Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu tâm lý khách du lịch đức và giải pháp đức...

Tài liệu Nghiên cứu tâm lý khách du lịch đức và giải pháp đức

.DOC
27
4789
141

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện tượng quan trọng của đời sống hiện đại. Số lượng người đi du lịch ngày càng tăng. Điều này thể hiện ở số liệu của Tổ chức du lịch thế giới, hàng năm có khoảng 3 tỉ người đi du lịch. Dòng người du lịch đông đảo đã có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của nhiều nước và góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Ngày nay ngành công nghiệp du lịch đã và đang được coi là “con gà đẻ trứng vàng”, là “ngành công nghiệp không ống khói” hay là ngòi nổ để phát triển kinh tế. Đây là sự khẳng định chung của các nhà kinh tế trên toàn cầu đối với sự đóng góp đáng kể của ngành kinh doanh du lịch trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với nước ta du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế chung của cả nước đem lại hiệu quả kinh tế rất cao và càng ngày càng tăng, thể hiện năm 2012, đóng góp của ngành du lịch vào ngân sách Nhà nước là 16.000 tỉ đồng cao gấp gần 20 lần so với năm 1997, chiếm 5,3% tổng GDP của cả nước. Hơn thế nữa du lịch đã trở thành ngành đem lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng. Giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động và làm thay đổi bộ mặt xã hội. Trong kinh doanh du lịch yếu tố quan trọng đó là nguồn khách. Đó là nhân tố mang tính sống còn của hoạt động kinh doanh du lịch. Không có khách thì hoạt động du lịch trở nên vô nghĩa. Trong đó, Đức là một trong những thị trường gửi khách quan trọng nhất trên thế giới, được đánh giá là một trong những dân tộc đi du lịch nhiều nhất trên thế giới, là khách du lịch châu Âu chi tiêu cao nhất khi đi du lịch. Với thời gian nghỉ phép hằng năm khoảng 30 ngày, du khách Đức đang trở thành đối tượng khách quan trọng của ngành du lịch châu Á. Trước kia, Mỹ và vùng biển Carribe là nơi du khách Đức thường đến nghỉ mát. Nhưng hiện nay họ đang chuyển hướng sang châu Á. Theo các nhà điều hành du lịch thì nguyên nhân là do châu Á đã duy trì được sự ổn định về kinh tế, chính trị và cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể. Trong các nước châu Á, Thái Lan, Việt Nam là một trong những điểm hấp dẫn du khách Đức. Vì thế, các công ty du lịch nói riêng và ngành du lịch Việt Nam nói chung cần tìm hiểu về nguồn khách này để thu hút và đem lại nguồn lợi cho đất nước, đặc biệt là tâm lý khách Đức và xu hướng tiêu dùng du lịch của họ. Phần 1 Cơ sở lý thuyết chung. I. Hoạt động du lịch. 1.1 Khái niệm du lịch Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một nhu cầu, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch được xác định là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Không chỉ được coi như 1 ngành kinh tế mà ngành du lịch còn giúp quảng bá đất nước, con người, văn hoá đến với toàn bộ thế giới. Tất cả chúng ta đều biết ngành du lịch là ngành kinh tế không khói, mà mang lại nguồn lợi nhuận lớn.Phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của người dân và khách du quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, tạo việc làm, giáo dục lòng yêu nước, tình đoàn kết và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đã có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc thuật ngữ du lịch, nhìn chung chưa có một sự thống nhất nào, song điều cơ bản của thuật ngữ này đều bắt nguồn từ gốc là cuộc hành trình đi một vòng, từ một nơi này đến nơi khác và có quay trở lại. Phụ thuộc vào hoàn cảnh và góc độ nghiên cứu mà mỗi người có cách hiểu về du lịch khác nhau. Đúng như Giáo sư-Tiến sĩ Berkener-một chuyên gia du lịch nhận định: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. Theo thời gian thì các quan niệm dần hoàn thiện hơn. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization), du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư. Trong tiếng Việt, thuật ngữ này được giải nghĩa theo tiếng Hán-Việt: Du có nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là sự từng trải. Theo Luật Du lịch Việt Nam (ban hành năm 2005) tại điều 4, chương I định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. 1.2 Các loại hình du lịch. Hoạt động du lịch diễn ra rất phong phú và đa dạng nên tuỳ thuộc vào cách phân chia mà có các loại hình du lịch khác nhau. Mỗi loại hình du lịch đều có những tác động nhất định lên môi trường. 1.2.1 Phân loại theo mục đích chuyến đi. a. Mục đích thuần tuý du lịch. Trong các chuyến đi du lịch, mục đích của du khách là nghỉ ngơi, giải trí và nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh nên có thể bao gồm những loại hình sau:  Du lịch tham quan Tham quan là một hoạt động của con người để nâng cao nhận thức về mọi mặt. Tuỳ thuộc vào đối tượng tham quan mà có các loại hình:  Du lịch văn hoá: là loại hình du lịch nhằm nâng cao hiểu biết cho du khách về lịch sử, kiến trúc, kinh tế - xã hội, lối sống và phong tục tập quán ở nơi họ đến viếng thăm. Địa điểm đến tham quan là các viện bảo tàng, các di tích lịch sử văn hoá, các địa điểm tổ chức, các lễ hội địa phương, các liên hoan nghệ thuật (liên hoan phim, âm nhạc ...), các cơ sở sản xuất hàng thủ  công mỹ nghệ … . Đây là một trong những thế mạnh du lịch của miền Trung nước ta. Du lịch sinh thái: là loại hình du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu về với thiên nhiên của khách du lịch. Địa điểm để tổ chức du lịch sinh thái là những nơi thiên nhiên được bảo vệ tốt, chưa bị ô nhiễm như các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên ... Loại hình du lịch này khác với du lịch văn hoá ở chỗ nó nhấn mạnh đến sự hấp dẫn của thiên nhiên hơn là những đối tượng do con người tạo ra.  Du lịch giải trí Du lịch giải trí là loại hình du lịch nảy sinh do nhu cầu thư giãn, xả hơi để phục hồi sức khoẻ (thể chất, tinh thần) sau những ngày làm việc căng thẳng, mệt nhọc. Với đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu vui chơi, giải trí càng đa dạng và không thể thiếu được trong các chuyến đi. Do vậy, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi, cần có các chương trình, các địa điểm vui chơi, giải trí cho du khách như:  Các công viên vui chơi giải trí: Đây là khu vực đòi hỏi có vốn đầu tư lớn nhưng khả năng thu hồi vốn nhanh và thu lợi nhuận cao. Thành công trong lĩnh vực này phải kể đến những công viên giải trí Disneyland ở Mỹ, Nhật, Pháp; “thế giới thu nhỏ” ở Trung Quốc ... Ở Việt Nam, tuy các khu vui chơi giải trí chưa nhiều và chưa hiện đại nhưng cũng đã thu hút khá đông du  khách, đặc biệt là vào dịp lễ, tết như khu du lịch Đầm Sen, Suối Tiên ... Các Casino: Khách du lịch đến các Casino để tham gia vào các trò chơi may rủi với tiền bạc như đánh bài, các trò chơi trên máy tự động ... Nổi tiếng trên thế giới như các Casino ở Nevada và Atlantic (Mỹ), Macao ... Ở Việt Nam cũng đã có Casino ở Đồ Sơn (Hải Phòng), Đà Nẵng...  Du lịch thể thao không chuyên Là loại hình du lịch nhằm đáp ứng lòng ham mê thể thao của mọi người. Khách du lịch tự mình chơi một môn thể thao nào đó, không phải tham gia thi đấu chính thức mà chỉ đơn giản là để giải trí. Các hoạt động thể thao được ưa thích như săn bắn, câu cá, chơi golf, bơi thuyền, lướt ván, trượt tuyết ... Để tổ chức loại hình du lịch này cần có các điều kiện tự nhiên thích hợp với các cơ sở vật chất, thiết bị phù hợp với từng loại hình thể thao. Bên cạnh đó, nhân viên cũng cần được huấn luyện để có thể hướng dẫn và giúp đỡ cho du khách chơi đúng quy cách.  Du lịch khám phá Du lịch khám phá là loại hình du lịch nhằm mục đích nâng cao nhưng hiểu biết mới lạ về thế giới xung quanh. Tuỳ thuộc vào mức độ, tính chất của chuyến du lịch có thể chia thành hai loại hình:  Du lịch tìm hiểu: Mục đích của chuyến đi là tìm hiểu về thiên nhiên, môi trường, phong tục tập quán, lịch sử...  Du lịch mạo hiểm: Qua những chuyến du lịch mạo hiểm, du khách có thể tự thể hiện mình, tự rèn luyện và tự khám sức mạnh, ý chí, nghị lực của bản thân mình, đặc biệt là ở giới trẻ. Địa điểm đến thường là những nơi chưa hoặc ít in dấu chân người như: những con suối chảy xiết, những ngọn núi cao chót vót (Himalaya, Phanxipan...), những vùng núi lửa nóng bỏng, những khu rừng rậm rạp, âm u (Amazon), những hang động bí hiểm ... Để tổ chức loại hình du lịch này cần có các trang thiết bị chuyên dụng và đội ngũ phục vụ hết sức cơ động, có thể hỗ trợ đắc lực cho các chuyến đi của du khách.  Du lịch nghỉ dưỡng Một trong những chức năng quan trọng của du lịch là khôi phục sức khoẻ (thể lực, trí lực) của con người sau những ngày lao động căng thẳng nên đây là một loại hình du lịch được du khách ưa chuộng. Khi nền kinh tế càng phát triển, con người càng chịu nhiều sức ép của công việc, của môi trường ô nhiễm hay của các quan hệ xã hội thì nhu cầu được đi nghỉ càng lớn. Địa điểm đến nghỉ ngơi thường là những nơi có khí hậu mát mẻ, trong lành, phong cảnh đẹp như các bãi biển, các vùng núi, vùng nông thôn hoặc vùng ven sông, hồ, thác ... b. Mục đích du lịch kết hợp. Những người thực hiện các chuyến đi do nhu cầu công tác, học tập, hội nghị, tín ngưỡng ..., trong đó có sử dụng các dịch vụ du lịch như lưu trú, ăn uống tại khách sạn … đã tranh thủ thời gian rỗi có được để tham quan, nghỉ ngơi và nâng cao nhận thức về thiên nhiên, đời sống, văn hoá nơi họ đến. Như vậy, họ đã thực hiện một hoạt động du lịch kết hợp trong chuyến đi của mình.  Du lịch tôn giáo. Là các chuyến đi nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của con người theo các tôn giáo khác nhau như truyền giáo của tu sĩ, thực hiện các nghi lễ tôn giáo tại các giáo đường, dự các lễ hội tôn giáo hay tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo. Vì vậy, nơi tổ chức loại hình du lịch này là các địa bàn liên quan đến hoạt động tôn giáo hoặc lịch sử tôn giáo như các chùa, thánh địa, khu giáo dân. Các trung tâm nổi tiếng của du lịch tôn giáo là Thánh địa Vatican, Gieruxalem. Ở Việt Nam có Toà thánh Tây Ninh, nhà thờ Phát Diệm, Thánh địa Lavang, Huế - thủ đô Phật giáo Việt Nam.  Du lịch học tập, nghiên cứu Loại hình du lịch này ngày càng phổ biến do nhu cầu kết hợp lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Vì vậy, những ngành học như địa lý, địa chất, lịch sử, khảo cổ, môi trường, sinh học... đều tổ chức cho sinh viên đi nghiên cứu, tìm hiểu thực tế. Địa điểm đến phải là những nơi có các đối tượng phù hợp với nội dung học tập như vườn quốc gia, phòng thí nghiệm ngoài trời... Thông thường, với loại hình du lịch này thì hướng dẫn viên sẽ là các cô, thầy giáo phụ trách chuyên môn ở các trường. Du lịch học tập, nghiên cứu không đòi hỏi cao về các dịch vụ ngay tại địa bàn nghiên cứu, học tập.  Du lịch thể thao kết hợp Khác với du lịch thể thao thuần tuý, các chuyến đi của các vận động viên chuyên nghiệp có mục đích chính là tập luyện hoặc tham dự vào các cuộc thi tài, olimpic thể thao. Vì vậy, hoạt động thể thao của các vận động viên, huấn luyện viên được coi như một nghề, một việc làm chứ không phải là một hoạt động thư giãn, nghỉ ngơi. Ngoài thời gian tập luyện, thi đấu, họ cũng tham gia tìm hiểu về tự nhiên và đời sống văn hoá xã hội ở những nơi mà họ đến nên các chuyến đi của họ được xem là đã thực hiện một chuyến du lịch thể thao kết hợp.  Du lịch công vụ (kinh doanh, hội nghị) Khách du lịch thường là những người đi dự hội nghị, hội thảo, hội chợ, kỷ niệm những ngày lễ lớn, những cuộc gặp gỡ tìm cơ hội kinh doanh... Vì vậy, mục đích chính trong các chuyến đi là thực hiện một nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Ở loại hình du lịch này, khách du lịch thường là những người đại diện cho một giai cấp, một đảng phải, một tổ chức, một cơ quan nên có khả năng chi trả rất lớn. Vì vậy, cần đảm bảo đầy đủ các phương tiện, các dịch vụ với chất lượng cao để lưu khách. Mặt khác, địa điểm tổ chức còn phải thoả mãn các yêu cầu cao cả về tình hình an ninh chính trị, điều kiện khí hậu mát mẻ, phong cảnh đẹp.  Du lịch chữa bệnh Mục đích chính của chuyến đi là để phòng ngừa hoặc chữa trị một căn bệnh nào đó về thể xác hoặc tinh thần. Do vậy, địa điểm đến thường là các khu an dưỡng, chữa bệnh, nhà nghỉ, nơi có nguồn nước khoáng, thảo mộc hoặc bùn cát có giá trị chữa bệnh, khí hậu trong lành, khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Du khách thường là những người mắc các bệnh thấp khớp, bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hoá, hen hoặc viêm khí quản... Đặc điểm của loại hình du lịch này là ít có tính thời vụ và thời gian lưu trú của du khách dài nên đòi hỏi phải có cơ sở phục vụ tốt.  Du lịch thăm thân nhân. Đây là loại hình kết hợp du lịch trong chuyến đi vì mục đích thăm hỏi bà con, họ hàng, bạn bè, dự cưới, để tang... giữa các vùng, miền, các nước. Du lịch thăm thân nhân có ý nghĩa quan trọng đối với những nước có nhiều kiều bào sống ở nước ngoài như Việt Nam. Phân loại theo lãnh thổ hoạt động.  Du lịch trong nước. Du lịch trong nước là tất cả các hoạt động tổ chức phục vụ cho du khách ở trong nước đi nghỉ ngơi, 1.2.2 tham quan các đối tượng du lịch trong phạm vi của đất nước mình, chi phí bằng tiền trong nước.  Du lịch quốc tế. Là loại hình du lịch mà trong quá trình thực hiện nó có sự giao tiếp với người nước ngoài, một trong hai phía hoặc là du khách hoặc là nhà cung ứng du lịch, phải sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp. Về mặt không gian địa lý, du khách phải đi ra khỏi đất nước của mình. Về mặt kinh tế phải có sự thanh toán bằng ngoại tệ. Du lịch quốc tế có hai loại:  Du lịch chủ động (Du lịch đón khách): là loại hình du lịch quốc tế phục vụ, đón tiếp khách nước ngoài đến du lịch đến nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch ở đất nước của cơ quan cung ứng du lịch, nghĩa là nước này chủ động đón khách và thu nhập ngoại tệ (quốc gia  xuất khẩu du lịch). Du lịch bị động (Du lịch gửi khách): là loại hình du lịch quốc tế phục vụ và tổ chức đưa khách từ trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch ở nước ngoài, nghĩa là nước này gửi khách đi du lịch sang nước khác và phải mất một khoản ngoại tệ (quốc gia nhập khẩu du lịch). 1.2.3 Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch  Du lịch biển Du lịch biển là loại hình du lịch gắn liền với biển, thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động tắm biển, thể thao biển (bóng chuyền bãi biển, lướt ván...). Loại hình du lịch này có tính mùa rất rõ nên nó thường được tổ chức vào mùa nóng với nhiệt độ nước biển và không khí trên 20 độ C. Nếu bờ biển ít dốc, môi trường sạch đẹp thì khả năng thu hút du khách càng lớn.  Du lịch núi Đây là loại hình du lịch có thể phát triển quanh năm, thuận lợi để tổ chức nghỉ mát vào mùa hè ở các nước xứ nóng và nghỉ đông ở các các nước xứ lạnh với các hoạt động thể thao mùa đông (trượt tuyết, trượt băng).  Du lịch đô thị Điểm đến du lịch là các thành phố, các trung tâm đô thị có các công trình kiến trúc lớn, các khu thương mại, các đầu mối giao thông, các công viên giải trí... Du khách không chỉ là người sống ở nông thôn mà cả ở các thành phố khác cũng đến để chiêm ngưỡng, mua sắm.  Du lịch thôn quê. Thôn quê là nơi có môi trường trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng trái ngược hẳn với các đô thị. Vì vậy, sự hấp dẫn của nó đối với người dân ở đô thị, nhất là các đô thị lớn ngày càng tăng. Về với thôn quê, du khách sẽ cảm nhận được những tình cảm chân thành, mến khách, được thư giãn, được tìm thấy cội nguồn của mình, được thưởng thức các món ăn dân dã đầy hương vị. 1.2.4 Phân loại theo thời gian của cuộc hành trình.  Du lịch ngắn ngày. Du lịch ngắn ngày là loại hình thường kéo dài 1 - 3 ngày (dưới một tuần) tập trung vào những ngày cuối tuần, phát triển nhiều nhất ở Mỹ, Anh, Pháp... hoặc xen kẽ giữa các ngày làm việc, họ đi đến nơi ở gần chỗ cư trú của khách.  Du lịch dài ngày. Loại hình du lịch dài ngày thường gắn liền với các kỳ nghỉ phép hoặc nghỉ đông, nghỉ hè và kéo dài vài tuần đến một năm tới những nơi cách xa nơi ở của khách, kể cả trong nước và ngoài nước. Du lịch dài ngày thường là các chuyến đi thám hiểm của các nhà nghiên cứu, các chuyến đi nghỉ dưỡng, chữa bệnh tại các khu điều dưỡng, các chuyến du lịch bằng thuyền như Câu lạc bộ Địa Trung Hải. Nhìn chung, du lịch ngắn ngày chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với du lịch dài ngày bởi vì du khách ngày càng muốn nghỉ ngơi nhiều lần trong năm hơn là nghỉ một lần. 1.2.5 Phân loại theo việc sử dụng các phương tiện giao thông  Du lịch xe đạp. Đây không phải là loại hình du lịch của các nước nghèo mà phát triển ở những nước có địa hình bằng phẳng như Áo, Hà Lan, Đan Mạch... Du lịch xe đạp thường được tổ chức từ 1 đến 3 ngày vào cuối tuần sau những ngày làm việc căng thẳng hoặc tổ chức trong tuần, sau giờ làm việc đến những điểm du lịch gần nơi họ ở. Tiện lợi của du lịch xe đạp là du khách có thể thâm nhập dễ dàng với đời sống của cư dân bản xứ và có thể đi đến những khu vực đường sá chưa phát triển. Đây cũng là một hình thức kết hợp với du lịch với thể thao.Ở Việt Nam, trong vài năm trở lại đây, đã có một số người tự tổ chức các chuyến đi du lịch trong nước bằng xe đạp nhưng chưa thấy một nhà cung ứng du lịch nào tổ chức loại hình này cho du khách.  Du lịch ô tô. Do ô tô là phương tiện thông dụng và chiếm ưu thế so với các phương tiện khác nên loại hình này rất phổ biến, chiếm tỷ trọng cao nhất trong luồng khách du lịch (80% ở châu Âu và khách thường sử dụng ô tô riêng). Đặc điểm cơ bản của loại hình này là giá rẻ, tiếp cận dễ dàng với các điểm du lịch. Giá ô tô không cao nên nhiều nhà cung ứng có thể trang bị được và phục vụ cho du khách.  Du lịch máy bay. Du lịch máy bay là một trong những loại hình tiên tiến nhất, đáp ứng nhu cầu của khách đến những nước, những vùng xa xôi. Ngày nay trên thế giới đã sử dụng nhiều loại máy bay hiện đại, có tốc độ lớn, có thể đi xa mà tốn ít thời gian, có trang bị tiện nghi đầy đủ, phù hợp với sở thích của khách du lịch. Ví dụ như các chuyến bay quốc tế, nhất là những chuyến bay liên lục địa vì nhu cầu tiện nghi và tiết kiệm thời gian. Nhược điểm: giá thành vận chuyển cao, không phù hợp với tầng lớp có thu nhập thấp; đôi khi gặp những rủi ro có thể xảy ra tai nạn khi trời nhiều mây, có bão...Tuy nhiên, số khách du lịch bằng máy bay vẫn tăng lên không ngừng.  Du lịch tàu hoả. Sự phát minh ra đầu máy hơi nước vào đầu thế kỷ XIX đã đánh dấu bước bứt phá mạnh mẽ đầu tiên trong việc đi lại. Xã hội đã dần coi tàu hoả hơi nước là một phương tiện đi lại được ưa chuộng do giá cả bình dân hơn, trang thiết bị trên tàu hiện đại hơn làm cho du khách cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Ưu điểm cơ bản của loại hình này là chi phí cho vận chuyển thấp, mặt khác hành trình bằng tàu hoả không làm hao tổn sức khoẻ của du khách, tiết kiệm thời gian đi lại vì có thể thực hiện hành trình vào ban đêm.Tuy nhiên so với ô tô, tính cơ động của loại hình này thấp vì phải đi theo lộ trình định sẵn, tuyến đường thường không tiếp cận đến điểm du lịch nên phải kết hợp với các phương tiện khác để trung chuyển khách.  Du lịch tàu thủy Loại hình này đang là mốt thời thượng ở các nước giàu có. Ưu điểm: Du khách có thể sống thoải mái dài ngày trên thuyền, luôn được hưởng một bầu không khí trong lành và được tham quan nhiều địa điểm trong một chuyến đi. Nhược điểm: Chi phí cho chuyến du lịch cao; những người có thần kinh yếu thường không chịu được do bị say sóng, nhất là khi đi qua các vùng biển động. 1.2.6 Phân loại theo hình thức tổ chức  Du lịch có tổ chức theo đoàn Là loại hình du lịch có sự chuẩn bị chương trình từ trước hay thông qua các tổ chức du lịch. Mỗi thành viên trong đoàn biết được kế hoạch đi du lịch của mình. Thường là sinh viên, học sinh đi học theo lớp, cán bộ công nhân viên đi theo cơ quan. Loại hình này thường tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cung ứng du lịch vì du khách thường có tính tổ chức cao. Mặt khác, khi trình độ du khách đồng đều, việc phục vụ cũng trở nên dễ dàng theo một mẫu chuẩn. Trong toàn bộ quá trình bán sản phẩm, từ khâu tiếp thị đến khâu phục vụ ăn nghỉ, hướng dẫn, thanh lý hợp đồng, nhà cung ứng đều nhận được sự giúp đỡ rất có hiệu quả về tổ chức của đại diện tập thể khách. Do vậy, hầu hết du khách đi theo loại hình này đều được giảm giá.  Du lịch cá nhân Cá nhân tự định ra chuyến đi, kế hoạch lưu trú, địa điểm ăn uống tuỳ nghi. Loại hình này phát triển với tốc độ nhanh và chiếm ưu thế, phải trả cao hơn 15 - 20% giá hợp đồng tập thể. Trong những năm gần đây, một số công ty đã mở ra một phương thức mới để yểm trợ và thu hút loại du khách đi riêng lẻ này. Đó là các chương trình du lịch mở (Open Tours): Du khách tham gia vào chương trình này có thể dừng lại dọc đường theo nhu cầu và tiếp tục hành trình vào một thời điểm khác.  Du lịch gia đình Thông thường có hai loại du lịch gia đình: Loại thứ nhất xảy ra thường ở các khu vực phụ cận đô thị, thời gian chuyến đi không dài, thậm chí chỉ 1 - 2 ngày. Loại thứ hai là các chuyến đi du lịch dài ngày, họ thường chọn địa điểm ở xa, nổi tiếng và để tiết kiệm thời gian trong chuyến đi thì họ thường muốn được đi nhiều điểm. Hiện nay loại hình này mới chỉ là một hiện tượng xã hội chứ chưa có ý nghĩa kinh tế nhiều. Việc tiếp cận và thu hút du khách để kinh doanh loại hình du lịch này đang là hướng cần quan tâm vì du lịch gia đình cũng là một xu hướng nhiều triển vọng. Ngoài ra người ta còn có các cách phân chia khác về các loại hình du lịch. Ví dụ như phân theo lứa tuổi (du lịch thiếu nhi/học sinh, du lịch thanh niên, du lịch người lớn trên 35 tuổi và người già), theo vị trí địa lý (du lịch miền núi, miền biển, thành phố, nông thôn), theo phương thức hợp đồng (du lịch trọn gói, du lịch từng phần) ... Thông thường các loại hình du lịch được thực hiện kết hợp với nhau trong một chuyến đi của du khách. Ví dụ: du lịch leo núi, dài ngày, có tổ chức ... II. KHÁCH DU LỊCH. 2.1 Khái niệm khách du lịch Cũng giống như khái niệm du lịch, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khách du lịch. Theo một số nhà nghiên cứu, định nghĩa đầu tiên về khách du lịch xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII tại Pháp: “Khách du lịch là những người thực hiện một cuộc hành trình lớn”. Vào đầu thế kỷ XX, nhà kinh tế học người Áo, Josef Stander định nghĩa: “Khách du lịch là những hành khách đi lại, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục đích kinh tế”. Theo Khadginicolow (Bungari) “Khách du lịch là người hành trình tự nguyện, với mục đích hòa bình. Trong cuộc hành trình của mình, họ đi qua những chặng đường khác nhau và thay đổi một hoặc nhiều nơi cư trú của mình”. Các quan niệm trên về khách du lịch về cơ bản còn phiến diện và chưa phản ánh đầy đủ nội hàm của khái niệm, mới chỉ dừng lại ở việc phân tích động cơ du lịch hoặc bóc tách du lịch ra khỏi chức năng kinh tế - xã hội… Năm 1989, Hội nghị quốc tế về du lịch tại Hà Lan đã đưa ra quan niệm khá rõ ràng và chi tiết. Điều IV ghi rõ: “Khách du lịch quốc tế là những ngườitrên đường đi thăm một hoặc một số nước khác với nước mà họ cư trú thường xuyên với mục đích của chuyến đi là tham quan, thăm viếng, nghỉ ngơi với thời gian không quá 3 tháng, nếu trên 3 tháng phải được phép gia hạn. Khách du lịch không được làm bất cứ việc gì để được trả thù lao tại nước đến do ý muốn của khách hay do yêu cầu của nước sở tại, sau khi kết thúc đợt tham quan hay lưu trú, phải rời khỏi nước đến tham quan để về nước thường trú của mình hoặc đi đến một nước khác”. Năm 1993, Hội đồng Thống kê Liên hợp quốc (UNSC) đã công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch theo đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới:  Khách du lịch quốc tế (International tourist) bao gồm:  Khách du lịch quốc tế đến ( Inbound tourist): gồm những người nước ngoài đến du lịch một quốc gia.  Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài ( Outbound tourist): gồm những người đang sống trong  một quốc gia đi du lịch nước ngoài. Khách du lịch trong nước ( Internal tourist): gồm những người là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đi du lịch trong nước.  Khách du lịch nội địa ( Domestic tourist) : bao gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế đến.  Khách du lịch quốc gia ( National tourist): bao gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế ra nước ngoài. Ở nước ta, theo Luật Du lịch Việt Nam ( năm 2005), tại điều 4, chương I thì “ Khách du lịch là người đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Tại điều 34, chương V quy định: “ Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”. 2.2 Phân loại khách du lịch. Ngoài việc nhận thức rõ về định nghĩa khách du lịch quốc tế việc nghiên cứu cần có sự phân loại chính xác, đầy đủ. Đó là điều thuận lợi cho việc nghiên cứu, thống kê các chỉ tiêu về du lịch cũng như định nghĩa. Sau đây là một số cách phân loại khách du lịch. a. Uỷ ban thông lệ Liên hợp quốc đã chấp nhận các phân loại sau, các định nghĩa chính của các phân loại: Khách tham quan du lịch là những cá nhân đi đến một đấtt nước khác ngoài nơi ở thường xuyên của họ trong một khoảng thời gian không quá 12 tháng với mục đích chủ yếu không phải kiếm tiền trong phạm vi lãnh thổ mà họ đến. Khách du lịch quốc tế là tất cả những khách du lịch đã ở lại đất nước mà họ đến ít nhất là một đêm. Khách tham quan trong ngày là tất cả những khách tham quan mà không ở lại qua đêm tại đất nước mà họ đến. Khách quá cảnh là khách không rời khỏi phạm vi khu vực quá cảnh trong thời gian chờ đợi giữa các chuyến bay tại sân bay hoặc tại các khu vực nhà ga khác. b. Theo định nghĩa khách du lịch của pháp lệnh du lịch ban hành ngày 8/2/1999. Khách du lịch có hai loại:  Khách du lịch nội địa .  Khách du lịch quốc tế Bên cạnh các phân loại này còn có các cách phân loại khác.  Phân loại khách du lịch theo nguồn gốc dân tộc: Cơ sở của việc phân loại này xuất phát từ yêu cầu của nhà kinh doanh du lịch cần nắm được nguồn gốc khách. Qua đó mới hiểu được mình đang phục vụ ai? Họ thuộc dân tộc nào? Để nhận biết được tâm lý của họ để phục vụ họ một cách tốt hơn.  Phân loại khách du lịch theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp: Cách phân loại này sẽ cho phép nhà cung cấp khám phá ra các yêu cầu cơ bản và những đặc trưng cụ thể về khách du lịch.  Phân loại khách theo khả năng thanh toán: Xác định rõ đối tượng có khả năng thanh toán cao hay thấp để cung cấp dịch vụ một cách tương ứng. Đây chỉ là một số tiêu thức phân loại khách du lịch. Mỗi một tiêu thức đều có những ưu nhược điểm riêng khi tiếp cận theo một hướng cụ thể. Cho nên cần phối hợp nhiều cách phân loại khi nghiên cúu khách du lịch. Khi nghiên cứu khái niệm và phân loại khách du lịch cho phép chúng ta từng bước thu thập một cách đầy đủ, chính xác các thông tin về khách du lịch. Tạo tiền đề cho việc hoạch định ra các chính sách chiến lược kế hoạch Marketing của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nghiên cứu thị trường khách du lịch để phân đoạn thị trường, nhằm hướng vào một đoạn thị trường cụ thể, nghiên cứu một nhóm khách cụ thể về các đặc điểm của khách để kinh doanh một cách hiệu quả hơn. 2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến khách du lịch. Con người luôn muốn tìm hiểu thế giới bên ngoài, tới những nơi, những vùng mà mình chưa đặt chân tới, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu đi du lịch càng cao, ước muốn của con người là vô tận. a. Nhân tố động cơ. Chẳng hạn muốn nâng cao tầm hiểu biết, hay muốn được thưởng thức chiêm ngưỡng, hay vui chơi giải trí. Dẫn tới việc khách du lịch đi với nhiều động cơ khác nhau, mục đích khác nhau:  Động cơ về thể lực: động cơ này thôi thúc con người nghỉ ngơi về mặt thể xác, tinh thần như thư giãn giải trí hoặc các hoạt động khác liên quan đến việc tăng sức khoẻ con người.  Động cơ về văn hoá giáo dục: là những đòi hỏi của con người muốn hiểu biết về những nơi xa lạ, thưởng thức âm nhạc nghệ thuật, mỹ thuật, phong tục tập quán của các dân tộc, tôn giáo, nghệ thuật cổ truyền, những món ăn truyền thống.  Động cơ về giao tiếp: động cơ này thúc đẩy con người gặp gỡ, giao lưu, mở rộng các mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, người thân.  Động cơ về thân thể, địa vị, uy danh: động cơ này thuộc về bản ngã của con người, muốn được mọi người chú ý và tôn trọng tới mình. Việc xác định động cơ đi du lịch là vấn đề cần thiết để biết được mục đích của chuyến đi, nó chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau. Các nhân tố này đã được thống kê lại thành tám nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động du lịch của khách du lịch. b. Nhân tố kinh tế: đây là nhân tố quyết định, bởi vì không có tiền thì chúng ta không thể đi du lịch. Vấn đề thu nhập của khách có ảnh hưởng tới số lượng cũng như cơ cấu nhu cầu của họ. Thu nhập cao là yếu tố cần thiết cho việc đi du lịch. Ở các nước phát triển, thu nhập cao dẫn tới việc đi du lịch nhiều, chi tiêu trong chuyến đi nhiều. c. Nhân tố nhân khẩu: đặc điểm của dân cư ảnh hưởng tới nhu cầu của khách du lịch như độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số lượng người trong nhóm, gia đình. d. Điều kiện tự nhiên: khí hậu có tác động lớn tới quyết định lựa chọn sản phẩm du lịch của khách du lịch, hình thức đi du lịch và lựa chọn cả điểm du lịch mà họ cảm thấy thuận lợi. e. Nhân tố văn hoá xã hội: những thay đổi trong văn hoá, thay đổi hệ thống các quan niệm xã hội tác động tới động cơ đi du lịch của cá nhân. f.Mức giá: thể hiện ở một đồng tiền, tỉ giá giữa các đồng tiền khi có sự biến động dẫn đến khả năng thanh toán cho hoạt động của du khách cũng bị ảnh hưởng dẫn đến ảnh hưởng tới nhu cầu của g. khách du lịch. Khả năng vận động của khách du lịch: khả năng di chuyển của khách du lịch bằng các phương tiện giao thông. Cùng với sự phát triển của hệ thống giao thông tạo điều kiện thuận lợi cho h. việc đi lại của du khách đã ảnh hưởng rất lớn tới động cơ đi du lịch của du khách. Những quy định của Chính phủ: những quy định của Chính phủ về du lịch và các ngành có liên quan đã ảnh hưởng tới việc thu hút khách. i.Hệ thống thông tin đại chúng: nhân tố này ảnh hưởng đến thông tin lựa chọn sản phẩm nào phù hợp với bản thân mình. Hàng hoá sản xuất ra là để bán cho những người có nhu cầu tiêu dùng. Trong du lịch cũng vậy, khi khách du lịch mua nhiều hàng hoá dịch vụ thì các doanh nghiệp du lịch ngày càng phát triển do bán được nhiều sản phẩm, thu nhập ngày càng cao là tiền đề cho sự phát triển của doanh nghiệp, còn nếu ít khách hoặc không có khách thì hoạt động du lịch trở nên đình trệ, thất thu. Điều này chứng tỏ, khách hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc kinh doanh. “Khách hàng là thượng đế” - các doanh nghiệp đặt khách hàng lên vị trí cao hơn bởi vì doanh nghiệp chỉ bán được những cái mà khách hàng cần. Do vậy muốn kinh doanh có hiệu quả thì các nhà kinh doanh du lịch phải chú trọng hơn nữa đến khách du lịch, xác định được vị trí của khách trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm, dịch vụ thì điều cốt lõi là phải làm sao gợi được thị hiếu ham muốn của khách hàng chứ không như trước đây sản xuất để đáp ứng sự thiếu thốn của hàng hoá cho người tiêu dùng, và bắt thị trường chấp nhận sản phẩm của mình, bất chấp chất lượng như thế nào, giá đắt hay rẻ. Bây giờ trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp đã biết đáp ứng sự mong đợi của khách hàng. Để thu hút được khách hàng thì các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý, có tính thẩm mỹ cao. Qua đó, ta hiểu được vai trò của khách hàng rất quan trọng đối với kinh doanh du lịch. Vì thế, cần tiến hành việc nghiên cứu về khách du lịch. Khi tiến hành nghiên cứu khách, cần phải nghiên cứu khách về các phương diện nhu cầu, sở thích của khách, nguồn gốc khách, nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi, đặc điểm tâm lý của khách du lịch, trình độ văn hoá,...Để từ đó hiểu được những nhu cầu của khách, những yêu cầu của khách, tránh gây phiền hà cho khách, đưa ra sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu và yêu cầu của khách. Trong các phương diện trên thì tâm lý khách đóng vai trò quan trọng quyết định đến thành công trong việc phục vụ khách. Phần 2 GIỚI THIỆU VỀ NƯỚC ĐỨC. Có thể nói thị trường du lịch Đức là một thị trường màu mỡ đối với bất cứ quốc gia nào. Đây là một thị trường rộng lớn với hơn 80 triệu dân. Đức là nước công nghiệp phát triển, có dân số già, người dân có xu hướng đi du lịch ở nước ngoài rất nhiều, điều đó có ảnh hưởng tốt đối với du lịch các nước trong đó có Việt Nam. 2.1 GIỚI THIỆU TỔNG QUAN. Cộng hoà Liên bang Đức (tiếng Đức: Bundesrepublik Deutschland) ngày nay là một nước Đức thống nhất do sự sáp nhập của nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) vào nước Cộng hòa Liên bang Đức cũ (Tây Đức) vào năm 1990. Cộng hòa Liên bang Đức thống nhất hiện nay là một quốc gia liên bang nằm ở Trung Âu và có chung đường biên giới với 9 nước láng giềng: nước Đan Mạch (về phía bắc), Ba Lan và Séc (phía đông), Áo và Thụy Sĩ (về phía nam), Pháp, Luxembourg, Bỉ và Hà Lan (về phía tây). Ở phía bắc, Đức nằm giáp ranh với biển Baltic và Bắc Hải. Lãnh thổ Đức trải rộng 357.021 km vuông và có khí hậu ôn đới. Với gần 82 triệu người, Đức là nước có dân số lớn nhất trong Liên minh châu Âu và là nước có số dân nhập cư lớn thứ ba trên thế giới. Hệ thống chính trị được tổ chức theo lối liên bang và dân chủ nghị viện: theo điều 20 của Hiến pháp, nước Đức là một quốc gia liên bang dân chủ và xã hội và là một quốc gia pháp quyền. Đức là một trong những thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ 18 tháng 9 năm 1973. Thủ đô và thành phố lớn nhất là Berlin. Đức là thành viên của Liên hiệp quốc, NATO, G8, G20, OECD và WTO. Nước Đức là một cường quốc với nền kinh tế có GDP danh nghĩa đứng thứ tư và GDP sức mua tương đương đứng thứ năm trên thế giới. Đức là nước viện trợ phát triển hằng năm nhiều thứ nhì và ngân sách quốc phòng đứng thứ sáu trên thế giới. Quốc gia này có một mức sống cao và hệ thống an sinh xã hội toàn diện. Nước Đức giữ vị trí chính yếu trong quan hệ ở châu Âu cũng như có nhiều liên kết chặt chẽ trên thế giới. Nước Đức cũng được biết đến là dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Chính phủ hiện nay là Chính phủ liên minh giữa Đảng CDU (Đảng liên minh dân chủ cơ đốc) và đảng SPD ( Đảng Dân chủ xã hội).Nước Đức là một liên bang, điều đó có nghĩa là hệ thống chính trị của Đức được chia ra làm hai cấp: cấp liên bang, đại diện cho quốc gia về mặt đối ngoại, và cấp tiểu bang của từng bang một. Mỗi cấp đều có cơ quan nhà nước riêng của hành pháp, lập pháp và tư pháp. Ngày Quốc khánh của Đức là ngày 03 tháng 10 (ngày thống nhất nước Đức) 2.2 KINH TẾ. Đức là nước xuất khẩu hàng hóa đứng đầu thế giới từ 2003 tới 2008. Với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hơn 2.271 tỷ Euro, Đức là nước có nền kinh tế lớn nhất châu Âu và lớn thứ năm trên thế giới sau Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản. Đức cũng là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu, hơn cả Mỹ và Trung Quốc. Các bạn hàng chính là Pháp, Mỹ, Anh, Ý và Hà Lan. Ngoài ra, Đức còn là bạn hàng lớn nhất của hầu hết các nước châu Âu. Với tư cách là một cường quốc hàng đầu trong Liên minh châu Âu, nước Đức đang phấn đấu cho một sự thống nhất kinh tế chặt chẽ hơn của châu lục này. 2.2.1. Thương mại Tổng mức bán buôn của Cộng hoà Liên bang Đức liên tục tăng lên. Doanh số bán lẻ cũng ngày càng tăng và hình thức doanh nghiệp tự bán hàng đang thay thế ngày càng nhiều cho các cơ sở trong ngành thương nghiệp bán lẻ truyền thống. Ngoại thương là một trong những nhân tố chủ yếu trong sự thành công của kinh tế Đức. Xuất khẩu đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế Đức và là một trong những ngành đem về nhiều ngoại tệ nhất. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Đức gồm máy móc, hàng điện tử, ô tô, các sản phẩm hoá chất, thực phẩm, hàng dệt may, dụng cụ quang học và điện năng. Là một nước phụ thuộc nhiều vào ngoại thương nên Đức đồng thời cũng nhập nhiều loại hàng hoá và là nước nhập khẩu nhiều thứ hai thế giới. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, phương tiện vận chuyển, hoá chất, thuốc lá, lương thực, đồ uống, kim loại và các sản phẩm dầu mỏ. Đức cũng nổi tiếng với các sản phẩm thủ công như lính chì và đồ lưu niệm. Nông nghiệp Cũng như các nước phương Tây khác, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp của Đức ngày càng giảm đi. 2.2.2. Lợi nhuận thấp được cho là nguyên nhân chính của sự thất bại của nhiều trang trại vừa và nhỏ. Các trang trại ngày càng lớn hơn và thường liên kết với nhau, mặc dù nhiều trang trại nhỏ vẫn làm thêm nhiều công việc phụ bán thời gian nữa. Phần lớn diện tích nước Đức được dùng cho nông nghiệp, nhưng chỉ có 2% - 3% dân số Đức làm việc trong ngành này.Các vùng đất được chuyên môn hoá vào các lĩnh vực canh tác. Vùng bờ biển phía bắc rất thích hợp cho việc nuôi bò sữa và ngựa. Vùng chân núi Alps có nhiều cánh đồng cỏ. Nơi đây các ngành chăn nuôi gia cầm, lợn, bò và cừu rất phát triển. Dải đất màu mỡ dọc theo sườn nam vùng đất thấp là nơi gieo trồng lúa mì, lúa mạch, ngũ cốc, củ cải đường, cây ăn trái, khoai tây và nho. Đức có tên trong danh sách các nước sản xuất sữa, sản phẩm bơ sữa và thịt nhiều nhất thế giới. Nông nghiệp ở Đức được điều tiết theo chính sách nông nghiệp của Liên minh châu Âu. 2.2.3. Công nghiệp. Giống như hầu hết các nền kinh tế lớn khác, tỉ lệ lao động trong công nghiệp ở Đức đã giảm do sự phát triển nhanh của các ngành dịch vụ. Đức phải nhập khẩu hầu hết nguyên vật liệu và năng lượng, mặc dù có những mỏ than đá ở vùng Ruhr và dọc theo sông Saar. Đức cũng có quặng sắt, dầu mỏ và khí đốt, song trữ lượng không nhiều. Kỹ nghệ hoá chất là một trong những ngành quan trọng nhất của Đức. Trong đó có những công ty như Bayer AG, BASF và Hoechst. Ngành công nghiệp xe hơi của Đức là ngành có quy mô lớn nhất ở châu Âu. Thành công lớn nhất của nước Đức là trong ngành sản xuất xe hơi chất lượng cao. Có lẽ các nhãn mác xe hơi sang trọng nhất thế giới ngày nay hầu như đều có nguồn gốc từ Đức: Bayerische Motoren Werke AG (BMW), DaimlerChrysler AG (Mercedes-Benz), Porsche, Audi, Volkswagen, Bugatti,Lamborghini, Mini, RollsRoyce, Bentley..... Các ngành công nghiệp quan trọng khác gồm chế tạo máy bay, máy xây dựng, máy móc nông nghiệp, máy phát điện, điện tử, các thiết bị văn phòng. Mặc dù có những ngành công nghiệp rất thành công, song một số ngành truyền thống, chẳng hạn như luyện thép và đóng tàu, lại đang sa sút nghiêm trọng. Sự cạnh tranh từ Nhật và công nghệ mới đã làm giảm lợi nhuận của nước Đức. Đức là trụ sở chính của nhiều công ty đa quốc gia khổng lồ như BASF, Robert Bosch GmbH, E.ON, Deutsche Telekom và Siemens AG. Tuy có nhiều tập đoàn công nghiệp lớn, nhưng xương sống của kinh tế Đức lại là các công ty loại trung (Mittelstand) với quy mô dưới 1000 nhân viên. Trong tổng số 1016 Tỷ USD hàng hóa xuất khẩu năm 2005, một phần lớn xuất phát từ khu vực này. Hiện nay Đức thuộc top 3 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng hóa. 2.2.4. Dịch vụ. Lĩnh vực dịch vụ đã tăng đều đặn trong những năm gần đây và hiện đóng góp nhiều nhất vào tổng sản phẩm quốc nội. Lĩnh vực này bao gồm cả du lịch. Năm 2004, lượng khách nước ngoài đến Đức du lịch nhiều nhất là từ Hà Lan, kế đó là Vương quốc Anh và Mỹ. Frankfurt am Main là trung tâm ngân hàng của nước Đức và là trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Thị trường chứng khoán Frankfurt cũng là một trong những thị trường chứng khoán hàng đầu trên thế giới. 2.3 GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI ĐỨC. Đức là một nước có nền văn hóa truyền thống lâu đời và phong phú bậc nhất châu Âu. Nước Đức tự hào với Goethe, Schiller trong văn học, là một trung tâm nhạc cổ điển với nhiều nhạc sỹ lừng danh, được xem như cái nôi của văn hóa châu Âu, tiếng Đức được sử dụng rộng rãi tại châu Âu, là ngôn ngữ được sử dụng hàng ngày tại nhiều nước. Về lịch sử và nghệ thuật nước Đức còn tồn tại nhiều di tích, bảo tàng về chiến tranh cũng như nghệ thuật, các nơi này đều được mở cửa cho công chúng tham quan. Nước Đức cũng rất mạnh về thể thao, đặc biệt là bóng đá. Ngoài ra Đức còn có giống chó Bergie nổi tiếng thế giới. Văn hóa đọc là một đặc trưng của nước Đức, với nhiều hội chợ sách quanh năm, các thư viện Đức luôn là những nơi tuyệt vời cho những người cần nghiên cứu. Nói đến văn học Đức người ta nghĩ ngay đến Goethe và Schiller; 2 nhà văn, nhà thơ lớn nhất của Đức. Văn học hiện đại Đức cũng hết sức phát triển với nhiều tác phẩm mới. Người Đức rất thích đọc sách nên bạn có thể dễ dàng tìm thấy những nơi bán sách đủ các loại khắp nơi, các cửa hàng bán sách cũ cũng rất nhiều với số lượng sách khổng lồ đủ mọi thể loại. Các hội chợ, lễ hội sách diễn ra quanh năm ở nhiều thành phố lớn, đây chắc hẳn là một nơi hấp dẫn cho những ai thích đọc và mua sách. Tiêu biểu nhất là lễ hội sách Frankfurt vào tháng 10 hàng năm và lễ hội sách Leipzig Fair vào tháng 3 hàng năm. Ngoài ra còn có các cuộc thi đọc cho các bạn trẻ tại nhiều thị trấn, thành phố lớn. Là một trung tâm nhạc cổ điển với nhiều nhạc sỹ lừng danh, tại Đức các buổi hòa nhạc hay các lễ hội âm nhạc luôn được tổ chức 1 cách thường xuyên – cả trong nhà lẫn ngoài trời. Đức rất mạnh trong lĩnh vực thể thao với các đội tuyển hàng đầu thế giới. Nhất là bóng đá với thành tích vô địch bóng đá nam thế giới và châu Âu 3 lần. Đội tuyển bóng đá nam Đức với biệt danh Der Mannschaft nổi tiếng với tinh thần ý chí thép. Cùng với cơ sở hạ tầng cực tốt cho thể thao, Đức đã từng đăng cai World Cup 2 lần. Tại Đức bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất. Các sân vận động tại Đức luôn tràn ngập khán giả và rất hiện đại. Sân Olympic tại Berlin là một trong những sân vận động đẹp và hiện đại nhất thế giới. Các môn thể thao khác như võ thuật hay trượt tuyết và các môn trong nhà cũng rất phát triển tại Đức. Nước Đức nổi tiếng với một hệ thống giáo dục tân tiến, với chất lượng hàng đầu thế giới, nhất là trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, cơ khí ô tô hay y học. Luôn luôn nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học mới để giảng dạy. Các trường đại học ở Đức luôn được đánh giá cao về chất lượng và có nhiều trường nằm trong top những trường đại học tốt nhất thế giới. Tại Berlin bạn có thể tìm thấy nhiều trường đại học nổi tiếng và lâu đời với quy mô rất lớn cùng nhiều sinh viên quốc tế theo học. 2.4 TÂM LÝ KHÁCH DU LỊCH ĐỨC 2.4.1. Văn hóa ứng xử của dân tộc Đức.  Xưng hô. Học hàm học vị từ “Tiến sỹ” trở lên thường được gọi cùng với tên, chẳng hạn như Tiến sỹ Schmidt, Giáo sư Zimmermann. Những học hàm học vị thấp hơn không được nhắc đến (cử nhân, thạc sỹ). Tên họ ghép cũng được xưng đầy đủ, ví dụ như: Thưa bà Mueller-Maier. Chức vụ chính thức hay tước hiệu danh dự cũng được xưng, chẳng hạn như: Thưa Ngài Thị trưởng, Thưa bà Bộ trưởng, nhưng không xưng như vậy đối với vợ hoặc chồng của họ. Những tước hiệu quý tộc như “Bá tước”, “Hầu tước”, “von”, “zu” không nên bị quên và trong trường hợp này không gọi “Ông Bá tước” hay “Bà Hầu tước”, mà nói “Thưa Bá tước Albrecht” hoặc “Thưa Tiến sỹ Bá tước Albrecht”, “Thưa Giáo sư Tiến sỹ Bá tước Albrecht”. Chào hỏi. Trong cuộc sống thường ngày, khi gặp nhau, người đến sau chào trước hoặc người trông thấy người  khác trước lên tiếng chào trước. Trong hợp tác kinh doanh thì cách chào theo thứ bậc. Khi gặp nhau, những người đã quen biết nhau chào nhau trước. Sau đó, người cấp bậc thấp hơn giới thiệu những người cùng đi, rồi người có cấp bậc cao hơn giới thiệu thành phần đoàn của mình. Sau khi tất cả đã làm quen với nhau thì mới bắt tay, cái bắt tay ngắn, nhẹ nhàng và khi bắt tay nhìn thẳng vào nhau.  Lời khen. Sử dụng lời khen hoàn toàn không thừa, nhưng chú ý đừng để quá thô thiển. Trong công việc cũng như trong cuộc sống thường nhật, càng tránh được việc đề cập cụ thể về diện mạo, trang phục… trong lời khen bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nếu muốn tán dương một chút thì tốt nhất chỉ nên đề cập tới những thành tích của họ, ưu điểm tính cách của họ, tinh thần hợp tác của họ…  Coi trọng phụ nữ. Thông lệ “Ladies First” chỉ áp dụng trong cuộc sống thường nhật. Trong quan hệ làm ăn thì thông lệ là cấp dưới nể vì cấp trên. Ngày nay, cả nam lẫn nữ đều có thể là người mở cửa cho người khác hay giúp người khác mặc áo choàng, chỉ không ai được từ chối nhận cử chỉ đó.  Đi cùng xe. Nếu được đối tác mời đi cùng trong xe - do đối tác lái - thì tuyệt đối không được ngồi ở hàng ghế sau. Nếu đi taxi, vị khách danh dự được dành cho ngồi ở hàng ghế sau, phía tay phải. Người nào trả tiền taxi thì ngồi ở phía trước hay ở sau người lái xe.  Cách ứng xử qua điện thoại. Người gọi đến thường phải chào và xưng danh, tự giới thiệu về mình. Người được gọi điện thoại thường ít nhất nên xưng tên, không khi nào được sử dụng ngôi thứ ba để trả lời, chẳng hạn như “Đây là ông Schmidt”. Khi gọi điện thoại từ các máy điện thoại công cộng không nên nói tên cụ thể, đề phòng bị nghe trộm.  Trao danh thiếp. Khách là người đầu tiên trao danh thiếp. Nếu trao cho nhóm người thì người có cấp bậc cao nhất được trao đầu tiên. Nếu không biết thứ tự cấp bậc của chủ nhà thì trao danh thiếp cho tất cả, bắt đầu từ người ở bên cạnh mình. Phải xem danh thiếp trước khi cất đi.  Khu vực riêng tư. Trong văn phòng, ở hành lang hay khi gặp nhau nên chú ý giữ khoảng cách. Khoảng cách 60 cm được coi là khu vực dành cho bạn bè thân thiết. Khi trao đổi về công chuyện làm ăn nên đứng cách nhau khoảng 1 mét nếu chỉ có hai người, nếu đứng thành nhóm thì khoảng cách từ 1 - 2 mét. Để thể hiện sự tin cậy, tốt nhất là sử dụng động tác, cách nói và lựa chọn từ ngữ thích hợp.  Tính chính xác, đúng giờ. Người Đức quan niệm rằng người lịch sự bao giờ cũng đến đúng giờ. Cả các sếp cũng vậy. Nếu chủ ý đến muộn để thể hiện cấp bậc của mình thì sẽ phản tác dụng. Làm quen. Khi làm quen chú ý nhấn mạnh những tương đồng để tạo bầu không khí thân thiện, không nên đề cập  đến những chủ đề chính trị hay tôn giáo. Những nhận xét nên mang tính tích cực, không nên chỉ trích hay phê trách, không nên lôi kéo hay để bị sa đà vào cuộc tranh luận về vấn đề to tát.  Người Đức và thức uống có cồn. Bia và rượu thường được bao gồm trong một bữa tối, bình thường các thức uống có cồn được dùng để mời khách. Tuy nhiên, nếu bạn không uống thì vẫn hoàn toàn chấp nhận được. Không nên cố mời người khác dùng bia, rượu khi họ đã từ chối và đừng gọi các thức uống có cồn cho họ. Khi một người Đức từ chối không uống thì không hẳn là họ ngại hay vì phép lịch sự, mà vì họ không muốn uống.  Người Đức và hoa. Hãy mang theo hoa để tặng nếu bạn được mời đến nhà người bản địa nhân một dịp nào đó. Nếu hoa được bọc trong giấy gói, hãy nhớ mở lớp gói ra ngay trước khi bạn bước vào nhà.  Người Đức và ý thức với môi trường. Người Đức rất ý thức về việc bảo vệ môi trường và luôn phân loại rác để thuận tiện cho việc tái chế. Nếu hàng xóm của bạn phát hiện thấy bạn ném đồ thủy tinh hoặc giấy có thể tái chế được vào thùng rác thông thường, mối quan hệ của bạn có thể trở nên căng thẳng trong một thời gian dài.  Người Đức và bữa ăn. Khi dùng bữa, nếu bạn để dao và nĩa chéo nhau trên đĩa ăn là một dấu hiệu cho thấy bạn vẫn chưa dùng bữa xong. Đặt dao và nĩa ở bên phải song song với đĩa ăn là dấu hiệu để người phục vụ biết rằng bạn đã dùng xong và họ có thể dọn đĩa của bạn. Việc ngồi cùng bàn với người lạ khi nhà hàng đông khách là một việc rất bình thường và thông dụng ở Đức. Tuy nhiên trước khi ngồi vào bàn, hãy chỉ vào chỗ còn trống và hỏi xem đã có ai ngồi hay chưa. Bạn có thể chúc những người cùng bàn ăn ngon miệng nhưng đừng quá trông chờ sẽ có những cuộc hội thoại tại bàn ăn. Khi bạn đứng dậy, đừng quên nói lời tạm biệt những người ngồi cùng bàn. Theo thông lệ ở Đức, người bồi bàn sẽ nhận được từ 5 đến 10% tiền boa, hoặc bạn chỉ cần làm tròn các khoản tiền nhỏ hơn. Đồ ăn thức uống ở nước Đức vô cùng phong phú, đa số được trồng hay được sản xuất ngay tại nhà. Những bữa ăn kết hợp giữa thịt ướp nhiều thứ gia vị với cá muối kèm với rau và thông cổ bằng rượu vang hay bia là những món khoái khẩu của người Đức. Mặc dù kỹ thuật bếp núc của người Đức xoay quanh các món thịt bò và thịt cừu, nhưng giờ đây đã ngày càng có nhiều nhà hàng ăn chay trên khắp nước Đức. Người Đức cũng ăn một chút những món ăn chơi giữa các bữa ăn chính khi họ đói bụng và thỉnh thoảng cũng tổ chức tiệc tùng cho thêm phần rôm rả. Ở những vùng khác nhau thì cùng một loại món ăn lại có những cách nấu nướng khác nhau. Trong một nhà hàng ở Bavaria, bạn không thể kêu một món đúng như món bạn đã từng ăn ở miền bắc Schleswig-Holstein, nhưng cả hai đều đáng nếm thử. Ở Đức có trên 200 loại Wurst, tức là xúc xích làm từ thịt bê, thịt lợn, óc heo, mù tạc, gia vị và bột cà ri. Mỗi vùng lại có một loại xúc xích riêng của mình, từ loại xúc xích trắng của Bavaria với rau mùi tây và hành cho đến xúc xích Chipolata nướng trên than hồng. Bánh huyết, thịt gà cắt thành miếng phủ vụn bánh mì, những lát thịt bò và thịt hươu, cá nục bắt từ biển Bắc xông khói và muối chua, bắp cải muối, món salát khoai tây gọi là Kartoffelsalat, bắp cải đỏ ướp gia vị, còn nấm thì mọc ở khắp mọi nơi trong nước và được chế biến theo đủ mọi cách. 2.4.2. Tính cách chung của dân tộc Đức.  Tiết kiệm. Ta hay cười người Đức hà tiện, thật ra đó là sự khác biệt trong quan điểm chi tiêu. Họ hợp lý hơn chúng ta, cho dù thích hay không thích. Đó là tính cách của 2 nền văn hoá khác nhau hay trái ngược hẳn nhau. Khi người Đức rủ ta làm một việc gì đó, thí dụ như đi ăn hay xem xi nê chẳng hạn, có nghĩa là mạnh ai người nấy trả, còn khi nào họ mời thì lúc ấy họ sẽ trả tiền cho cả hai. Vì tính tổ chức và tính tự lập cao nên họ chi tiêu dè sẻn và hợp lý hơn. Hãy bỏ thói quen dùng tiền không biết đến ngày mai, nó phù hợp với phim ảnh hơn là cuộc sống. Tiết kiệm không hề xấu, nhất là còn trong giai đoạn đi học, chưa kiếm ra tiền nhiều. Hãy lấy tiết kiệm làm niềm vui (Sparen macht Spass).  Sạch sẽ. Điều đập mạnh vào mắt khi vào nhà người Đức là sự sạch sẽ và ngăn nắp. Nhất là nhà bếp và toilet. Đừng ngạc nhiên khi lại thăm nhà người Đức, họ lại ưu tiên giới thiệu toilet thay vì phòng ngủ. Toilet của Đức thuộc loại sạch sẽ có hạng (Đồ sứ vệ sinh của Villeroy & Boch / Đức đứng hàng đầu thế giới). Do đó khi sống chung với ngừơi Đức (Cư xá, nhà tập thể) thì bạn phải rất cẩn thận giữ gìn sạch sẽ. Trật tự và kỉ luật. Người ta hay nhắc đến tính kỷ luật khi nói về người Đức. Cái ấy khỏi cần bàn! Bởi vì nếu không  có kỷ luật thì sao có thể gọi là người Đức được nhỉ. Trẻ con Đức được rèn luyện rất sớm về những gì được phép làm và những gì không được phép làm. Không chạy xe quá tốc độ quy định, không uống rượu quá liều lượng cho phép khi lái xe, không đi qua đường khi đèn đỏ và đương nhiên không đái đường.  Đúng giờ và chính xác. Hãy cố gắng đúng giờ. Có thể nói đúng giờ được xem như là một phẩm hạnh được người Đức đánh giá cao. Tính đúng giờ được xem như một thuộc tính đương nhiên của con người cũng như sinh ra là phải có mắt mũi tay chân vậy. Bạn sẽ bị coi thường nếu đến trễ hay thực hiện công việc không đúng hạn. Hình như người Đức sinh ra là đã đúng giờ. Khoảng thời gian thập kỷ 70-80 xe lửa đến đúng từng phút một. Bây giờ những người lớn tuổi thường hay phàn nàn là xe lửa hay bị trễ giờ. (Thật ra là chỉ 2-3 phút thôi).  Làm việc.  Làm việc đúng giờ và có trách nhiệm.    Năng suất lao động cao (Không ngồi chơi xơi nước, tán dóc hoặc nhậu nhẹt). Vắng mặt phải khai báo, nghỉ ốm thì phải có giấy bác sĩ. Làm việc chăm chỉ để gây tiếng tốt cho chính mình và cho người đồng hương.  Giao thiệp và xử thế.  Chào hỏi: Người Đức rất hay chào hỏi: chào sáng, chào trưa, chào tối, chào đêm, chào gặp mặt, chào chia tay. Xem ra chuyện chào hỏi là rất quan trọng. Kèm theo đó là cái bắt tay và tự giới thiệu tên mình nếu gặp lần đầu. Khi giao tiếp người Đức thường đứng cách đối tượng trên 50cm. Không đáp ứng lời chào hoặc bắt tay hoặc giới thiệu được xem như là một cử chỉ khiếm nhã. Đôi khi vì thói quen, nhiều người Việt Nam tưởng rằng một cái gật đầu nhẹ là đủ. Tuy nhiên sau khi chào hỏi, cũng không nên có những câu hỏi tò mò quá, tối kỵ là không bao giờ hỏi lương: đấy là điều bí mật mà chỉ có vợ/chồng, xếp và sở thuế biết.  Ăn mặc: Thông thường người Đức ăn mặc giản dị, chỉ khi nào xem nhạc kịch, múa ballet hoặc nghe hoà nhạc hoặc khi “có việc” họ mới lên đồ. Đặc biệt Thương gia Đức thích mặc áo đệm vai và mũ phớt . Việc ăn mặc tùy theo hoàn cảnh chỉ có một điều phải thật sự lưu tâm là bộ quần áo ngủ. Như tên gọi của nó, vì là quần áo ngủ nên chỉ dùng trong phòng ngủ, tuyệt đối không sử dụng ở ngoài. Rất nhiều người vì không hiểu thói quen này lại còn mặc vào để đi ra ngoài. Bạn sẽ được xem như người sao Hoả, có lẽ cởi truồng thì cũng chỉ bị chiêm ngưỡng đến thế.  Nói năng: Tuyệt đối không ồn ào nơi công cộng, khu tập thể, đơn giản là không nên nói to, gọi nhau ơi ới, hoặc cười đùa vì người Đức rất kỵ điều này. Ở chung khu tập thể lưu ý tránh làm ồn, nghe nhạc với âm lượng cao . Nếu nói chuyện với đối tượng là tiến sĩ bạn hãy nhớ điều đó và nhắc học vị của họ nhiều lần trong cuộc trò chuyện. Giúp họ mặc áo khoácsẽ có ích nhiều cho bạn. Khi làm việc với họ phải chuẩn bị kỹ.  Điện thoại. Không nên điện thoại sau 22g nếu không nói trước. Cũng không nên gọi vào buổi sáng thứ 7 và chủ nhật vì người Đức hay dậy trễ vào cuối tuần. Bạn đồng nghiệp, thậm chí là xếp cũng không gọi về nhà bạn nếu không có chuyện thật sự cần thiết. Người Đức rất coi trọng đời sống riêng tư. Việc bạn làm đầu tiên khi nhấc điện thoại lên là xưng tên. Chuyện nhỏ ư? Không đâu, thói quen nhỏ này thôi mà nhiều người phải đến 5 năm sau khi ở Đức mới quen.  Tác phong khi ăn uống. Làm thế nào thì làm, khi ăn bạn không được mở mồm. Ăn xong rồi mới nói. Đây là một kỹ năng phải tập dợt nhuần nhuyễn nếu không muốn bị xem là thô lỗ. Và cũng vì bạn không phải là người Ả Rập nên một cái ợ ngon lành sau bữa ăn ngon cũng nên tránh.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan