Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit trong chăn...

Tài liệu Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit trong chăn nuôi gà tại thái nguyên

.PDF
87
690
77

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM MA DOÃN HÙNG NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM MA DOÃN HÙNG NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Chăn nuôi Mã số: 60 62 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Người hướng dẫn KH: TS.TRẦN TỐ THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong vài thập kỷ qua, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong đó chăn nuôi gia cầm nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm thịt trứng cho xã hội. Theo Hoàng Kim Giao (2005) [4] trong những năm gần đây tốc độ tăng đầu con của đàn gia cầm từ năm 1990 đến năm 2000 là 5%/năm, năm 2002 so với năm 2001 là 6,69%, năm 2003 so với năm 2002 là 8,9%. Tổng đàn gia cầm trong cả nước 179,3 triệu con năm 1990; 215,8 triệu con năm 2001; 233,29 triệu con 2002; 254,057 triệu con năm 2003. Sản lượng thịt gia cầm 151,7 nghìn tấn năm 1990 tăng lên 261,8 nghìn tấn năm 1999; 338,4 nghìn tấn 2002; 372 nghìn tấn 2003. Sản lượng trứng 1,9 tỷ quả /năm 1990 tăng lên 3,71 tỷ quả năm 2000; 4,53 tỷ quả 2002; 4,85 tỷ quả 2003. Cả nước có 2.260 trang trại trong đó có 119 trang trại giống, 12 trang trại giống gốc do Trung ương quản lý và 16 cơ sở của các địa phương quản lý. Hình thức chăn nuôi gia cầm của Việt Nam trong những năm gần đây: 85% số nông hộ chăn nuôi gia cầm (có thể chuyên, thường xuyên hoặc chỉ một thời gian ngắn), 15% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, 20% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức bán công nghiệp, 65% số gia cầm được chăn nuôi theo phương thức truyền thống, 80% gà công nghiệp thuộc sự quản lý của nước ngoài, 75% gà thả vườn (bán công nghiệp) thuộc quản lý của các Công ty Việt Nam và các nông hộ. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học để chọn lọc ra những giống gia cầm nhập nội, năng suất chất lượng cao như gà công nghiệp, gà chăn thả, vịt siêu thịt, vịt siêu trứng, ngan Pháp, chim bồ câu Pháp, đà điểu; đã được đưa vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 2 ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Các kết quả nghiên cứu trong chăn nuôi và phòng trị bệnh đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gia cầm. Ở Việt nam hiện nay chăn nuôi gà ngày càng được đẩy mạnh và phát triển rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, tỉnh, huyện, đến các hộ nông dân. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản phẩm thịt gà như: Thịt gà chắc, thơm ngon, không có thuốc kháng sinh... Mặt khác các giống gà phải phát huy tốt trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp và bán chăn thả tình hình dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp. Từ năm 1996 Việt Nam đã nhập một số giống gà lông màu thả vườn có năng suất khá cao, chất lượng thịt tốt hợp thị hiếu người tiêu dùng và thích hợp với điều kiện chăn nuôi bán công nghiệp như gà Kabir, gà Tam Hoàng, Lương Phượng... Trong đó giống gà Lương Phượng có xuất xứ từ vùng ven sông Lương Phượng, đây là giống gà thịt lông màu do xí nghiệp nuôi gà thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc lai tạo thành công sau hơn chục năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống địa phương và dòng mái nhập của nước ngoài. Gà Lương Phượng có dáng bề ngoài gần giống với gà Ri của Việt Nam, lông màu vàng. Gà Lương Phượng dễ nuôi, có tính thích nghi cao, chịu đựng tốt với khí hậu nóng ẩm, đòi hỏi chế độ dinh dưỡng không cao, có thể nuôi nhốt, hoặc nuôi thả ở vườn, ngoài đồng, trên đồi. Môi trường chăn nuôi và công tác vệ sinh phòng bệnh có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng và hiệu quả thành công hay thất bại của việc chăn nuôi gà đặc biệt là trong tình hình hiện nay dịch cúm gia cầm đang có khả năng bùng phát bất cứ lúc nào, nơi đâu khi không đảm bảo thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng dịch. Sử dụng dung dịch điện hoạt hoá với tính năng khử trùng tương đối hiệu quả và đặc tính an toàn với người sử dụng và vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 3 nuôi cũng là một biện pháp phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi hiện nay. Nhằm góp phần đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá đến khả năng sinh trưởng, sinh sản của gà tìm ra biện pháp tối ưu để sử lý môi trường vệ sinh phòng bệnh thích hợp, rẻ tiền, an toàn sinh học có lợi cho sức khoẻ người tiêu dùng sản phẩm, người trực tiếp chăn nuôi từ đó đem lại lợi ích kinh tế cao nhất trong sản xuất. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên" 2. Mục tiêu của đề tài - Đánh giá tác dụng của dung dịch điện hoạt hoạt hoá anolit và catolit với môi trường chăn nuôi gà. - Nghiên cứu tác dụng hiệu quả của dung dịch anolit và catolit đến khả năng sản xuất và sức đề kháng của gà được nuôi tại Thái Nguyên. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Qua sử dụng dung dịch điện hoạt hoá, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường chuồng nuôi gà đối với một số loại khí độc và một số loại vi khuẩn. - §¸nh gi¸ t¸c dông cña dung dÞch anolit vµ catolit ®Õn kh¶ n¨ng sinh s¶n, sinh tr-ëng cña gµ nu«i t¹i Th¸i Nguyªn. - Bổ xung thông tin cho các nghiên cứu nhằm tìm ra các biện pháp chăn nuôi gà hiệu quả kinh tế cao trong môi trường chăn nuôi bền vững. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 1.1.1. Cơ sở khoa học của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit trong chăn nuôi gà Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit được sản xuất từ nước muối loãng bởi thiết bị hoạt hoá điện hoá có tên thương mại là ECAWA (Electro Chemically Activated Water) trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ Liên Bang Nga. ECAWA là thiết bị sản xuất các dung dịch ĐHH anolit và catolit từ nước muối tại cơ sở sử dụng, rất phù hợp với các bệnh viện, trung tâm y tế và các cơ sở sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và một số ngành công nghiệp có nhu cầu trang thiết bị khử trùng có hiệu quả cao, chi phí thường xuyên thấp, vận hành bảo quản dễ dàng, đồng thời không làm tổn hại sinh thái môi trường. Máy sản xuất dung dịch ĐHH dùng trong đề tài là máy ECAWA - 15 do Viện công nghệ môi trường Viện khoa học công nghệ Việt Nam sản xuất năm 2005, sử dụng điện áp 220v - 50Hz công suất tiêu thụ điện 400Wh, lưu lượng dung dịch sản phẩm 15lít/h. 1.1.1.1. Nguyên lý hoạt động của thiết bị ACAWA Bản chất của công nghệ hoạt hoá điện hoá với điện trường đơn cực là ở chỗ dung dịch muối loãng được xử lý trong một khoang (khoang anot hoặc khoang catot) của buồng phản ứng, trong đó mỗi vi thể tích của khối dung dịch được tiếp xúc trực tiếp với điện trường siêu cao trên bề mặt của điện đơn cực mà không có sự xáo trộn với dung dịch ở bên khoang có điện trường ngược dấu. Kết quả của những tác động nói trên là dung dịch được chuyển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 5 sang một trạng thái không cân bằng nhiệt động học với hoạt tính hoá học cao khác thường trong vòng 24 giờ. Trong điều kiện đó dung dịch được xử lý trong khoang catot gọi là catolit thể hiện tính năng tẩy rửa cao, còn dung dịch được xử lý trong khoang anot gọi là anolit thể hiện tính năng khử trùng đặc biệt cao. Anolit là sản phẩm được tạo thành trong ngăn anot của buồng phản ứng điện hoá có màng ngăn từ quá trình điện phân dung dịch muối loãng. Do những tác động lý hoá xảy ra trong lớp tiếp xúc giữa điện cực và dung dịch, nhiều chất có hoạt tính khử trùng cao được hình thành trong anolit như HClO, ClO-, ClO2, Cl-… là các chất clo hoạt tính và các peroxyt vô cơ H2O2, HO, HO2… tất cả các chất này đều không bền chúng sẽ tự phân giải và tái lập lại với nhau để trở thành nước bình thường từ vài chục giờ đến năm ngày. Nước hoạt hoá điện cũng như những dung dịch muối loãng được HHĐH không những chỉ là những chất oxi hoá khử mạnh hoặc là tác nhân axit và kiềm, mà còn là chất xúc tác mạnh cho các phản ứng hoá học và sinh hoá. Độ sạch sinh thái và mức an toàn trong sử dụng của dung dịch ĐHH có được là vì khả năng phản ứng của nó được xác định không phải bằng số lượng các chất tương tác mà do hoạt tính dị thường (hoặc cực cao hoặc cực thấp) của nó so với nồng độ thấp của các muối khoáng hoà tan tự nhiên trong nước uống hoặc trong dung dịch muối loãng. Đối với mục tiêu sử dụng trong ngành thú y quá trình HHĐH được thực hiện với dung dịch muối loãng từ 0,1 - 5g/l với chi phí điện năng từ 100 - 200 culông /lít. Các dung dịch ĐHH từ muối ăn được sử dụng để tẩy rửa và khử trùng các chuồng trại và dụng cụ thiết bị chăn nuôi gia súc, gia cầm: Dụng cụ, chuồng nuôi, xưởng ấp, xưởng giết mổ, xưởng tận dụng đồ thải, trứng hàng hoá và các đối tượng khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 6 Như vậy các dung dịch ĐHH được chế tạo từ một thiết bị đã được sản xuất ở Việt Nam để cho dung dịch anolit và catolit. 1.1.1.2. Khả năng khử trùng của dung dịch ĐHH Thành phần của anolit trung tính gồm hoạt chất oxy hoá, các tế bào của cơ thể người ngay trong quá trình hoạt động sống cũng tham gia vào quá trình oxy hoá khử, chúng sản sinh ra và sử dụng có mục đích các chất oxy hoá hoạt tính cao như: HO, HO2, O3, HClO, Cl, các tế bào này có hệ thống cấu tạo bảo vệ chống oxy hóa, ngăn ngừa tác dụng độc hại của các chất tương tự đến cấu trúc tế bào sống nhờ sự có mặt của các cặp lipoproteit 3 lớp có chứa cấu trúc nối đôi (- C = C -) có khả năng nhận electron. Các vi khuẩn, vi rút thì không có hệ thống bảo vệ để chống oxy hoá nên dung dịch anolit trung tính là chất cực độc đối với chúng, thêm nữa mức độ khoáng hoá thấp của anolit và khả năng hydrat hoá cao làm tăng mức độ thẩm thấu của màng tế bào vi khuẩn đối với các chất oxy hoá. Các vi bọt khí mang điện được tạo ra trong vùng tiếp xúc với Polime sinh học cũng góp phần làm chuyển dịch mạnh mẽ các chất oxy hoá vào trong tế bào vi khuẩn, Vì thế anolit có tác dụng diệt khuẩn mạnh nhưng lại ít gây hại tế bào cơ thể người. Nhiều công trình nghiên cứu đã xác định dung dịch anolit có tính chất sát khuẩn rất mạnh đối với các loại vi khuẩn sau: - Nhóm vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae: Escherichia Coli (có nhiều trong phân người), Klebsiella, Enterobacter… - Các chủng vi khuẩn: Citrobacter, Eriberobacter, Citrobacter freundic… - Liên cầu khuẩn thuộc giống Enterococcus và Streptoccocus bao gồm các loài: E. avium, E.Casseliflarus… Vi khuẩn kỵ khí có nha bào khử Sulfit: Clostridium perfringens, Clostridium botulinum… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 7 - Các loại vi khuẩn và virut khác: Samonella paratyphi (A,B,C) Mycobacterium tuberculocis, Mycobacterium chelomac, Mycobacterium aviumntrase, Enterococcus faccalis, Bacillus subtilis, Staphylo Coccus aureus, virut HIV… 1.1.1.3. Tính ưu việt của dung dịch ĐHH anolit và catolit trong phòng trừ dịch bệnh cho gia súc, gia cầm Với tính năng khử trùng hiệu quả và đặc tính an toàn đối với người sử dụng và vật nuôi nêu trên, anolit và catolit đã được Hoa Kỳ, Nga và các nước EU đưa vào sử dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi và chế biến thực phẩm từ năm 1995. Kết quả ứng dụng cho thấy dung dịch ĐHH có những tính năng vượt trội như sau: * Hiệu quả khử trùng cao: Anolit diệt nhanh nhiều loại vi khuẩn, virut, bào tử và nấm, kể cả các loại có sức đề kháng cao nhất như vi trùng bệnh lao, vi khuẩn bệnh than, virus viêm gan B… * Chất khử trùng đa năng nhất: Sử dụng hàng ngày để khử trùng không khí và các bề mặt trong chuồng trại. Trộn với nước uống cho vật nuôi để khử trùng và chữa các bệnh đường tiêu hoá, tắm cho vật nuôi để chữa bệnh ngoài da, khử trùng trứng. * Phòng bệnh cho người chăn nuôi: Diệt vi sinh vật gây bệnh trong môi trường, chữa bệnh ngoài da cho người, ngâm quần áo để diệt trùng. * Sạch về sinh thái, không làm ô nhiễm môi trường: Anolit trở lại thành nước muối loãng sau vài ngày kể từ khi được điều chế nên không để lại dư lượng hoá chất sau khi sử dụng * Giá rẻ: Làm 1lít dung dịch anolit và catolit chỉ hết dưới 200 đồng. Dễ làm và dễ bảo quản: Chỉ cần đổ nước muối 0,5% vào thùng chứa nước muối và cắm điện vào cho thiết bị ECAWA chạy sẽ có ngay dung dịch khử trùng anolit để sử dụng, bảo quản trong bồn nhựa, thủy tinh, sành sứ có nắp đậy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 8 Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] sử dụng dung dịch ĐHH trong chăn nuôi có thể bảo vệ sức khoẻ vật nuôi tốt hơn, thúc đẩy tăng trưởng, phát triển, ngăn ngừa và chữa trị một số bệnh, làm vệ sinh môi trường nuôi. Đặc biệt ưu điểm nổi bật của anolit so với các hoá chất khử trùng đang được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi hiện nay là người ta có thể phun trực tiếp vào chuồng ngay cả khi có mặt vật nuôi mà không hề gây tác hại với chúng. Công nghệ HHĐH đơn giản trong vận hành, giá rẻ và an toàn về môi trường. Công nghệ này có thể ứng dụng ở nhiều quy mô, đặc biệt thích hợp với các hộ chăn nuôi gia đình. Dung dịch ĐHH là tác nhân khử trùng thân thiện của môi trường, là công cụ hữu hiệu trong xử lý ô nhiễm, phòng ngừa bệnh dịch. 1.1.1.4. Các ứng dụng của dung dịch ĐHH trong chăn nuôi gia cầm * Các dung dịch ĐHH bao gồm anolit và catolit được điều chế trên thiết bị ECAWA có các thông số cơ bản sau đây: - Loại điều chế từ dung dịch ban đầu Natri clorua có nồng độ 5g/l Anolit: + pH trong khoảng 7,0 - 7,5 + Thế oxi hoá khử ORP lớn hơn 800 mV + Nồng độ clo hoạt động trong khoảng 300 - 500 mg/ml Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11 + Thế oxi hoá khử ORP có giá tri tuyệt đối lớn hơn 400mV + Nồng độ muối 5g/l - Loại điều chế từ nước thường Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11 + Thế oxi hoá khử ORP có giá trị tuyệt đối lớn hơn 400mV + Nồng độ muối 0,5g/l Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 9 * Các ứng dụng của dung dịch ĐHH: - Khử trùng nước cấp: Nước cấp cho toàn trại chăn nuôi cần được khử trùng bằng anolit với mức 5 - 6 l/m3 để đảm bảo vô khuẩn. - Ứng dụng anolit và catolit trong công đoạn tẩy rửa, khử trùng dụng cụ và bề mặt trong trại nuôi gia cầm. Các thông số, liều lượng sử dụng và thời gian xử lý của anolit và catolit được trình bày theo bảng dưới đây: Bảng 1.1. Liều lƣợng sử dụng và thời gian xử lý catolit, anolit Dung Thông số dịch Catolit pH = 11 - 12 OPR< - 400mV Liều Thời gian lƣợng khử trùng ( ml/m2 ) (phút) Dùng giẻ để lau 150 - 200 hoặc cọ rửa bằng 60 - 90 bàn chải 1 - 2 lần pH = 7 ± 0,3 OPR > + 800mV Anolit Phƣơng pháp 250-300 Nồng độ: 200mg/l 150 Phun 90 Dùng giẻ lau 2 - 3 lần 30 Nhúng Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] Dụng cụ dùng cho gia cầm ăn uống và các bề mặt trong trại là nơi tập trung rất nhiều vi khuẩn và chất bẩn. Do vậy trước khi khử trùng cần phải làm sạch qua các công đoạn quét sạch rác bẩn, phân, sau đó rửa bằng nước… Các máng ăn cần dùng thêm catolit để cọ rửa sạch chất nhờn và chất bẩn bám trên bề mặt dụng cụ để tạo điều kiện cho công đoạn khử trùng bằng anolit đạt hiệu quả cao nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 10 - Ứng dụng dung dịch anolit để khử trùng và kiểm soát môi trường không khí trong trại nuôi gia cầm. Nguồn gốc gây bệnh như các loại nấm và vi khuẩn trong không khí bắt nguồn trực tiếp từ bên ngoài trại đưa vào, từ thức ăn, rác bẩn bị ô nhiễm, hay bắt nguồn từ các mầm bệnh trên bề mặt trần nhà và các dụng cụ đựng thức ăn… bên trong trại nuôi gia cầm hoặc ngay trên lông gà. Do vậy để hạn chế tối đa các khả năng gây bệnh, phun anolit nguyên chất (PH = 7 ± 0,3; nồng độ 250 - 300 mg/l; ORP ± 800mV) với liều lượng 150 - 200 ml/m2 lên bề mặt dụng cụ và vào trực tiếp môi trường không khí ngay cả khi có mặt vật nuôi trong thời gian 30 phút, cho phép giảm đáng kể các quần lạc vi khuẩn (E coli, Staphylococus…) trong không khí và trên bề mặt thiết bị trong chuồng nuôi. - Ứng dụng anolit để vệ sinh chuồng trại sau khi thu hoạch gia cầm và trước khi đưa gia cầm vào nuôi đợt mới. Kết thúc một chu trình chăn nuôi, chuồng nuôi bị ô nhiễm nặng bởi các chất thải của gia cầm, vi sinh vật, bụi và các thứ khác. Vì vậy, chuồng nuôi cần phải được vệ sinh và khử trùng rất kỹ để chuẩn bị cho một đợt nuôi mới. Các khâu làm vệ sinh chuồng nuôi sau khi thu hoạch gia cầm gồm: Quét dọn thu gom phân, chất độn chuồng, rác thải, rồi rửa sạch bằng nước, khử trùng. - Khử trùng được chia làm 2 khâu: + Khử trùng không khí: Thực hiện giống như khử trùng khi đang có mặt gia cầm nuôi. + Khử trùng bề mặt: Dùng vòi phun tia phun ướt các bề mặt cần được khử trùng (mặt nền, tường bao). Đối với các bề mặt bằng kim loại dễ bị rỉ sét tránh phun trực tiếp bằng dung dịch anolit. Trong trường hợp bề mặt kim loại bắt buộc phải khử trùng, sau thời gian khử trùng bằng anolit bề mặt cần được rửa bằng nước sạch. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 11 Trước khi gia cầm được nuôi đợt mới 2 - 3 ngày, chuồng nuôi tiếp tục được khử trùng để đảm bảo an toàn cho vật nuôi. Quy trình vệ sinh khử trùng được thực hiện giống như quy trình vệ sinh khử trùng chuồng nuôi khi vừa thu hoạch gia cầm. - Ứng dụng anolit để đảm bảo vệ sinh thức ăn và nước uống cho gia cầm. Dịch bệnh truyền nhiễm thường lây nhanh qua đường thức ăn và nước uống. Do vậy việc khử trùng thức ăn và nước uống bằng anolit là rất cần thiết. Đồng thời khi gia cầm tiêu thụ một lượng anolit vừa đủ sẽ rất có lợi cho sức khoẻ cũng như phòng các bệnh dịch (tiêu chảy…) và tăng trọng cho gia cầm. Bảng 1.2. Ứng dụng anolit trong thức ăn và nƣớc uống cho gia cầm Đối tƣợng Thông số anolit Thời gian khử Phƣơng pháp trùng (phút) Tuỳ theo từng loại thức ăn mà ta trộn anolit sao cho thấm ướt toàn bộ bề mặt. Thức ăn pH = 7 ± 0,3 ORP > +800mV Ví dụ thức ăn có chứa hữu cơ cao (thóc, cám…) phải 30 - 60 dùng anolit có nồng độ nguyên chất phun trộn đều theo tỷ lệ 1lít anolit cho 10kg thức ăn khô. Có thể pha anolit tỷ lệ 1: Nước uống pH = 7 ± 0,3 20 với nước sạch cho gà ORP > + 800mV uống. Khi phát hiện có Nồng độ: 300mg/l dịch bệnh thì pha với tỷ Thường xuyên lệ : 1/5 Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 12 - Cho gà uống catolit Cho gà uống catolit được điều chế từ nước thường với khoảng cách từ 1giờ 30 phút đến 2 giờ một lần sau khi cho gà ăn để tăng khả năng tiêu hoá thức ăn của gà. Nếu sử dụng đều đặn có thể tăng hiệu quả sử dụng thức ăn từ 5 - 10%. - Xử lý trứng: + Trứng thương phẩm: Các khay đựng trứng được vệ sinh khử trùng bằng anolit như khử trùng dụng cụ. Trứng thương phẩm được xếp đống và phun trước hết là catolit cho ướt đều, để yên chừng 30 phút, phun tiếp anolit cũng tới mức ướt đều. Để khô tự nhiên và xếp vào khay rồi đưa vào nơi lưu giữ hoặc mang đi tiêu thụ. + Trứng sinh sản: Cũng vệ sinh như trứng thương phẩm, tuy nhiên để khô nhanh có thể dùng quạt. - Xử lý phòng ấp + Các bề mặt trong phòng ấp được vệ sinh khử trùng theo quy trình như khử trùng môi trường không khí. Tuy nhiên phòng ấp được vệ sinh thường xuyên nên chỉ cần lau bằng anolit hàng ngày. + Không khí buồng ấp có thể phun định kỳ bằng anolit 2 - 3 ngày một lần với liều lượng 150 - 200 ml/m2. 1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu sự di truyền các tính trạng năng suất của gia cầm Theo Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc (1998) [22] Phần lớn các tính trạng kinh tế của vật nuôi đều là các tính trạng số lượng và phần lớn sự thay đổi trong quá trình tiến hoá của sinh vật cũng là sự thay đổi của các tính trạng số lượng. Khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới sự di truyền các tính trạng số lượng và biến dị của chúng tác giả đã kết luận: Khi một kiểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 13 hình của một cá thể được cấu tạo từ hai Locut trở lên thì giá trị kiểu hình của nó được biểu thị như sau: P= A+D+I+Eg+Es Trong đó: P : Là giá trị kiểu hình ( phenotyp Value) A : Là giá trị cộng gộp (Additive Value) D : Là giá trị sai lệch trội (Dominance Value ) I : Là sai lệch tương tác hay sai lệch át gen (Epistatic deviation ) Eg : Là sai lệch môi trường chung (General enviromental diviation) Es : Là sai lệch môi trường riêng (Special enviromental diviation) Như vậy, năng suất giống vật nuôi phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và ngoại cảnh. Vật nuôi nhận được khả năng di truyền từ bố mẹ, nhưng sự thể hiện khả năng đó ở kiểu hình lại phụ thuộc vào ngoại cảnh môi trường sống. Đây là cơ sở để tạo lập một điều kiện ngoại cảnh thích hợp nhằm củng cố phát huy tối đa khả năng di truyền của các giống vật nuôi, đặc biệt là gia cầm. 1.1.3. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh trưởng, khả năng cho thịt của gà Về mặt sinh học, sự sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp protein nên người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng. Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân theo những quy luật nhất định. Gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó tăng khối lượng giảm dần theo từng tháng tuổi. Để xác định toàn bộ quá trình sinh trưởng một cách chính xác là rất khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên trong chọn giống vật nuôi ngày nay, người ta sử dụng các phương pháp đơn giản và thực tế để đánh giá khả năng sinh trưởng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 14 - Kích thước các chiều đo: Kích thước và khối lượng xương có tầm quan trọng lớn đối với khối lượng cơ thể và hình dáng con vật, quan hệ giữa khối lượng thân, tốc độ lớn và chiều dài đùi, chiều dài xương ngực với chất lượng giết thịt có tầm quan trọng đặc biệt. Kích thước các chiều đo có liên quan rõ rệt với khối lượng cơ thể, độ dài chân có liên quan đến tính biệt. - Tốc độ sinh trưởng: Tốc độ sinh trưởng và cường độ tăng các chiều cơ thể trong một khoảng thời gian nhất định. - Tiêu tốn thức ăn: Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng phản ánh quá trình chuyển hoá thức ăn để sinh trưởng. Tiêu tốn thức ăn /kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại. Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận (1992) [12] cho rằng để phát huy tối đa khả năng sinh trưởng của gia cầm thì việc cung cấp thức ăn đầy đủ và tối ưu các chất dinh dưỡng, cân bằng protein, các axit amin và năng lượng là điều tối cần thiết. 1.1.4. Cơ sở khoa học về sự ảnh hưởng của môi trường tới sức sản xuất của gà thịt - Các tính trạng của một giống được hình thành gắn liền với sự tác động của môi trường sinh thái địa phương. Ngoài các yếu tố di truyền, tác động của con người thì các yếu tố ngoại cảnh như: Nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, mùa vụ… có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các đặc tính sinh trưởng, phát dục, sinh sản của giống ở từng địa phương, mà các đặc tính này sẽ hình thành các chỉ tiêu sản xuất của giống đó. - Trong những điều kiện môi trường nhất định thì các kiểu gen khác nhau sẽ cho những khả năng sản xuất khác nhau. Trái lại cùng một kiểu gen nhưng trong những điều kiện môi trường khác nhau sẽ cho năng lực sản xuất khác nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 15 * Ảnh hưởng của nhiệt độ tới khả năng sản suất: Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận (1992) [12] thì tiêu chuẩn nhiệt độ trong chuồng nuôi cần 18-20 độ. Trong điều kiện tự nhiên như ở nước ta rất khó đạt tiêu chuẩn trên vì nhiệt độ môi trường chênh lệch nhiều giữa hai mùa hè và mùa đông. Tuy nhiên trong chăn nuôi ta phải có biện pháp khắc phục tối ưu để đạt xấp xỉ tiêu chuẩn nhiệt. + Giai đoạn gà con dưới 3 tuần tuổi nếu không đủ ấm gà sẽ túm lại không ăn hoặc ăn rất ít dẫn đến gà chậm lớn và chết nhiều. + Giai đoạn sau bốn tuần hiệu quả thức ăn đạt mức tối đa ở nhiệt độ 240C. Nếu dưới 3 tuần tuổi cần duy trì nhiệt độ cao > 30 0C thì sau 4 tuần tuổi phải chú ý giảm nhiệt độ ở mức 23-240C. Gà trống broiler khối lượng cao có thể bị chết vì stress nhiệt ở mức 35 0C. Lúc nhiệt độ cao cần cung cấp đủ nước uống cho gà. Nước uống là yếu tố quan trọng để duy trì sức chịu đựng của gà ở nhiệt độ 44-460C, nếu nhiệt độ trên giới hạn này gà sẽ bị chết hàng loạt. + Ở nhiệt độ 350C, gà 7 tuần tuổi trở lên sẽ tiêu thụ nước uống tăng thêm 4 lít/giờ/100 gà. Mùa nóng khi gà bị stress nhiệt nước uống nên pha thêm vitamin C, Đường glucoza và các chất điện giải. + Ngoài ra nhiệt độ môi trường còn ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu ME và CP của gà broiler, nên tiêu thụ thức ăn của gà chịu sự chi phối nhiều của nhiệt độ môi trường. Trong điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức tiêu thụ thức ăn của gà cũng khác nhau. Nhu cầu về năng lượng và các vất chất dinh dưỡng khác cũng bị thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Khi nhiệt độ môi trường nuôi ổn định thì mức tiêu thụ thức ăn của gà tăng khi giảm mức năng lượng trong thức ăn và ngược lại. Vì vậy nhiệt độ môi trường ổn định, cần phải đảm bảo mức năng lượng cao trong thức ăn để nâng cao sức tăng trọng của gà. Với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 16 mức năng lượng ổn định tiêu thụ thức ăn của gà sẽ bị giảm khi nhiệt độ môi trường tăng và ngược lại. * Ảnh hưởng của ẩm độ: Khi ẩm độ tăng làm cho chất độn chuồng dễ ẩm ướt, thức ăn dễ bị mốc, nấm mốc phát triển làm ảnh hưởng xấu tới gà nhất là NH3 do vi khuẩn phân huỷ các axit nucleic trong phân và chất độn chuồng. Làm tổn thương đến hệ hô hấp của gà, khả năng nhiễm bệnh cầu trùng, Newcastle, E.coli dẫn tới làm giảm khả năng tăng trưởng của gà. Nếu hàm lượng NH3 tăng quá 50ppm gà sẽ bị mù. Do bắt buộc phải giảm ẩm độ trong chuồng nuôi, nhất là nơi đặt máng nước. Để giữ cho nền chuồng không ẩm ướt có thể sử dụng vòi uống tự động để hạn chế nước rơi vãi ra nền chuồng. Ẩm độ tăng cũng do nuôi nhốt gà với mật độ quá đông, vì vậy ta phải thay đổi diện tích nuôi để phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của gà. Ngoài ra có thể tăng độ thông thoáng, tăng tốc độ gió trong chuồng nuôi cũng là các biện pháp góp phần làm giảm độ ẩm chuồng nuôi. * Ảnh hưởng của độ thông thoáng Độ thông thoáng giúp cho gà có đủ oxy thải khí cácbonic và các chất độc khác, giảm ẩm độ chuồng nuôi, điều chỉnh nhiệt độ chuồng nuôi qua đó hạn chế bệnh tật. Thông thoáng và tốc độ gió lùa phụ thuộc vào thời tiết và nhiệt độ. Nhiệt độ cao cần có tốc độ lưu thông khí khác nhau. Tốc độ lưu thông khí cao đối với gà lớn và ngược lại, với các điều kiện khí hậu khác nhau phải có sự điều chỉnh độ thông thoáng cho phù hợp. Ing.JJ.Dik (1995) [31] qua nghiên cứu đã cho ra khuyến cáo về thành phần tối đa của chất khí trong chuồng nuôi gia cầm như sau: NH3 = 0,01 g/m3, H2S = 0,002 g/m3, CO2 = 0.35 g/m3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 17 Ở nước ta chủ yếu là nuôi thông thoáng tự nhiên nên cần đảm bảo ấm cho mùa đông và mát cho mùa hè. Về mùa hè khi nhiệt độ cao cần bố trí hệ thống quạt để tăng tốc độ gió để chống nóng cho gà. Mùa đông cần có thiết bị sưởi ấm cho gà. * Ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận (1993) [13] thì gà broiler phải được chiếu sáng 2-3 giờ trên ngày khi nuôi trong nhà kín (môi trường nhân tạo) Kết quả thí nghiệm cho thấy: 1-2 giờ chiếu sáng sau đó đến 2-4 giờ sau không chiếu sáng cho kết quả tốt nhất và lớn nhanh, chi phí thức ăn giảm, giảm năng lượng điện chiếu sáng, tác giả khuyến cáo với gà 3-4 ngày tuổi chiếu sáng với công suất 4w/ m2 nền chuồng giảm dẫn đến 21 ngày tuổi chỉ cần ánh sáng mờ 15w /25m2 nền chuồng. Khi cường độ ánh sáng cao gà hoạt động nhiều do đó làm giảm sự tăng khối lượng, với chuồng thông thoáng tự nhiên, đối với mùa hè nên che chắn ánh nắng mặt trời rọi vào chuồng nhưng vẫn đảm bảo thông khí, ánh sáng phải được phân bố đều trong chuồng và sử dụng cùng loại công suất của đèn để tránh tụ tập (gà thích tụ tập vào nơi có ánh sáng mạnh hơn). Ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt. Mật độ nuôi cao thì chuồng nhanh bẩn, gà chen nhau, nồng độ khí độc NH3,CO2,H2S… và quần thể vi sinh vật sinh ra trong chuồng cao, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tăng trọng và sức khoẻ của đàn gà, gà dễ bị cảm nhiễm bệnh tật, tỷ lệ đồng hoá kém, tỷ lệ gà chết và bị loại thải cao, cuối cùng dẫn đến làm giảm hiệu quả chăn nuôi. Nhưng nếu mật độ nuôi thấp, chuồng có nhiều khoảng trống gà sẽ tăng mọi hoạt động (chạy nhảy…) dẫn đến tăng trọng giảm, đồng thời kéo theo các chi phí khác trên đầu gà như: khấu hao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 18 chuồng, công lao động và quản lý/m2 nền chuồng cao, từ đó không tiết kiệm được diện tích chuồng nuôi dẫn đến tăng chi phí trong chăn nuôi. 1.1.5. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản Sinh sản là chỉ tiêu được quan tâm hàng đầu và lâu dài trong công tác giống nhằm tăng số lượng và chất lượng con giống. Khả năng sinh sản của gà phụ thuộc và các yếu tố: giống, tuổi đẻ, trạng thái sinh lí, điều kiện nuôi dưỡng, vụ mùa… và được đánh giá qua các chỉ tiêu tỷ lệ đẻ sản lượng trứng, khối lượng trứng, chất lượng trứng và tỉ lệ ấp nở. * Năng suất trứng và các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trứng Năng suất trứng: Số lượng trứng thu được của mỗi đàn hoặc mỗi mái đẻ trong khoảng thời gian nhất định (một tháng, một mùa, sau một năm tuổi, cả đời mái đẻ..). Sản lượng trứng được tính theo 2 cách: Số trứng tương đối tính theo đơn vị quả hoặc số trứng tuyệt đối tính theo đơn vị khối lượng (kg). Thông thường, người ta xác định sản lượng trứng sau một chu kì đẻ trứng sinh học (hoặc sau 1 năm đẻ trứng) hoặc sản lượng trứng đến 500 ngày tuổi. Theo Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6] năng suất trứng chịu sự chi phối của các tập hợp gen khác nhau. Các gen quy định tính trạng này nằm trên nhiễm sắc thể thường và bị hạn chế bởi giới tính. Năng suất trứng của gà mái do 5 yếu tố di truyền quy định: Thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng, cường độ đẻ trứng, tính nghỉ đẻ mùa đông, tính ấp bóng, tuổi thành thục sinh dục. Ngoài ra, năng suất trứng còn phụ thuộc vào dinh dưỡng, ánh sáng và các yếu tố khí hậu khác. - Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng: Sức sản suất trứng là đặc điểm phức tạp và biến động, nó chịu ảnh hưởng bởi tổng hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng