàng Kiều của Nguyễn Du, khi bị dấn thân vào chốn lầu xanh, đã hơn một lần Kiều nghĩ đến việc quyên sinh nhưng vẫn khôngthoát khỏi kiếp đoạn trường mười lăm năm mà vẫn phải sống. Mị ở đây còn gặp tình cảnh éo le hơn: Nếu cô có chết thì món nợ vẫn còn, bố cô còn khổ hơn nữa! Thế là Mị lại không đành chết, Mị phải chịu đựng cuộc sống nô lệ. Phải là một nhà văn đồng cảm sâu sắc với nhân vật Tô Hoài mới có thể thấu hiểu được nỗi đau về tinh thần ấy của nhân vật. Những năm tháng sống trong nhà thống lí Pa Tra là một chuỗi dài những cực nhọc, vât vả nối tiếp nhau, là những sự bóc lột và hành hạ. Mị phải sống cuộc đời người nô lệ, người ở không công. Công việc nhà thống lý chồng chất quanh năm mà Mị phải làm tất cả công việc ấy: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, 12 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tươc thành sợi. bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.”. Mị tự so sánh mình không bằng con trâu, con ngựa trong nhà: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Đau đớn, khổ sở như vậy nhưng Mị luôn luôn chịu đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa...” Hay “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa...” Với cuộc đời làm dâu của Mị, Tô Hoài đã không quên diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất thân phận không khác gì tôi tớ trong nhà. Song nhà văn xem ra vẫn thông cảm nhiều hơn với nỗi đau khổ về tinh thần của nhân vật. Chính cảm xúc về nỗi đau tinh thần ấy đã giúp ông sáng tạo ra những ngôn từ, những hình ảnh khó quên: Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy: “mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” . Căn buồng Mị là một biểu tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Ngòi bút của Tô Hoài đã diễn tả thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Đó cũng chính là tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp lên quyền sống của con người và rõ ràng tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống. Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi 13 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống .Còn khi đã không thiết sống , nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi. Tất cả tình trạng đó là hậu quả của đầy đọa dai dẳng, nặng nề của ách thống trị phong kiến đối với những con người lao động bị đầy vào thân phận nô lệ. Ngòi bút của Tô Hoài đã có sức tố cáo mạnh mẽ. Mặt khác, chính sự đè nén phũ phàng tàn bạo này là cơ sở cho sự trỗi dậy ở phần sau của nhân vật càng có giá trị hơn. Như vậy, phải chăng sức sống của Mị đã vĩnh viễn mất đi? Cô Mị một thời trẻ đẹp, yêu đời nay đã hoàn toàn an phận trong cuộc sống nô lệ, sống mà như chết ấy? Không, ngòi bút của nhà văn không chỉ hướng vào cái ảm đạm, mặt đen tối của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng, để khơi dậy nó lên. Bằng sự quan sát tinh tế, ngòi bút phân tích tâm lí sâu sắc, Tô Hoài đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật, cho thấy ở Mị vẫn còn le lói chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, của khát khao hạnh phúc, Như dưới lớp tro tàn nguội lạnh kia vẫn ấp ủ chút than hồng, chỉ chờ một ngọn gió thổi đến là lại bùng lên. Trong truyện Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao còn khơi bùng lên những khát vọng hạnh phúc và lương thiện ở Chí Phèo – một kẻ tưởng như đã không còn đời sống tâm linh con người với một hình hài không phải là nhân dạng nữa! Thì ở dây Tô Hoài lại một lần nữa góp thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức mạnh. Cái khát vọng được trở lại là chính mình, cái khát vọng hạnh phúc đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu. Tác giả đã dõi theo từng bước diễn biến, phát triển đời sống tâm hồn nhân vật, đặt nhân vật thức tỉnh trong một hoàn cảnh khá là “điển hình” là mùa xuân về trên vùng cao. Một lần nữa có thể khẳng định trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy 14 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ thật sự phát sáng và thăng hoa lên tới đỉnh điểm trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và trong đêm Mị cứu A Phủ. Trong đêm tình mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Dầu còn trong nghèo khó, mùa xuân về cũng khơi gợi ở người dân miền núi một niềm vui sống. Người H’Mông ở Hồng Ngài ăn tết khi lúa ngô đã gặt xong. Cái tết năm ấy đến giữa lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân:“Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang màu tím man mát”. Và còn những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: tiếng trẻ con chơi quay, đặc biệt tiếng sáo tình...Ai đã đi qua Tây Bắc cũng khó mà quên được những miền núi cao với những đồi cỏ gianh vàng nhạt, những ngàn lau xam xám điểm vào cái trập trùng của núi đá xanh mờ, đi hàng buổi đường vẫn khao khát một bóng người... Cái Tây Bắc ấy khi mùa xuân đến bỗng trào lên sức sống. Đấy là rừng ban trắng ngút ngàn như lẫn vào trong mây núi, là những đốm lửa đốt trên nương, và nhất là những sắc màu sặc sỡ vui mắt của váy áo, của những tốp thanh niên H’Mông đi chơi xuân, dập dìu trong những tiếng sáo khèn...Chính cái sắc xuân ấy đã tác động tới tâm hồn Mị. Và chúng ta cũng hồi hộp theo dõi ngọn đèn của tác giả từng bước rọi sâu vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật. Tiếng sáo như dìu hồn Mị trở về thuở còn thanh xuân. Tiếng sáo sưởi ấm tâm hồn Mị. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa cơm rượu ngày tết bên bếp lửa... Trong không khí đón tết của mọi người:"Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát".Diễn tả cách uống rượu của Mị tác giả như báo hiệu một hành động nổi loạn chống lại thân phận mà chính Mị chưa ý thức rõ rệt:"Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng... nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước". 15 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ Cơn say đã giúp Mị quên đi tình cảnh hiện tại để sống với đêm tình ngày xưa. Thời gian ngày trước như hiện về. Mị đang sống với hai con người: con người thực tại, theo quán tính thì "đứng dậy", "từ từ bước vào buồng", "ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng"; con người tâm linh thì "đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước". Trong tâm tư Mị nhói lên một tình cảm thương xót mình: "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ", một tình cảm oán hờn: "Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau", rồi đột khởi, một tình cảm uất hận: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa". Thế là con người đích thực tâm linh trong Mị đã sống lại, hoà lẫn với con người thực tại, làm cho cô ở vào trạng thái mộng du, vừa sống trong không gian thực tại, vừa sống với thời gian quá khứ, chập chờn, bất định. Tất cả như giúp Mị ý thức lại. Mị cảm thấy mình trẻ lại. Mị cảm thấy sức sống, sự sống trỗi dậy ào ạt. Lòng Mị bỗng chốc phơi phới niềm yêu đời và khát vọng tình yêu tuổi trẻ. Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sục sôi mà bấy lâu tác giả chỉ để trong tâm trí của Mị thì bây giờ tác giả đã phá vỡ nó, biến nó thành hành động thực tế: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Có thể xem đấy là một hành động thức tỉnh. Nó có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn soi rọi chính lòng mình, để thoát khỏi những đêm dài tăm tối triền miên của quá khứ. Và hành động này thúc đẩy hành động khác, như một “phản ứng dây truyền” không thể ngăn lại được: Mị quấn lại tóc, với tay lấy váy áo hoa...chuẩn bị đi chơi tết. Tất cả những hành động đó của Mị dưới ngòi bút của Tô Hoài đã thực sự trở nên đặc sắc, mỗi hành động gợi một ra một tâm lí: hận, quên thực tại nghiệt ngã, chỉ còn sống trong nỗi nhớ của những mùa xuân xưa. Sự thức tỉnh cuả Mị giống như sự phục sinh trong tâm hồn. Bắt đầu từ tiềm thức tới ý thức và cuối cùng là hành động vùng thoát khỏi thực tại nghiệt ngã ấy. Đó là quá trình phát triển tâm lí của một con người khát sống, ý thức được thân phận. Tô Hoài đã rất tinh khi đặt nhân vật Mị trong cái đêm đáng nhớ ấy vào giữa một sự 16 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ tương giao, một sự tương tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng và một bên là cảm thức về thân phận. Nhưng giữa lúc lòng ham sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng nhất. Mị đã làm tất cả những việc đó như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi. Sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niềm khao khát sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu Mị như quên những vòng dây trói và những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, “ tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” ở ngoài kia, đến nỗi Mị “ vùng bước đi”. Nhưng rồi những vòng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về với thực tại. Thay thế cho những tiếng sáo gọi bạn chỉ còn “ tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng khuya, nghe tiếng chó sủa xa xa, cô lại quên ngay hiện tại, nín khóc và lại bồi hồi với cuộc sống trong mộng, lúc mơ, lúc tỉnh. Như vậy, thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở Mị. Đây có thể xem là đoạn văn thật đẹp và thơ mộng. Nó chẳng những khắc họa được cái sức sống mãnh liệt không gì dập tắt được của tuổi trẻ mà còn làm sống lại không khí văn hoá ngày hội đẹp đẽ, đắm say của người dân tộc đã chuyển thành đời sống tâm hồn của nhân vật. Đồng thời đoạn văn cũng thấm đượm một niềm xót thương vô hạn cho số phận người con dâu trừ nợ, và nâng niu những giấc mơ tình tứ đẹp đẽ của một con người. Ở đây, Tô hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh thật căng thẳng, làm bọc lộ những động lực tiềm ẩn sâu sa trong đời sống tâm hồn nhân vật, với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp quy luật. Ngòi bút của tác giả quả đã thâm nhập vào những biến hóa, đổi thay tinh vi của tình cảm nhân vật, biểu hiện một tấm lòng nhân đạo tha thiết, hiểu thấu những đường nét quanh co, bí ẩn của nó.Đấy là một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật rất sâu sắc và tinh tế, có thể nói tác giả đã đạt tới “phép biện chứng của tâm hồn nhân vật”. 17 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ Sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là đêm mùa đông Mị cởi trói cho A Phủ. Trong đoạn này, Tô Hoài đã rất tinh tế, sâu sắc trong việc miêu tả nội tâm, ngôn ngữ, hành động của Mị. Những đêm mùa đông trên núi rừng Tây Bắc dài và buồn làm cho tâm hồn Mị có những biến chuyển theo chiều hướng đi lên. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị đã gặp A Phủ bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng, thoạt đầu Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay:"dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị"sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi"nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng:"Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước 18 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ:“...cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Tô Hoài đã đặt Mị trong cấu trúc đối lập tương tác và chuyển hóa cho nhau, phân lập thế giới tinh thần của nhân vật thành những cặp đối cực tạo nên sự xung đột nội tâm, diễn biến tâm lí theo chiều hướng từ tiêu cực tới tích cực, quá trình từ vô cảm tới hữu cảm, từ tự thương mình, thương người rồi lại tự thương mình như những lớp sóng dồn đuổi đi về cực trong tâm trí Mị. Mị thông 19 NGÒI BÚT ĐẶC SẮC CỦA TÔ HOÀI TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Dưới ngòi bút của Tô Hoài một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến… Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Có thể nói Mị là một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam. Một trong những bí quyết của sự thành công này là nhà văn đã khắc họa quá trình tâm lí đầy biến hoá, ngẫu nhiên, bất ngờ, mà vẫn nằm trong vòng tình lí của sự sống. Nhân vật trở nên có hình khối, đa diện, đầy mâu thuẫn, khi thì mặt này nổi lên, khi thì mặt 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan