Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dịch vụ và thương mại (tsc)...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dịch vụ và thương mại (tsc)

.DOCX
78
175
62

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Vốn luôn được coi là một nhân tố hết sức quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh, vì vậy việc sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hiện nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nhất là giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài là hết sức mãnh liệt. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều có khối lượng vốn thấp. Vì thế, để có thể cạnh tranh trên thị trường thì việc sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả đóng vai trò sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sau một thời gian thực tập tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC, em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC)” Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương: Chương I: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC. Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC). Em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Lưu Thị Hương, kế toán trưởng Chu Xuân Thanh và các anh chị trong Công ty Dịch vụ và Thương mại TSC đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. 1 CHƯƠNG I HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp 1.1.1. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và phát triển. Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy rằng: đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp muốn sản xuất, kinh doanh có hiệu quả thì đều phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản là: - Sản xuất kinh doanh cái gì ? - Sản xuất, kinh doanh như thế nào? - Sản xuất, kinh doanh cho ai ? Quyết định sản xuất, kinh doanh cái gì đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường. Nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và ngày một tăng về số lượng cũng như chất lượng. Nhưng thực tế nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên muốn thoả mãn nhu cầu lớn trong khi khả năng thanh toán có hạn, người tiêudùng phải lựa chọn từng loại nhu cầu có lợi nhất cho họ ở từng thời điểm nhất định. Tổng nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội chính là căn cứ để các nhà kinh doanh quyết định việc đầu tư vào sản xuất, kinh doanh của mình. Mặt khác, do sự giới hạn của của khả năng sản xuất nên khi doanh nghiệp đưa ra một quyết định đầu tư nào đó thì luôn phải chịu một chi phí cơ hội nhất định. Nghĩa là khi doanh nghiệp quyết định sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm, dịch vụ nào đó thì sẽ có một sản phẩm, dịch vụ khác bị bỏ qua. 2 Việc lựa chọn, xác định được sản phẩm, dịch vụ để sản xuất, kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường và năng lực của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ngược lại nếu xác định sai thì hậu quả mà doanh nghiệp phải gánh chịu sẽ là rất lớn. Sản xuất, kinh doanh như thế nào? Quyết định sản xuất như thế nào nghĩa là do ai thực hiện và những nguồn lực, hình thức công nghệ và phương pháp sản xuất kinh doanh nào sẽ được sử dụng. Sau khi đã lựa chọn được sản xuất, kinh doanh cái gì, doanh nghiệp phải xem xét và lựa việc sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó như thế nào để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường, với chi phí ít nhất, giành thắng lợi trong cạnh tranh nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Sản xuất cho ai? Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ được hưởng và được lợi từ những hàng hoá, dịch vụ. Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất do đó cũng quyết định thu nhập của các hàng hoá, dịch vụ. Thu nhập của cá nhân hay tập thể phụ thuộc vào quyền sở hữu và giá trị của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng hàng hoá, dịch vụ và giá cả của chúng. Về nguyên tắc thì cần đảm bảo cho mọi người lao động được hưởng và được lợi từ những hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ căn cứ vào những cống hiến của họ đối với quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ ấy. 1.1.2.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm vốn Trong cơ chế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp đều nhằm mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Để thực hiện việc sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó, doanh nghiệp phải mua sắm những yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu dự trữ... nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản. Muốn đầu tư vào tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ nghĩa là phải có tiền để trả cho đầu tư, đó 3 chính là vốn. Vì thế, có thể coi vốn là tiền đề của mọi quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy vốn là gì? Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông nhằm mục đích kiếm lời. Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ, nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Còn “nguồn vốn” chính là nơi cung cấp vốn cho các hoạt động trên. Vốn có các đặc trưng cơ bản sau: - Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn giá trị của các vật tư, tài sản, hàng hoá của doanh nghiệp. Nhưng vốn không đồng nhất với hàng hoá, tiền tệ thông thường. Tiền tệ, hàng hoá là hình thái biểu hiện của vốn nhưng chỉ khi chúng được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời thì chúng mới được coi là vốn. - Vốn được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy được tác dụng. Vốn của doanh nghiệp phải được tích tụ, tập trung thành một lượng tiền đủ lớn mới có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh được. Để kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp cần phải cân nhắc để lựa chọn nguồn vốn sao cho có chi phí thấp nhất mà mang lại hiệu quả cao nhất. - Vốn phải được gắn với một chủ sở hữu nhất định để tránh sự chi tiêu lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả. - Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình vận động liên tục, do vậy vốn của doanh nghiệp cũng luôn vận động tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Vốn vận động theo quy luật: T – H – T’… 1.1.2.2 Phân loại vốn Vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò 4 sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đảm bảo việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả người ta phân vốn thành nhiều loại tuỳ theo mục đích quản lý và sử dụng: * Căn cứ vào tính chất sở hữu Theo hình thức sở hữu, vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Vốn chủ sở hữu: đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần. Có ba nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: số tiền góp vốn của các nhà đầu tư, tổng số tiền tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi chưa phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (khoản kinh phí Nhà nước cấp phát không hoàn lại, giao cho doanh nghiệp chi tiêu cho mục đích kinh tế lâu dài, mục đích chính trị xã hội ...) Nợ phải trả: là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán. Nợ phải trả bao gồm các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn. Để đảm bảo vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải cân đối hai nguồn vốn nói trên tạo ra cơ cấu vốn tối ưu đối với doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp là cơ cấu vốn tại đó chi phí vốn của doanh nghiệp là thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo an toàn khả năng thanh khoản của doanh nghiệp. * Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn thì vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn thường xuyên và vốn tạm thời. Vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định và lâu dài mà doanh nghiệp có thể 5 sử dụng. Đây là vốn mà doanh nghiệp có thể đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm hay một chu kỳ kinh doanh) mà doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn có tính chất tạm thời, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn này bao gồm các khoản vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác... * Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển của vốn trong chu kỳ sản xuất kinh doanh Theo đặc điểm luân chuyển vốn, vốn được phân thành vốn lưu động và vốn cố định. Đây là hình thức phân loại thể hiện rõ ràng, chính xác và thuận tiện nhất mà hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng. - Vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là số vốn ứng trước cho những tư liệu lao động chủ yếu mà đặc điểm của nó là từng bộ phận giá trị được chuyển dần vào sản phẩm cho đến khi tư liệu lao động hết thời hạn sử dụng thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng tuần hoàn. Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của của các TSCĐ. Nhưng vốn cố định và TSCĐ khác nhau ở chỗ: lúc mới hoạt động, vốn cố định của doanh nghiệp có giá trị bằng giá trị nguyên thuỷ của TSCĐ. Về sau, giá trị của vốn cố định thường thấp hơn giá trị nguyên thuỷ của TSCĐ do hao mòn. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn cố định một mặt giảm dần do trích khấu hao và thanh lý TSCĐ, mặt khác lại tăng thêm giá trị do đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành. Như vậy giá trị của vốn cố định sẽ thay đổi: giảm giá trị TSCĐ sản xuất đã chuyển dịch vào sản phẩm hoàn thành và tăng thêm các chi phí đầu tư xây dựng cơ bản và sửa 6 chữa lớn. Việc đổi mới TSCĐ và tăng thêm vốn cố định trong các doanh nghiệp có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của lao động. Trong quá trình luân chuyển, TSCĐ vẫn giữ nguyên hình thái vật chất nhưng giá trị của nó giảm thông qua hình thức khấu hao. Bởi vậy, yêu cầu của việc quản lý và sử dụng vốn cố định là phải dựa trên hai cơ sở: một là, phải đảm bảo cho TSCĐ của doanh nghiệp được toàn vẹn và nâng cao hiệu quả sử dụng của nó. Hai là, phải tính toán chính xác sổ trích lập quỹ khấu hao, đồng thời phân phối và sử dụng quĩ đó hợp lý để có kế hoạch trích khấu hao bù lại giá trị hao mòn, thực hiện đổi mới TSCĐ. Như vậy, TSCĐ chính là biểu hiện của vốn cố định do đó sử dụng vốn cố định cũng có nghĩa là sử dụng TSCĐ. TSCĐ cũng là một loại hàng hoá như những hàng hoá thông thường khác, không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng. TSCĐ ngoài việc được mua bán trên thị trường cũng còn có thể thuê, mượn, cầm cố, thế chấp tuỳ mục đích của người sử dụng. Để thuận tiện cho việc quản lý và sử dụng vốn cố định người ta có thể chia vốn cố định theo TSCĐ (TSCĐ hữu hình, vô hình), hay theo các phương tiện vật chất cụ thể (nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn...) Vốn cố định của doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với một doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển, do đó việc thường xuyên sửa chữa, đổi mới, bổ sung TSCĐ mới là việc làm sống còn đối với doanh nghiệp. - Vốn lưu động: Vốn lưu động là vốn của doanh nghiệp ứng trước vào vật tư và tài sản lưu động khác nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Khác với vốn cố định, vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp và không còn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn 7 bộ, một lần vào giá trị sản phẩm. Vốn này được thu hồi sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh và tiếp tục được đưa vào chu kỳ sản xuất tiếp theo một cách liên tục. Vốn lưu động chính là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ. Do đó, đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối của sự vận động của TSLĐ. Trong các doanh nghiệp, TSLĐ được chia làm hai loại: - TSLĐ sản xuất: bao gồm các nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang... đang trong quá trình dự trữ hoặc chế biến - TSLĐ lưu thông: bao gồm các thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước... Trong quá trình, sản xuất kinh doanh, các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. Để phù hợp với các đặc điểm trên của TSLĐ, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh: dự trữ - sản xuất - lưu thông. Quá trình này diễn ra liên tục, thường xuyên, lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuỷen của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư, hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển. Cũng giống như vốn cố định, việc quản lý vốn lưu động cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ với lượng vốn lưu động thường cao hơn vốn cố định thì việc quản lý vốn lưu động có vai trò sống còn 8 đối với doanh nghiệp. 1.1.2.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp Trong thực tế, bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào của doanh nghiệp cũng cần phải có sự kết hợp của 3 yếu tố là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tư liệu lao động và đối tượng lao động được gọi là tư liệu sản xuất. Để có hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần có sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động. Đối với doanh nghiệp thì tư liệu sản xuất và sức lao động chính là tài sản của doanh nghiệp. Vậy để tiến hành được quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có tài sản, tức là phải có máy móc, nhà xưởng các trang thiết bị kỹ thuật và các nguyên vật liệu, vật tư, nhân công... Nhưng để có được tài sản đó thì doanh nghiệp phải có tiền để mua, lượng tiền đó chính là vốn. Do đó, với tư cách là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh vốn có vai trò quyết định đối với quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Vốn được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, dưới sự tác động của người sử dụng vốn, thông qua quy luật T – H – T’. Quy luật này với T’ > T, cho thấy vốn của doanh nghiệp sau quá trình sản xuất kinh doanh đã tạo ra một lượng giá trị lớn hơn ban đầu, đó là giá trị thặng dư. Như vậy, vốn có vai trò tạo ra giá trị thặng dư, đó chính là nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp. Bên cạnh vai trò tạo ra giá trị thặng dư, vốn còn đóng vai trò quan trọng nữa là giám đốc quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần lớn mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều có liên quan đến vốn, đều sử dụng vốn vì thế thông qua quản lý vốn có thể quản lý doanh nghiệp. Sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng phản ánh sự vận động của hàng hoá dịch vụ vì vậy quản lý vốn cũng chính là quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tóm lại, vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh 9 doanh của doanh nghiệp, do đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một việc là cần thiết của doanh nghiệp. 1.1 Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Mỗi một doanh nghiệp trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh đều phải sử dụng vốn để hoạt động. Với cùng một lượng vốn nhưng lợi nhuân thu được ở các doanh nghiệp khác nhau lại khác nhau. Vậy điều gì đã tạo ra sự khác biệt này? Vấn đề này có rất nhiều câu trả lời. Có thể do biến động của thị trường mà hàng hoá của công ty này bán chạy hơn công ty khác, song một nguyên nhân lớn là do công tác sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả khác nhau. Vốn là một nhân tố hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh dù nó có nguồn gốc như thế nào, nhưng sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại quan trọng hơn nhiều. Nếu việc sử dụng vốn không mang lại hiệu quả sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm sút, thậm chí còn đưa doanh nghiệp tới việc mất khả năng thanh toán các khoản nợ, và phải giải thể. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là không thể thiếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá bằng nhiều cách, nhiều chỉ tiêu, trong nhiều mô hình khác nhau nhưng nhìn chung nó thường được đánh giá thông qua mối quan hệ giữa khối lượng đầu vào (vốn) với kết quả có được ở đầu ra (sản lượng, lợi nhuận...). Nếu ta gọi đầu vào (vốn) là K, đầu ra (sản lượng) là G, thì quan hệ giữa đầu vào và đầu ra là: G = K/ k (hay G = .K với  = 1/k) với k là một hằng số, gọi là hệ số vốn – sản lượng. Hệ số này cho biết số vốn cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng. Với một lượng vốn cụ thể phương án sử dụng nào cho hệ số k nhỏ nhất thì chi phí ít nhất và sẽ được lựa chọn để thực hiện. 10 Hiệu quả sử dụng vốn cũng còn được đánh giá bằng một chỉ tiêu quan trọng khác đó là thời gian sử dụng vốn. Thời gian sử dụng vốn càng ngắn thì chi phí quản lý trong quá trình sử dụng vốn càng được giảm bớt, đồng thời vốn bỏ ra càng sớm được thu hồi, do vậy hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Ví dụ có thể sử dụng công thức sau: h = (t/T).100 Với : h - hiệu quả sử dụng vốn t - thời gian sử dụng vốn được rút ngắn so với thời gian định mức hay dự kiến. T - Thời hạn thu hồi vốn Như vậy, nếu t càng lớn tức là thời gian sử dụng vốn được rút ngắn càng nhiều thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. 1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Vốn là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại còn quá trình hơn rất nhiều. Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Thông thường, hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau: 1.2.2.1. Các chỉ tiêu về cơ cấu vốn Nhóm chỉ tiêu này phản ánh một cách tổng quát về cơ cấu vốn cũng như cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm một số chỉ tiêu: * Hệ số cơ cấu nguồn vốn  Vốn chủ sở hữu ( Nợ phải trả) Hệ số cơ cấu nguồn vốn =  Nguồn vốn Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn của các 11 loại hình doanh nghiệp, từng ngành sản xuất kinh doanh là khác nhau. Đối với các doanh nghiệp lớn, có uy tín thì họ có khả năng huy động vốn từ vay nợ lớn hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Việc phân tích chỉ tiêu cơ cấu vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp, bởi cơ cấu vốn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. 12 * Hệ số nợ vốn chủ sở hữu  Nợ phải trả Hệ số nợ vốn chủ sở hữu =  Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này cho biết tổng số vốn huy động từ vay nợ của doanh nghiệp bằng bao nhiêu lần vốn chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp thì việc sử dụng nợ càng nhiều thì càng có lợi vì sử dụng nợ có tác dụng làm tăng thu nhập trên vốn chủ sở hữu. Nhưng nếu tỷ lệ sử dụng nợ cao quá thì doanh nghiệp cũng sẽ phải chịu rủi ro thanh toán, rủi ro này do người cho vay gánh chịu, do đó họ sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn và đến một lúc nào đó doanh nghiệp sẽ không thể vay được vốn nữa. * Hệ số nợ tổng tài sản  Nợ phải trả Hệ số nợ tổng tài sản =  Tài sản Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi bao nhiêu đồng nợ phải trả. Thông thường tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi hai nguồn là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Thông thường TSCĐ và một phần tài sản lưu động thường xuyên được tài trợ bởi nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu còn tài sản lưu động tạm thời thì có thể tài trợ bằng nợ ngắn hạn. Căn cứ vào chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể có kế hoạch điều chỉnh việc huy động và sử dụng vốn. * Hệ số cơ cấu tài sản Vốn và tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, nghiên cứu vốn phải đặt trong mối quan hệ với tài sản. 13 14 TSCĐ hoặc TSLĐ Hệ số cơ cấu tài sản =  Tài sản Hệ số cơ cấu tài sản cho biết cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào tài sản, và sử dụng tài sản đó phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Tùy từng loại hình doanh nghiệp, cũng như trong từng giai đoạn sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có thể sử dụng vốn đầu tư vào TSLĐ, hay TSCĐ. Ví dụ, các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng thường có tỷ trọng TSCĐ cao, trong khi các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ thì tỷ trọng TSLĐ trong tổng tài sản lại cao hơn. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định * Hiệu suất sử dụng vốn cố định Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng = vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Có thể thấy chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định nên chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao. * Tỷ suất sinh lợi vốn cố định Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất sinh lợi = vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Khi sử dụng chỉ tiêu này cần lưu ý là chỉ tính 15 lợi nhuận do có sự tham gia trực tiếp của TSCĐ tạo ra, vì thế cần phải loại ra các khoản thu nhập khác như lãi do hoạt động tài chính, lãi do góp vốn liên doanh, lãi khác... không có sự tham gia của TSCĐ. Ngoài các chỉ tiêu trên, hiệu quả sử dụng TSCĐ còn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu khác như hệ số hao mòn TSCĐ, kết cấu TSCĐ, hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân. 1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được phản ánh dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa đầu vào (vốn lưu động) và đầu ra (doanh thu, lợi nhuận, sản lượng...) và dựa trên thời gian sử dụng vốn (tốc độ luân chuyển vốn lưu động). Trên cơ sở mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đánh giá qua các chỉ tiêu: * Hiệu suất sử dụng vốn lưu động Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng = vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Số doanh thu được tạo ra trên một đồng vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. * Tỷ suất sinh lợi vốn lưu động Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất sinh lợi = vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh thì có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất sinh lợi vốn lưu động càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. 16 Trên cơ sở thời gian sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động được phản ánh thông qua các chỉ tiêu: * Tốc độ luân chuyển vốn lưu động Tốc độ luân chuyển vốn lưu động thể hiện bởi số vòng quay vốn lưu động trong một kỳ sản xuất kinh doanh. Doanh thu thuần Số vòng quay = vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Số vòng quay vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn lưu động của doanh nghiệp luân chuyển nhanh, do vậy rút ngắn được thời gian hoàn vốn, cũng như chi phí sử dụng vốn lưu động. * Thời gian của một vòng luân chuyển Thời gian của một vòng luân chuyển phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động. 360 (ngày) Thời gian một vòng luân chuyển = Số vòng quay vốn lưu động Vòng quay vốn càng nhanh thì thời gian của một vòng luân chuyển càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả cao. * Kỳ thu tiền bình quân Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân 1 ngày Kỳ thu tiền bình quân đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp đồng thời phản ánh công tác quản lý các khoản phải thu và 17 chính sách tín dụng của doanh nghiệp đối với khách hàng của mình. * Vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho phản ánh khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì hàng tồn kho thấp, vòng quay hàng tồn kho sẽ cao. Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho 1.2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi * Hệ số sinh lợi doanh thu Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi = doanh thu Doanh thu thuần Hệ số này phản ánh cứ một đồng doanh thu thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Hệ số này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Trong thực tế, lợi nhuận là phần còn lại của doanh thu sau khi trừ đi mọi chi phí và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy, với một doanh nghiệp doanh thu cao chưa chắc lợi nhuận đã cao mà nó còn phụ thuộc vào chi phí của doanh nghiệp và thuế. * Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu cho biết một đồng vốn chủ sở hữu được 18 sử dụng thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Vì vốn chủ sở hữu khi sử dụng có chi phí cơ hội nên nếu hệ số này không cao thì chi phí vốn sẽ lớn và hiệu quả sử dụng vốn thấp. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.3.1. Các nhân tố thuộc về phía Nhà nước Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô. Do đó mọi doanh nghiệp đều phải tiến hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở pháp luật và phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. Chỉ một sự thay đổi nhỏ trong chế độ chính sách hiện hành đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp Nhà nước còn chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước thông qua việc cấp ngân sách, và định hướng phát triển sản xuất kinh doanh. Các chính sách của Nhà nước trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có thể kể tới chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Lãi suất thể hiện như là chi phí của việc sử dụng vốn, do vậy nó là nhân tố quan trọng trong quyết định sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi lãi suất ở mức cao, chi phí của việc sử dụng vốn đầu tư vào kinh doanh sẽ cao do chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn lớn, do vậy doanh nghiệp sẽ ít đầu tư vào sản xuất kinh doanh hơn, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào các tài sản nhiều hơn. Đối với việc đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để mua hàng. Lãi suất tăng làm cho chi phí của việc giữ hàng tăng và làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm. Như vậy, lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định việc sử dụng vốn của 19 doanh nghiệp để đầu tư vào vốn là tài sản hay hàng dự trữ. Do đó chính sách lãi suất có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này được thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá là quan trọng vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài. Khi đồng tiền một nước tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn (giá nội địa tại hai nước giữ nguyên). Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá, hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn. Tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động xuất nhập khẩu, do đó ảnh hưởng tới các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, một lượng vốn lớn được đầu tư vào việc nhập khẩu hay xuất khẩu hàng hoá, do đó tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tỷ giá quyết định giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu, gián tiếp ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ của hàng hoá vì thế ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vì vây, chính sách tỷ giá của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ và thương mại nhất là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách thuế Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp còn ảnh hưởng tới quyết định sử 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan