CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài sản lưu động trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và phân loại do nh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Xét trên khía cạnh lý thuyết tài chính, doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập,
có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ
sỡ hữu. Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân.
Có hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải
các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh và doanh
nghiệp tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh
sau đây:
- Kinh doanh cá thế: Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải
có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước; không phải trả thuế thu nhập
doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân; chủ doanh nghiệp chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa
tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp; thời gian của doanh nghiệp phụ thuộc vào
tuổi thọ của người chủ; khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ.
- Kinh doanh góp vốn: Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí
thành lập thấp. Đối với các hợp đồng phức tạp cần phải được viết tay. Một số trường
hợp cần có giấy phép kinh doanh. Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn đối
với các khoản nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn
góp. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn
lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành
viên chính thức chết hay rút vốn; khả năng về vốn hạn chế và lãi từ hoạt động kinh
doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
1
Thang Long University Library
- Công ty: Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi
ích: lợi ích của các cổ đông (chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý.
Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động
của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban
quản lý. Các nhà quản lý quản lý hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích
tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho
công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn khi quyền sở hữu có thể dễ
dàng chuyển đổi cho cổ đông mới; sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay
đổi số lượng cổ đông; trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông
đóng góp vào công ty (trách nhiệm hữu hạn).
Mỗi loại hình doanh nghiệp có các ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy
mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư
cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp.
(Nguồn: Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS. Lưu Thị Hương chủ biên
– Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân – năm 2013)
1.1.2. Tài sản lưu động củ do nh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm tài sản lưu động
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có 3 yếu
tố là: Đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh
doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Khác
với tư liệu lao động, đối tượng lao động (Nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, bán thành
phẩm...) chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh và luôn thay đổi hình thái
vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm
và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất
của đối tượng lao động gọi là tài sản lưu động (TSLĐ).
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong
quá trình kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản lưu động
được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và
dự trữ tồn kho. Giá trị các loại TSLĐ của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý sử dụng hợp lý các loại
TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh
nghiệp.
1.1.2.2. Đặc điểm của tài sản lưu động
Tài sản lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn
của chu kỳ kinh doanh: Dự trữ - sản xuất - lưu thông, quá trình này gọi là quá trình
tuần hoàn và chu chuyển của tài sản lưu động.
2
Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh tài sản lưu động lại thay đổi hình thái
biểu hiện. Tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất mà không giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào
giá trị sản phẩm. Như vậy, sau mỗi chu kỳ kinh doanh thì tài sản lưu động hình thành
một vòng chu chuyển.
Tài sản lưu động theo một vòng tuần hoàn, từ hình thái này sang hình thái khác
rồi trở về hình thái ban đầu với một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Do tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh. Chính đặc điểm
này đòi hỏi doanh nghiệp phải duy trì một lượng vốn ngắn hạn nhất định để đầu tư,
mua sắm tài sản lưu động, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành
liên tục. Lợi nhuận đầu tư vào tài sản lưu động là lợi nhuận gián tiếp.
1.1.2.3. Phân loại tài sản lưu động
Tài sản lưu động trong doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú. Mỗi loại có tính
chất và công dụng khác nhau, vì thế nó được phân loại khác nhau tùy theo mục đích và
tiêu chí áp dụng.
Ta có thể phân loại tài sản lưu động theo lĩnh vực tham gia luân chuyển. Theo
tiêu chí này, tài sản lưu động được chia thành 3 loại:
Tài sản lưu động sản xuất: bao gồm các tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất
như nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,...và tài sản trong sản xuất như sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm,...
Tài sản lưu động lưu thông: là toàn bộ các tài sản dự trữ cho quá trình lưu
thông của doanh nghiệp bao gồm thành phẩm, hàng gửi bán và các tài sản trong quá
trình lưu thông như khoản phải thu, vốn bằng tiền.
Tài sản lưu động tài chính: là những khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với mục
đích sinh lời, bao gồm: đầu tư chứng khoán ngắn hạn, đầu tư liên doanh, liên kết ngắn
hạn,...
Ngoài ra ta có thể phân loại tài sản lưu động theo khả năng chuyển đổi và đặc
điểm kinh tế của từng nhóm riêng.
Tiền: Tất cả tiền mặt tại quỹ, tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang
chuyển. Lưu ý rằng, ở đây tiền (hay vốn bằng tiền) không phải chỉ là tiền mặt. Nhiều
người nhầm lẫn khái niệm Cash trong tiếng Anh và cho nó đồng nghĩa với khái niệm
tiền mặt trong tiếng Việt. Theo ngôn ngữ tiếng Việt Nam, “tiền mặt” không bao gồm
tiền gửi ngân hàng. Khi các doanh nghiệp thanh toán bằng séc hoặc chuyển khoản thì
được gọi là “thanh toán không dùng tiền mặt”. Trong lĩnh vực tài chính - kế toán, tài
sản bằng tiền “Cash” của một công ty hay doanh nghiệp bao gồm: Tiền mặt (Cash on
hand); tiền gửi ngân hàng (Bank accounts); tiền dưới dạng séc các loại (Cheques); tiền
3
Thang Long University Library
trong thanh toán (Floating money,Advanced payment); tiền trong thẻ tín dụng và các
loại tài khoản thẻ ATM.
Vàng, bạc, đá quý và kim khí quý: Đây là nhóm tài sản đặc biệt, chủ yếu
dùng vào mục đích dự trữ. Tuy vậy, trong một số nghành như ngân hàng, tài chính,
bảo hiểm, trị giá kim cương, đá qúy, vàng bạc, kim khí quý,…có thể rất lớn.
Các tài sản tương đương với tiền: Nhóm này gồm các tài sản tài chính có khả
năng chuyển đổi cao, tức là dễ bán, dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết. Tuy nhiên,
không phải tất cả các loại chứng khoán đều thuộc nhóm này. Chỉ có các chứng khoán
ngắn hạn dễ bán mới được coi là TSLĐ thuộc nhóm này. Ngoài ra, các giấy tờ thương
mại ngắn hạn, được bảo đảm có độ an toàn cao thì cũng thuộc nhóm này. Ví dụ: Hối
phiếu ngân hàng, kỳ phiếu thương mại, bộ chứng từ hoàn chỉnh.
Chi phí trả trước: Chi phí trả trước bao gồm các khoản tiền mà công ty đã trả
trước cho người bán, nhà cung cấp hoặc các đối tượng khác. Một số khoản trả trước có
thể có mức độ rủi ro cao vì phụ thuộc vào một số yếu tố khó dự đoán trước.
Các khoản phải thu: Các khoản phải thu là một tài sản rất quan trọng của
doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hoá. Hoạt
động mua bán chịu giữa các bên, phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Thực ra,
các khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ
mua bán, quan hệ hợp đồng.
Tiền đặt cọc: Trong nhiều trường hợp, các bên liên quan đến hợp đồng phải đặt
cọc một số tiền nhất định. Phần lớn các điều khoản về tiền đặt cọc quy định theo 2
cách:
Thứ nhất, số tiền đặt cọc tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng hoặc giá trị
tài sản được mua bán
Thứ hai, số tiền đặt cọc được ấn định bằng một số tiền cụ thể, hoặc một giá trị
tối thiểu cho hợp
Tiền đặt cọc là một tài sản không chắc chắn, độ tin cậy có thể giao động lớn, từ
90% đến 30% hay 40%. Do tính chất là một tài sản bảo đảm như vậy nên mặc dù tiền
đặt cọc thuộc TSLĐ nhưng nó không được các ngân hàng tính đến khi xác định khả
năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp.
Hàng hóa vật tư
Hàng hoá vật tư được theo dõi trong một tài khoản gọi là hàng tồn kho. “Hàng
tồn kho” trong khái niệm này không có nghĩa là hàng hoá bị ứ đọng, không bán được,
mà thực chất bao hàm toàn bộ các hàng hoá vật liệu, nguyên liệu đang tồn tại ở các
kho, quầy hàng hoặc trong xưởng. Nó gồm nhiều chủng loại khác nhau như: NVL
chính, NVL phụ, vật liệu bổ trợ, nhiên liệu và các loại dầu mỏ, thành phẩm.
4
Các chi phí chờ phân bổ: Trong thực tế, một khối lượng NVL và một số
khoản chi phí đã phát sinh nhưng có thể chưa được phân bổ vào giá thành sản phẩm
hay dịch vụ. Những khoản này sẽ được đưa vào giá thành trong khoảng thời gian thích
hợp.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường nơi mà
các doanh nghiệp luôn nỗ lực hướng tới. Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái
niệm phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động
nào đó với những mục đích xác định do con người đặt ra. Do đó, hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động là một phạm trù kinh tế đánh giá trình độ sử dụng tài sản lưu động của
doanh nghiệp đó đạt kết quả cao nhất.
Như đã trình bày ở trên, tài sản lưu động của doanh nghiệp được sử dụng cho
các quá trình dự trữ, sản xuất và lưu thông. Quá trình vận động của tài sản lưu động
bắt đầu từ việc dùng tiền tệ mua sắm vật tư dự trữ cho sản xuất, tiến hành sản xuất và
khi sản xuất xong doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ để thu về một số vốn dưới hình thái
tiền tệ ban đầu với giá trị tăng thêm. Mỗi lần vận động như vậy được gọi là một vòng
luân chuyển của tài sản lưu động. Doanh nghiệp sử dụng vốn đó càng có hiệu quả bao
nhiêu thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhiều bấy nhiêu. Với lợi ích kinh
doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn từng đồng tài sản
lưu động, làm cho mỗi đồng tài sản lưu động hàng năm có thể mua sắm nguyên, nhiên
vật liệu nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ được nhiều hơn. Nhưng điều đó
cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nâng cao tốc độ luân chuyển tài sản lưu động
(số vòng quay tài sản lưu động trong một năm).
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động chúng ta có thể sử dụng nhiều
chỉ tiêu khác nhau nhưng tốc độ luân chuyển tài sản lưu động là chỉ tiêu cơ bản và
tổng hợp nhất phản ánh trình độ sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
1.2.2.1. Chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển tài sản lưu động
Tốc độ luân chuyển tài sản lưu động là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả
sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển tài sản lưu động nhanh
hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt: Mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của
doanh nghiệp có hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không, các
khoản phí tổn trong quá trình sản xuất kinh doanh cao hay thấp. Thông qua phân tích
chỉ tiêu tốc độ luân chuyển tài sản lưu động có thể giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh
được tốc độ luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
5
Thang Long University Library
Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động
oanh thu thuần
Giá trị tài sản lưu động
Đây là chỉ tiêu nói lên số lần quay (vòng quay) của tài sản lưu động trong một
Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động
thời kỳ nhất định (thường là một năm), chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản
lưu động trong mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất (tổng doanh thu thuần) và số
tài sản lưu động của doanh nghiệp. Số vòng quay tài sản lưu động trong kỳ càng cao
thì càng tốt.
Thời gian luân chuyển tài sản lưu động
3 0
V ng quay tài sản lưu động
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của tài sản lưu
động hay số ngày bình quân cần thiết để tài sản lưu động thực hiện một vòng quay
Thời gian luân chuyển tài sản lưu động
trong kỳ. Ngược với chỉ tiêu số vòng quay tài sản lưu động trong kỳ, thời gian luân
chuyển tài sản lưu động càng ngắn chứng tỏ tài sản lưu động càng được sử dụng có
hiệu quả.
Khi tính hiệu suất luân chuyển của từng bộ phận tài sản lưu động cần phải dựa
theo đặc điểm luân chuyển vốn của mỗi khâu để xác định mức luân chuyển cho từng
bộ phận vốn. Ở khâu dự trữ sản xuất, mỗi khi nguyên, vật liệu được đưa vào sản xuất
thì tài sản lưu động hoàn thành giai đoạn tuần hoàn của nó.Vì vậy mức luân chuyển để
tính hiệu suất bộ phận vốn ở đây là tổng số chi phí, phí tổn, tiêu hao về nguyên vật liệu
trong kỳ. Tương tự như vậy, mức luân chuyển tài sản lưu động dùng để tính tốc độ
luân chuyển bộ phận tài sản lưu động sản xuất là tổng giá thành sản xuất sản phẩm
hoàn thành nhập kho, mức luân chuyển của bộ phận tài sản lưu động lưu thông là tổng
giá thành tiêu thụ sản phẩm.
1.2.2.2. Hệ số đảm nhiệm tài sản lưu động
Hệ số đảm nhiệm tài sản lưu động
Giá trị tài sản lưu động
oanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng tài
sản lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt với doanh nghiệp, vì khi đó tỷ suất lợi
nhuận của một đồng tài sản lưu động sẽ tăng lên. Do đó qua chỉ tiêu này, các nhà quản
trị tài chính xây dựng kế hoạch về đầu tư tài sản lưu động một cách hợp lý, góp phần
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.2.3. Hệ số sinh lời của tài sản lưu động
Hệ số sinh lời của tài sản lưu động
6
Lợi nhuận sau thuế
Giá trị tài sản lưu động
Hệ số này cho biết mỗi đơn vị tài sản lưu động có trong kỳ đem lại bao nhiêu
đơn vị lợi nhuận sau thuế. Hệ số sinh lợi của tài sản lưu động càng cao thì chứng tỏ
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao.
1.2.2.4. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số thanh toán ngắn hạn
Giá trị tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài sản
lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải
thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả
khác... Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới một năm. Tỷ
lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh
nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải
bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn
của các khoản nợ đó. Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại. Nếu khả năng thanh toán hiện hành nhỏ hơn 1
thì doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số
này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so
với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế
mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải phân bổ
vốn đầu tư cho tài sản lưu động như thế nào cho hợp lý.
Khả năng thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh
Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Một tỷ lệ thanh toán hiện hành cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi
phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong
tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến
hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Ở đây hàng tồn kho bị loại ra vì trong tài
sản lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản lưu động có tính thanh khoản thấp
hơn.
Khả năng thanh toán tức thời (Hệ số thanh toán bằng tiền)
Hệ số thanh toán tức thời
Tiền và các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán bằng tiền được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
7
Thang Long University Library
chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn. Do vậy, tỷ lệ khả năng
thanh toán tức thời cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các
khoản tương đương tiền. Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy
nhiên, cũng giống như trường hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của
hệ số thanh toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh
của doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong
việc thanh toán nợ.
1.2.2.5. Chỉ tiêu về hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho.Vòng
quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho luân chuyển trong kỳ. Hệ số vòng
quay hàng tồn kho được xác định bằng giá vốn hàng bán chia cho hàng hóa tồn kho.
Số v ng quay hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Hàng hoá tồn kho
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh giá
năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu. Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng
của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại, hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng
hàng tồn kho thấp. Nhưng cũng cần lưu ý là hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành
nghề kinh doanh nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
càng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột
ngột thì rất có khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh
giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ nguyên vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không
đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn
kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách
hàng.
Thời gian quay v ng hàng tồn kho
Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày cần thiết để hàng tồn kho quay được một vòng.
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho và số ngày chu chuyển tồn kho có quan hệ tỷ lệ
nghịch với nhau.
3 0
Thời gian quay v ng hàng tồn kho
Số v ng quay hàng tồn kho
Dự trữ và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của doanh
nghiệp. Vì vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu, mặt khác tăng
vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo tính liên tục
của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư này được giải
8
phóng sau khi sản phẩm được tiêu thụ. Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá
quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra
trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số này
càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ số
quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, hiệu quả sử
dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi phân tích cũng cần phải chú ý đến những nhân tố
khác ảnh hưởng đến hệ số quay vòng tồn kho như việc áp dụng phương thức bán hàng,
kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ
của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung cấp...
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều thông tin. Việc giảm
vòng quay hàng tồn kho có thể do chậm bán hàng, quản lý dự trữ kém, trong dự trữ có
nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng việc giảm vòng quay hàng tồn kho cũng có thể là kết
quả của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết trước
giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có thể có sự gián đoạn trong việc cung cấp các nguyên
vật liệu này (có đình công, suy giảm sản xuất). Ngược lại, việc tăng vòng quay hàng
tồn kho có thể do những cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của
doanh nghiệp đạt chất lượng cao, kết cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu
doanh nghiệp duy trì mức tồn kho thấp thì cũng làm cho hệ số quay vòng hàng tồn kho
tăng cao nhưng điều này đôi khi gây ra tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng đến
việc tăng doanh thu.
1.2.2.6. Chỉ tiêu về các khoản phải thu
Số vòng quay các khoản phải thu
Số vòng quay
Doanh thu thuần
các khoản
=
Khoản phải thu khách hang
phải thu
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu nợ của doanh nghiệp trong kỳ phân tích
doanh nghiệp đă thu được bao nhiêu nợ và số nợ còn tồn đọng chưa thu được là bao
nhiêu. Tỷ số này càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là cao. Quan sát
số vòng quay khoản phải thu sẽ cho biết chính sách bán hàng trả chậm của doanh
nghiệp hay tình hình thu hồi nợ của doanh nghiêp.
Kỳ thu tiền bình quân
Chỉ tiêu này được đánh giá khả năng thu hồi vốn trong các doanh nghiệp, trên cơ
sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Nó phản ánh số ngày
cần thiết để thu được các khoản phải thu. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì
kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại. Tuy nhiên kỳ thu tiền bình quân cao hay
thấp trong nhiều trường hợp chưa thể kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại mục
9
Thang Long University Library
tiêu và chính sách của doanh nghiệp như: Mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín
dụng của doanh nghiệp. Mặt khác khi chỉ tiêu này được đánh giá là khả quan, thì
doanh nghiệp cũng cần phải phân tích kỹ hơn vì tầm quan trọng của nó và kỹ thuật
tính toán che dấu đi các khuyết điểm trong việc quản lý các khoản phải thu.
360
Kỳ thu tiền bình quân
=
Số vòng quay các khoản phải thu
Khi nghiên cứu về tài sản lưu động, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động và các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động chúng ta thấy được tầm quan trọng
của tài sản lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản
lưu động có mặt trong mọi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh từ khâu dự trữ, sản xuất
đến lưu thông và vận động theo những vùng tuần hoàn. Tốc độ luân chuyển tài sản lưu
động là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Việc tăng tốc độ
luân chuyển tài sản lưu động sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động có
hiệu quả hơn. Qua đó, chúng ta phần nào nhận thức được sự cần thiết phải nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
1.2.2.7. Thời gian quay vòng tiền trung bình
Thời gian trả nợ trung bình
Thời gian trả nợ
trung bình
Hệ số trả nợ
=
360
=
Hệ số trả nợ
Giá vốn hàng bán + Chi phí chung bán hàng, quản lý
Phải trả người bán + Lương, thưởng, thuế phải trả
Hệ số trả nợ (hay chính là vòng quay trả nợ) và thời gian trả nợ trung bình là
chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh khả
năng trả nợ của doanh nghiệp. Đối lập với vòng quay khoản phải thu và hàng tồn kho
có xu hướng ngày càng tăng càng tốt thì đối với doanh nghiệp càng chậm trả nợ thì
càng tốt, vậy nên họ rất muốn kéo dài thời gian hoàn trả nợ dẫn đến vòng quay phải trả
thấp. Vòng quay phải trả thấp, số ngày trả nợ kéo dài có thể là dấu hiệu cho thấy công
ty rất có uy tín và là khách hàng tốt nhất của nhà cung cấp nên được cho trả chậm,
nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc trả các
khoản nợ đến hạn.
Thời gian quay vòng tiền trung bình
Thời gian quay v ng tiền
trung bình
=
Kỳ thu
tiền bình
quân
10
Thời gian
Thời gian
+ quay vòng - trả nợ trung
hàng tồn kho
bình
Chỉ tiêu thời gian quay vòng tiền là sự kết hợp của ba chỉ tiêu đánh giá công tác
quản lý hàng lưu kho, khoản phải thu, khoản phải trả. Chỉ số này cho biết sau bao
nhiêu ngày thì số vốn của doanh nghiệp được quay vòng để tiếp tục hoạt động sản xuất
kinh doanh kể từ khi doanh nghiệp bỏ vốn ra. Thời gian quay vòng tiền ngắn, chứng tỏ
doanh nghiệp sớm thu hồi được tiền mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý
hiệu quả khi giữ được thời gian quay vòng hàng tồn kho và các khoản phải thu ở mức
thấp, chiếm dụng được thời gian dài đối với các khoản nợ. Tuy nhiên, cũng tùy vào
đặc điểm của ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động, đối với doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì thời gian quay vòng tiền sẽ
ngắn hơn nhiều so với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố
khác nhau chính vì vậy để đưa ra một quyết định tài chính nhà quản trị tài chính doanh
nghiệp phải xác định được và xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề cần giải
quyết. Có thể chia các nhân tố đó dưới 2 giác độ nghiên cứu.
1.3.1. Nhân tố chủ qu n
1.3.2.1. Công tác huy động vốn và cơ cấu vốn đầu tư
Chất lượng của việc xác định nhu cầu vốn cũng ảnh hưởng đến tình trạng thừa
hoặc thiếu hoặc đáp ứng đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thừa hay thiếu vốn đều là nguyên nhân hay biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn kém hiệu
quả, ngược lại, xác định nhu cầu phù hợp với thực tế sử dụng vốn sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động nói riêng.
Cơ cấu vốn đầu tư là một nhân tố mang tính chủ quan có tác động trực tiếp đến
hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo nguyên tắc chung,
tỷ trọng của các khoản vốn đầu tư cho tài sản đang dùng và sử dụng có ích cho hoạt
động sản xuất kinh doanh phải là cao nhất thì mới là cơ cấu tối ưu. Vốn đầu tư được
đầu tư nhiều vào tài sản không cần dùng hay chưa cần dùng thì không những không
phát huy được tác dụng mà còn làm hao hụt, mất mát dần làm cho hiệu quả sử dụng
vốn sản xuất kinh doanh giảm.
1.3.1.2. Nhu cầu tài sản lưu lưu động trong doanh nghiệp
Việc xác định đúng nhu cầu của doanh nghiệp về tài sản lưu động cho chu kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp giúp định hướng rõ về cơ cấu của tài sản lưu động, đảm
bảo cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra đúng hạn. Nếu xác định thiếu, ngay lập
tức doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong chi trả, thanh toán hoặc thiếu hàng hóa để
cung cấp cho đối tác. Nếu rơi vào tình trạng quá cấp bách, doanh nghiệp có thể phải đi
vay mượn, làm tăng chi phí sử dụng tài sản lưu động. Trường hợp xấu hơn, doanh
nghiệp không đi vay mượn được sẽ trực tiếp tạo ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của
11
Thang Long University Library
doanh nghiệp. Ngược lại, nếu xác định dư thừa, doanh nghiệp sẽ phải phát sinh các
khoản như chi phí cơ hội do dự trữ tiền mặt, chi phí quản lý kho dẫn đến hiệu suất sử
dụng tài sản lưu động thấp. Chính vì vậy, xác định được đúng nhu cầu tài sản lưu động
cho doanh nghiệp là việc hết sức quan trọng để đảm bảo chu trình hoạt động của doanh
nghiệp.
1.3.1.3. Chính sách quản lý tài sản lưu động
- Chính sách quản lý tiền trong doanh nghiệp
Quản lý tiền mặt và các tài sản tương đương tiền ở đây chính là quản lý tiền
mặt, tiền gửi ngân hàng, các loại chứng khoán khả thị. Chúng ta cần lưu ý khái niệm
tiền và các khoản tương đương tiền ở đây biểu hiện theo nghĩa rộng bao gồm tiền mặt
tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, còn các loại chứng khoán khả thị xem như là tài sản tương
đương tiền mặt. Doanh nghiệp cần phải quản lý tiền và chứng khoản khả thị để có thể
thực hiện giao dịch, đối phó với các biến cố bất thường xảy đến với doanh nghiệp hoặc
đầu tư sinh lời.
Tiền mặt kết nối tất cả các hoạt động liên quan đến tài chính của doanh nghiệp.
Quản lý vốn bằng tiền mặt để giảm thiểu rủi ro về khả năng thanh toán, tăng hiệu quả
sử dụng tiền.
Quản lý tiền mặt là quá trình bao gồm quản lý lưu lượng tiền mặt tại quỹ và tài
khoản thanh toán ở ngân hàng, kiểm soát chi tiêu, dự báo nhu cầu tiền mặt của doanh
nghiệp, bù đắp thâm hụt ngân sách, giải quyết tình trạng thừa, thiếu tiền mặt trong
ngắn hạn cũng như dài hạn.
Việc đầu tiên doanh nghiệp phải xác định được mức dự trữ tiền mặt tối ưu.
Mức tồn quỹ tiền mặt mục tiêu là một phần chuẩn mực để làm cơ sở cho các quyết
định tài chính ngắn hạn như đầu tư tiền nhàn rỗi vào các loại tích sản sinh lợi, mức đầu
tư nào là hợp lý và khi nào thì bán các tích sản này để bổ sung làm cân bằng cán cân
tiền mặt. Do tiền mặt biến động hầu như liên tục và không thể giữ chúng ở mức vừa
đúng với hạn mức chuẩn trong tất cả mọi thời điểm, do đó chúng ta phải thiết lập một
mô hình để xác định mức tiền mặt mà công ty phải mua hay bán các loại chứng khoán
thanh khoản cao.
Một trong những mô hình dùng để xác định mức dự trữ tiền mặt tối ưu đó là mô
hình EOQ. Người đầu tiên vận dụng mô hình độ lớn của đơn hàng tối ưu (EOQ) vào
quản trị tiền mặt là nhà khoa học người Hoa Kỳ William J.Baumol (1952). Mô hình
cho rằng, mỗi doanh nghiệp đều có một dòng lưu kim thuần ổn định, là kết quả của
dòng lưu kim chi phí và dòng lưu kim thu nhập trên phương diện kế hoạch. Giả sử một
doanh nghiệp có kỳ vọng có dòng lưu kim thu nhập đều đặn là A/kỳ và dòng lưu kim
chi phí là B/kỳ. Bởi vậy dòng lưu kim chi phí thuần là (B-A)/kỳ.
12
Doanh nghiệp khởi sự các giao dịch chuyển tiền tệ ở đầu kỳ đầu tiên có cán cân
tiền mặt là C (Hình 04). Với lượng tiền sử dụng ổn định mỗi kỳ là (B-A), số tiền này
sẽ hết sau C/(B-A) kỳ. Tại thời điểm kết thúc kỳ thứ C/(B-A), cán cân tiền mặt bằng 0
và cần phải bán một lượng chứng khoán có giá trị C để phục hồi cán cân tiền ban đầu.
Như hình 01 cho thấy, cán cân tiền mặt khi bắt đầu các hoạt động là C và giảm dần
đều đến hết mỗi chu kỳ C/(B-A). Bởi vậy lượng tiền mặt trung bình của doanh nghiệp
là C/2.
Cán cân tiền mặt
(C)
C/2
Thời gian
Hình 01
Giả sử tỷ lệ sinh lời một năm do các công cụ của thị trường tiện tệ mang lại là I,
thì phần lợi nhuận bị bỏ qua mỗi năm trên khoản tiền mặt trung bình là (C/2)i. Nhưng
để có cán cân tiền mặt trung bình (C/2) thì cần phải bán lượng chứng khoán có giá trị
là C tại những thời điểm mà cán cân tiền mặt bằng 0. Nếu tổng nhu cầu của dòng lưu
kim thuần trong suốt năm được ký hiệu là T, thì số lần các loại chứng khoán được
chuyển đổi thành tiền mặt là (T/C). Giả sử chi phí cho mỗi lần giao dịch là F thì tổng
chi phí cho các giao dịch chuyển đổi các loại chứng khoán trong năm là (T/C).F.
Trong đó:
C = Thị giá của các loại chứng khoán được bán ra trong mỗi lần giao dịch
F = Tổng giá trị của dòng lưu kim thuần dự định cần đến trong năm
i = Tỷ lệ sinh lời cơ hội của các công cụ được giao dịch trên thị trường tiền tệ
Sử dụng các công cụ này, chúng ta có thể thiết lập công thức tính toán hai loại
chi phí thành phần như sau:
ề
ị
í
ì á
ỗ ầ
â
ị
ề
ứ
ặ
á
Do đó, tổng chi phí (TC) cho việc tiến hành T/C lần chuyển đổi các loại chứng
khoán, mỗi lần có giá trị C trong năm là:
(
)
(
)
Từ đó ta có thể thấy rằng tổng chi phí sẽ ở mức tối thiểu khi:
13
Thang Long University Library
√
C’ là mức dự trữ tiền mặt tối ưu.
Thứ hai, doanh nghiệp cần phải xây dựng và phát triển các mô hình dự báo tiền
mặt.
Nhà quản lý phải dự đoán các nguồn nhập, xuất ngân quỹ theo đặc thù về chu
kỳ kinh doanh, theo mùa vụ, theo kế hoạch phát triển của doanh nghiệp trong từng thời
kỳ. Ngoài ra, phương thức dự đoán định kỳ chi tiết theo tuần, tháng, quý và tổng quát
cho hàng năm cũng được sử dụng thường xuyên.
Nguồn nhập ngân quỹ thường gồm các khoản thu được từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tiền từ các nguồn đi vay, tăng vốn, bán tài sản cố định không dùng đến...
Nguồn xuất ngân quỹ gồm các khoản chi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh,
trả nợ vay, trả cổ tức, mua sắm tài sản cố định, đóng thuế và các khoản phải trả khác...
Trên cơ sở so sánh nguồn nhập và nguồn xuất ngân quỹ doanh nghiệp có thể
thấy được mức thặng dư hay thâm hụt ngân quỹ.
Ngoài quản lý tiền mặt, doanh nghiệp cũng cần quản lý các khoản tương đương
tiền là các loại chứng khoán khả thị như hối phiếu, trái phiếu ngắn hạn, cổ phiếu được
mua bán tại thị trường tài chính. Doanh nghiệp giữ tiền mặt rất nguy hiểm, vì tiền mặt
có thể trở nên mất giá, còn việc đầu tư tài chính ngắn hạn cho các loại chứng khoán
khả thị thường mang lại thu nhập cho doanh nghiệp. Đó là tiền lãi của trái phiếu, cổ
phiếu và sự tăng giá của thị trường cổ phiếu.
Khi lượng tiền trong doanh nghiệp cao hơn mức bình thường, doanh nghiệp sẽ
chuyển tiền thành chứng khoán ngắn hạn để có thêm thu nhập cho doanh nghiệp và
ngược lại, khi lượng tiền giảm xuống mức bình thường thì doanh nghiệp lại bán bớt
chứng khoán để duy trì lượng tiền mặt ở mức hợp lý.
- Chính sách quản lý dự trữ trong doanh nghiệp
Dự trữ, tồn kho là một bộ phận quan trọng của tài sản lưu động, là những bước
đệm cần thiết cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể tiến hành sản
xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu
dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản
xuất kinh doanh tiến hành được bình thường. Quản lý vật liệu dự trữ hiệu quả sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Do vậy, doanh nghiệp tính toán dự
trữ một lượng hợp lý vật liệu, nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn
nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng
loạt các hậu quả như mất thị trường, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp,…
14
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên vật liệu nằm ở các công đoạn
của dây chuyền sản xuất. Nếu dây chuyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công
đoạn sản xuất thì tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn. Đây là những bước đệm
nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục.
Khi tiến hành sản xuất xong, do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và tiêu thụ, do
những chính sách thị trường của doanh nghiệp,…đã hình thành nên bộ phận thành
phẩm tồn kho.
Hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm 3 bộ phận như trên nhưng thông
thường trong quản lý chúng ta tập trung vào bộ phận thứ nhất, tức là nguyên vật liệu
dự trữ cho sản xuất kinh doanh.
Trong hoạt động quản lý hàng tồn kho, doanh nghiệp cần tập trung xác định
mức dự trữ tối ưu thông qua 2 mô hình quản lý hàng tồn kho. Đó là mô hình đặt hàng
hiệu quả nhất – EOQ và mô hình ABC.
Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau.
Khi doanh nghiệp tiến hành dự trữ hàng hoá sẽ kéo theo hàng loạt các chi phí như chi
phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo quản, chi phí đặt hàng, chi phí bảo hiểm…nhưng
chung quy lại có hai loại chi phí chính:
Chi phí lưu kho (Chi phí tồn dự trữ): Đây là chi phí liên quan đến việc tồn trữ
hàng hoá ,loại này bao gồm:
Chi phí hoạt động như chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo hiểm hàng hoá, chi
phí do giảm giá trị hàng hoá, chi phí hao hụt mất mát, chi phí bảo quản…
Chi phí tài chính bao gồm chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay, chi phí về
thuế, khấu hao…
Nếu gọi mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ cung ứng trung bình sẽ là
Q/2.
Q
Q/2
Dự trữ trung bình
Thời gian
Hình 02
Gọi C1 là chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưu kho của doanh
nghiệp sẽ là: C1*Q/2
Tổng chi phí lưu kho sẽ tăng nếu số lượng hàng hoá mỗi lần cung ứng tăng.
15
Thang Long University Library
Chi phí đặt hàng (Chi phí hợp đồng): Chi phí đặt hàng bao gồm chi phí quản
lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá, chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn
định không phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được mua.
Nếu gọi D là toàn bộ số lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian
(năm, quý, tháng) thì số lượng lần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q. Gọi C2 là chi phí mỗi
lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là:C2*D/Q
Tổng chi phí đặt hàng tăng nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm.
Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá, ta có công thức:
TC = C1*Q/2 + C2*D/Q
Ta có thể tìm Q* bằng cách lấy vi phân TC theo Q ta có:
√
Công thức trên được biểu hiện trên hình sau:
Chi phí
Chi phí lưu kho
Chi phí đặt hàng
0
Q*
Hình 03
Qua hình 02 trên ta thấy khối lượng hàng hoá cung ứng mỗi lần là Q* thì tổng
chi phí dự trữ là thấp nhất.
Mô hình ABC
Hàng tồn kho chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các khoản đầu tư ngắn hạn
của công ty, làm phát sinh chi phí bảo quản và các chi phí kho bãi. Mô hình quản lý
hàng tồn kho ABC là một mô hình phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Tiêu chuẩn để xếp các loại hàng tồn kho vào các nhóm là:
Nhóm A: Bao gồm các loại hàng có giá trị từ 60-80% tổng giá trị tồn kho,
nhưng về số lượng chỉ chiếm 15-20% tổng số hàng tồn kho
Nhóm B: gồm các loại hàng có giá trị hàng năm từ 25-30% tổng giá trị hàng
tồn kho nhưng về sản lượng chúng chiếm từ 30-50% tổng số hàng tồn kho.
Nhóm C: gồm những loại hàng có giá trị hàng năm nhỏ, giá trị hàng năm chỉ
chiếm 5-10% tổng giá trị tồn kho. Tuy nhiên về số lượng chúng lại chiếm khoảng 3055% tổng số hàng tồn kho.
16
Bảng phân loại tồn kho trong công ty
Loại hàng hóa
% số lượng
% giá trị
Loại
A
B
C
100
100
(Nguồn: Nguyễn Hải Sản – Quản trị tài chính doanh nghiệp)
Biểu đồ mô hình ABC
Đơn vị tính: %
100%
90%
80%
70%
60%
% giá trị 50%
40%
30%
20%
10%
0%
C
B
A
0%
20%
40%
60%
80%
100%
% số lượng
(Nguồn: Nguyễn Hải Sản – Quản trị tài chính doanh nghiệp)
Qua kỹ thuật ABC có thể thấy được nên đầu tư trọng tâm vào mặt hàng A nhiều
hơn do giá trị đem lại cao hơn. Vì vậy công ty phải dành các nguồn tiềm lực để mua
hàng nhóm A nhiều hơn so với nhóm B và nhóm C. Đối với nhóm A công ty nên thực
hiện thường xuyên kiểm toán mỗi tháng một lần.
Nếu giả sử công ty có X sản phẩm A. Như vậy, có thể tính toán được lượng hàng
phải kiểm toán mỗi ngày là bao nhiêu, được thể hiện trong bảng sau:
Bảng kế hoạch quản lý hàng tồn kho
Nhóm
hàng
A
Số lượng
Chu kỳ kiểm toán
X
Mỗi tháng (20 ngày)
Lượng hàng phải kiểm
toán mỗi ngày
sản phẩm/ngày
(Nguồn: Nguyễn Hải Sản – Quản trị tài chính doanh nghiệp)
Bảng kế hoạch quản lý hàng tồn kho này giúp các báo cáo tồn kho được chính
xác, tránh nhầm lẫn do nhân viên thường xuyên thực hiện các chu kỳ kiểm toán của
17
Thang Long University Library
từng nhóm hàng. Có thể áp dụng các dự báo khác nhau theo mức độ quan trọng của
các nhóm hàng khác nhau.
- Chính sách quản lý các khoản phải thu trong doanh nghiệp
Theo dõi và thực hiện việc thu nợ, chiếm phần không nhỏ trong việc quản lý
vốn lưu động. Thời gian thu hồi nợ càng ngắn thì doanh nghiệp càng có nhiều tiền để
quay vòng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô các khoản phải thu của doanh nghiệp gồm:
Quy mô sản phẩm - hàng hoá bán chịu cho khách hàng.
Tính chất thời vụ của việc tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp.
Mức giới hạn nợ của doanh nghiệp cho khách hàng.
Mức độ quan hệ và độ tín nhiệm của khách hàng với doanh nghiệp.
Đặc điểm cơ bản của khoản mục phải thu khách hàng: Khoản phải thu là số tiền
khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa hoặc dịch vụ. Có thể nói hầu hết
các công ty đều phát sinh các khoản phải thu nhưng với mức độ khác nhau, từ mức
không đáng kể cho đến mức không thể kiểm soát nổi.
Kiểm soát khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro.
Nếu không bán chịu hàng hóa thì sẽ mất đi cơ hội bán hàng, do đó, mất đi lợi nhuận.
Nếu bán chịu hàng hóa quá nhiều thì chi phí cho khoản phải thu tăng có nguy cơ phát
sinh các khoản nợ khó đòi, do đó, rủi ro không thu hồi được nợ cũng gia tăng. Vì vậy,
doanh nghiệp cần có chính sách bán chịu phù hợp. Khoản phải thu của doanh nghiệp
phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình nền kinh tế, giá cả sản
phẩm, chất lượng sản phẩm, và chính sách bán chịu của doanh nghiệp.
1.3.1.4. Năng lực và trình độ quản lý doanh nghiệp
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, trình độ và khả năng quản
lý bị xem nhẹ và là một yếu tố thứ yếu, không liên quan đến sự sống còn của DN. Tuy
nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, nhân tố này lại giữ một vai
trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN. Một DN hoạt
động tốt không chỉ phụ thuộc vào hiệu quả lao động của từng bộ phận, từng khâu của
quá trình SXKD mà còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ, khả năng quản lý của các nhà
lãnh đạo trên cấp độ tổng thể. Nếu trình độ quản lý kém, tài sản của DN sẽ không thể
sinh lời mà có thể bị thất thoát, lãng phí, đặc biệt là tài sản lưu động trong các khâu sản
xuất, lưu thông như vật tư, hàng hóa dẫn tới hiệu quả sử dụng tài sản không cao.
1.3.1.5. Chất lượng đội ngũ lao động trong doanh nghiệp
Mọi lực lượng sản xuất kinh doanh đều do lực lượng lao động tiến hành. Nó là
chủ thể trong hoạt động kinh doanh, mọi nỗ lực đưa khoa học kỹ thuật trang thiết bị
máy móc hiện đại để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản đều do con người tạo ra và
thực hiện chúng. Song để đạt được điều đó đội ngũ nhân viên lao động cũng cần phải
18
có một lượng kiến thức chuyên môn ngành nghề cao, góp phần ứng dụng sản xuất tốt,
tạo ra những sản phẩm cao phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trên thị trường và mang lại
lợi ích cho doanh nghiệp.
1.3.2. Nhân tố khách qu n
1.3.2.1. Tốc độ phát triển của nền kinh tế
Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, sức mua của thị trường sẽ bị giảm sút. Điều
này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh
nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít đi, lợi nhuận giảm sút và tất yếu làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và TSLĐ nói riêng.
1.3.2.2. Rủi ro trong kinh doanh
Rủi ro là các biến cố không may xảy ra mà con người không thể lường trước
được. Rủi ro luôn đi liền với hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh bao gồm các
loại rủi ro sau: rủi ro tài chính (rủi ro do sử dụng nợ), rủi ro kinh doanh (rủi ro do
không sử dụng nợ vay), rủi ro trong quá trình sử dụng tài sản, vận chuyển hàng hoá,...
Những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh
nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường có nhiều
thành phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp
phải những rủi ro do thiên nhiên gây ra như động đất, lũ lụt, núi lửa...mà các doanh
nghiệp khó có thể lường trước được.
1.3.2.3. Tiến bộ khoa học công nghệ
Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm giảm giá trị tài sản,
vật tư... Vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá cả
của sản phẩm thì hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn nói chung và TSLĐ nói riêng.
1.3.2.4. Chính sách vĩ mô của Nhà nước
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước khi có sự điều chỉnh, thay đổi về chính
sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế...cũng tác động đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của
doanh nghiệp.
Đây là một trong những nhân tố khách quan tác động đến hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh cho doanh
nghiệp hoạt động, do đó doanh nghiệp phải chấp hành những chế độ, quy định của
Nhà nước. Bất kỳ sự thay đổi nào trong cơ chế quản lý của Nhà nước đều tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Một cơ chế quản lý ổn định, thích hợp với các loại hình doanh nghiệp sẽ là điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, giúp cho họ yên tâm khi tiến hành sản xuất
kinh doanh, dồn hết năng lực sẵn có của mình vào kinh doanh mà không sợ sự biến
động của thị trường.
19
Thang Long University Library
Ngoài những yếu tố kể trên thì hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh
nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhân tố khác như: Mối quan hệ của doanh nghiệp với
các bạn hàng, môi trường cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp... Để hoạt động của
doanh nghiệp thực sự có hiệu quả thì chúng ta phải tìm cách hạn chế tốt nhất những
nhân tố gây ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh
nghiệp và phát huy mặt tích cực, nguồn lực sẵn có với phương án kinh doanh tốt nhất
sẽ đem lại sự thành công trong kinh doanh cho doanh nghiệp.
20
- Xem thêm -