Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại công ty cổ phần mediamart việt nam...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại công ty cổ phần mediamart việt nam

.PDF
75
117
75

Mô tả:

- TSLĐ sản xuất: gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục, vật tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, công cụ lao động nhỏ. - TSLĐ lưu thông: là những tài sản lưu động nằm trong quá trình lưu thông của doanh nghiệp như: Thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán v.v… Nói một cách ngắn ngọn, VLĐ có thể được hiểu là: Vốn lƣu động là một bộ phận của vốn kinh doanh ứng ra để hình thành nên tài sản lƣu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp đƣợc diễn ra liên tục và thƣờng xuyên. (Theo tác giả Vũ Hữu Nam - Nghiên cứu kế toán và kiểm toán Việt Nam) 1.1.2. Đặc điểm của vốn lưu động Qua việc phân tích khái niệm về VLĐ phía trên, thì VLĐ có những đặc điểm như sau: Quá trình vận động vốn lưu động là một chu kỳ khép kín từ hình thái này sang hình thái khác rồi trở về hình thái ban đầu với giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Các giai đoạn vòng tuần hoàn luôn đan xen nhau không tách riêng biệt. VLĐ hoàn thành vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Chu kỳ vận động của vốn lưu động là cơ sở đánh giá khả năng thanh toán và hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận động của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Vòng quay của vốn càng được quay nhanh thì doanh thu càng cao và càng tiết kiệm được vốn, giảm chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng sản xuất, không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức của doanh nghiệp. VLĐ là công cụ phản ánh và kiểm tra quá trình vận động vật tư. Vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số vật tư sử dụng tiết kiệm hay không, thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông có hợp lý không. Do vậy thông qua tình hình luân chuyển vốn lưu động có thể kiểm tra việc cung cấp, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. 2 Thang Long University Library 1.1.3. Chu kỳ luân chuyển vốn lưu động Do quá trình kinh doanh diễn ra liên tục nên sự vận động cầu vốn lưu động đi từ hình thái này sang hình thái khác. Bắt đầu từ hình thái vốn bằng tiền và kết thúc một chu kỳ cũng là vốn bắng tiền, tạo thành vòng tuần hoàn của vốn lưu đọng. Sự tuần hoàn này có chu kì tạo thành sự luân chuyển của vốn lưu động. Cụ thể là sự tuần hoàn của vốn lưu động chia thành các giai đoạn như sau: Đối với doanh nghiệp sản xuất: Sự vận động của VLĐ trải qua 3 giai đoạn: T – H – SX – H’ – T’ Trong đó: T’ = T+T - Giai đoạn mua sắm dự trữ vật tư: ở giai đoạn này, VLĐ từ hình thái vốn bằng tiền chuyển sang hình thái vật tư dự trữ. - Giai đoạn sản xuất: VLĐ từ hình thái vật tư dự trữ chuyển sang hình thái sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Kết thúc quá trình sản xuất chuyển sang hình thành vốn thành phẩm. - Giai đoạn tiêu thụ: VLĐ từ hình thái sản phẩm hàng hoá chuyển sang hình thành vốn bằng tiền. Đối với doanh nghiệp thương mại: Sự vận động của VLĐ qua 2 giai đoạn: T – H – T’ Trong đó: T’ = T + T - Giai đoạn mua: Vốn từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vốn hàng hoá dự trữ. - Giai đoạn bán: VLĐ từ hình thái hàng hoá dự trữ chuyển sang vốn bằng tiền. Sự vận động của VLĐ từ hình thái ban đầu là vốn bằng tiền chuyển qua các hình thái khác nhau của các giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu của nó gọi là sự tuần hoàn của VLĐ. Do quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên liên tục nên VLĐ tuần hoàn không ngừng, được lặp đi lặp lại có tính chất chu kì và được gọi là sự chu chuyển của VLĐ. Do sự chu chuyển không ngừng cho nên trong cùng một lúc thường xuyên có sự tồn tại của các bộ phận VLĐ khác nhau trên các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Trong quá trình tham gia vào sản xuất kinh doanh, VLĐ chuyển hết giá trị ngay trong một lần và được hoàn lại toàn bộ khi doanh nghiệp thực hiện xong việc tiêu thụ và xác định có doanh thu. Do đó VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh. 3 1.1.4. Phân loại vốn lưu động Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải sử dụng tới vốn: Đó là tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả lương nhân viên,… Đó là những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được mục tiêu kinh doanh. Các khoản chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên, liên tục gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả quản lý vốn một cách tối đa nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn nhất. Để có thể tiến hành huy động, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm chi phí ở từng khâu sản xuất và toàn doanh nghiệp các nhà quản lý cần tiến hành phân loại vốn. Phân loại vốn có tác dụng quản lý kiểm tra, phân tích những sai sót, chi phí thừa hay thiếu mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất, kinh doanh. Ý nghĩa của việc phân loại vốn giúp cho các doanh nghiệp thấy được tỷ trọng, cơ cấu từng loại vốn, xác định chi phí quản lý vốn của từng loại vốn. Từ đó, doanh nghiệp lựa chọn cho mình một cơ cấu phù hợp, xem xét, lựa chọn phương án huy động, quản lý, quản lý nguồn vốn sao cho hợp lý nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, linh hoạt hơn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh. Như vậy, việc phân loại vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô về vốn cần thiết, lựa chọn thích hợp cho từng hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được hiệu quả quản lý vốn cao nhất. 1.1.4.1. Phân loại theo vai trò trong quá trình sản xuất kinh doanh Nhằm thể hiện rõ vai trò và tỷ trọng của VLĐ trong từng khâu sản xuất kinh doanh từ đó có các biện pháp, kế hoạch mua sắm, dự trữ nguyên vật liệu, đảm bảo sự cân đối, ăn khớp nhau giữa các khâu của quá trình kinh doanh, duy trì sự hoạt động liên tục, tránh tình trạng VLĐ phân phối không đều, không hợp lý dẫn đến ngừng trệ, gián đoạn trong hoạt động sản xuất làm giảm hiệu quả kinh doanh của DN điều, VLĐ được chia thành ba loại sau: Thứ nhất, vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: gồm giá trị các khoản nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ. Thứ hai, vốn lưu động trong khâu sản xuất: Gồm các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển. Thứ ba, vốn lưu động trong khâu lưu thông: Gồm các khoản giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền, các khoản vốn đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn...), các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn trong thanh toán ( các khoản phải thu, các khoản tạm ứng...) 4 Thang Long University Library 1.1.4.2. Phân loại vốn lưu động theo hình thái biểu hiện Thứ nhất, vốn vật tư, hàng hóa: Là các khoản vốn có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm,… Thứ hai, vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn,… Thứ ba, các khoản phải thu: Bao gồm các khoản mà doanh nghiệp phải thu của các khách hàng và các khoản phải thu khác. Vốn lưu động khác: Bao gồm các khoản dự tạm ứng, chi phí trả trước, cầm cố ký quỹ, ký cược,… Thông qua cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để tính toán và kiểm tra kết cấu tối ưu của vốn lưu động để dự thảo những quyết định tối ưu về mức tận dụng số vốn lưu động đã bỏ ra. Mặt khác thông qua cách phân loại này có thể tìm biện pháp phát huy chức năng của các thành phần vốn lưu động bằng cách xác định mức dự trữ hợp lý để từ đó xác định nhu cầu vốn lưu động. 1.1.4.3. Phân loại vốn lưu động theo nguồn hình thành Theo cách phân loại này vốn của doanh nghiệp được chia thành 2 nguồn: vốn chủ sở hữu và vốn đi vay - Vốn chủ sở hữu Vốn do nhà nước cấp cho doanh nghiệp được xác nhận trên cở sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển. Doanh nghiệp sử dụng vốn này nộp cho ngân sách nhà nước một tỷ lệ phần trăm nào đó trên vốn cấp. Vốn tự bổ sung: Là vốn do chính doanh nghiệp bỏ ra bổ sung cho quá trình sản xuất và kinh doanh, để mở rộng thêm quy mô sản xuất cho doanh nghiệp. Vốn góp liên doanh: Vốn do doanh nghiệp liên doanh liên kết với doanh nghiệp khác nhằm thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức huy động vốn quan trọng vì hoạt động tham gia góp vốn liên doanh gắn với chuyển giao công nghệ, thiết bị giữa các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm và tăng sự cạnh tranh cho doanh nghiệp. - Vốn đi vay (Vốn tín dụng) Ngoài VCSH ra thì doanh nghiệp còn sử dụng các nguồn vốn đi vay khác nhằm đảm bảo được quá trình sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp theo chu kỳ. Hiện nay các doanh nghiệp có thể vay từ các ngân hàng thương mại, vay người lao động trong doanh nghiệp hoặc vay các doanh nghiệp khác. 5 Vốn tín dụng ngân hàng: Là vốn mà doanh nghiệp đi vay tại các ngân hàng thương mại. Ngân hàng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp với thời hạn vài ngày hoặc một năm tùy vào lượng vốn vay của doanh nghiệp. Tuy nhiên lựa chọn phương pháp tín dụng này doanh nghiệp cần phân tích kỹ lưỡng về việc lựa chọn ngân hàng, cân nhắc khả năng trả nợ và việc sử dụng vốn ra sao. Vốn huy động qua thị trường chứng khoán: Đây là nơi huy động các vốn dài hạn và ngắn hạn của mọi doanh nghiệp. Là công cụ chính quan trọng thường được sử dụng vào mục đích vay dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cách này khá rủi ro vì nếu tình hình doanh nghiệp không tốt thì số lượng mua cổ phiếu cho công ty sẽ giảm. Vốn chiếm dụng người lao động: Có thể hiểu là khoản phải trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, quản lý và các khoản thuế nhưng chưa đến hạn trả hoặc khoản đặt cọc. Sử dụng vốn chiếm dụng này doanh nghiệp không phải lo trả lãi nhưng nguồn vốn nhỏ không lớn đủ cho quá trình sản xuất cho doanh nghiệp.. 1.1.4.4. Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn Nguồn vốn lưu động tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (nhỏ hơn 1 năm) chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về VLĐ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn, nợ phải trả cho người bán, các khoản phải nộp cho nhà nước, phải trả, phải nộp khác… Nguồn VLĐ thường xuyên: Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được thường xuyên, liên tục, DN cần phải có một lượng TSLĐ nhất định trong giai đoạn chu kỳ kinh doanh như: các khoản dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm và nợ phải thu của khách hàng. Do đó, những TSLĐ được gọi là TSLĐ thường xuyên, ứng với khối lượng TSLĐ này là VLĐ thường xuyên. VLĐ thường xuyên là tổng thể các nguồn vốn có tính ổn định và dài hạn để hình thành nên TSLĐ. VLĐ thường xuyên = Giá trị TSLĐ – Nợ ngắn hạn Hoặc: VLĐ thường xuyên = Tổng vốn thường xuyên – Giá trị còn lại của TSCĐ Trong đó: Tổng vốn thương xuyên = Vốn CSH + Nợ dài hạn Giá trị còn lại của TSCĐ = Nguyên giá của TSCĐ – Giá trị hao mòn lũy kế Việc phân loại này giúp người quản lý xem xét huy động các nguồn VLĐ một cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp. Thêm nữa, nó còn giúp nhà quản lý lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn VLĐ trong tương lai, trên cơ sở đó xác 6 Thang Long University Library định quy mô VLĐ cần thiết để lựa chọn nguồn VLĐ nào mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. 1.1.5. Vai trò của vốn lưu động Để tiến hành khâu nhập vật phẩm, các thiết bị điện tử điện máy, doanh nghiệp phải bó ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, phục vụ cho việc kinh doanh thương mại. Như vậy vốn lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động, hay nói cách khác vốn lưu động là điều kiện tiên quyết của quá trình kinh doanh. Ngoài ra vốn lưu động đảm bảo cho quá trình vận chuyển hàng hóa và nhu cầu mua bán của doanh nghiệp cũng như người mua. Vốn lưu động là công cụ phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ hàng hóa tiêu thụ của doanh nghiệp. Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động them lượng vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Vốn lưu động còn giúp cho doanh nghiệp chớp thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Vốn lưu động còn lại vộ phậm chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị hàng hóa được bán ra dựa trên cơ sở vốn mua đầu vào cộng them một phần lợi nhuận. Do đó vốn lưu động đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra. 1.2. Quản lý vốn lƣu động 1.2.1. Khái niệm quản lý VLĐ Vốn lưu động trong doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp thương mại thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn nhất. Mọi hoạt động kinh tế hàng ngày phát sinh ở doanh nghiệp để liên quan tới vốn lưu động, trực tiếp ảnh hưởng đến sự thay đổi của vốn lưu động. Vì vậy, quản lý vốn lưu động có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Từ những nhận định bên trên ta có thể rút ra được khái niệm tổng quan nhất về quản lý vốn lưu động: Quản lý vốn lưu động chính là việc các doanh nghiệp sử dụng các khoản vốn bằng tiền, hàng tồn kho, phải thu khách hàng một cách hiệu quả nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. 7 1.2.2. Nội dung quản lý vốn lưu động 1.2.2.1. Xác định nhu cầu vốn lưu động a. Khái niệm Định mức vốn lưu động là xác định số vốn chiếm dụng cần thiết, tối thiểu trên các giai đoạn luân chuyển vốn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên liên tục. (PGS.TS Nguyễn Đình Kiệm – TS. Bạch Đức Hiền) Ý nghĩa của việc xác định nhu cầu vốn lưu động Thứ nhất, việc dự báo xác định nhu cầu vốn lưu động là cơ sở để doanh nghiệp sử dụng vốn hợp lý tiết kiệm. Thứ hai, xác định nhu cầu vốn lưu động hợp lý là căn cứ để đánh giá kết quả công tác quản lý vốn của doanh nghiệp, nhằm củng cố chế độ hạch toán kinh tế. Thứ ba, xác định nhu cầu vốn lưu động là căn cứ xác định mối quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và ngân hàng khác. b. Nguyên tắc xác định nhu cầu vốn lưu động Việc xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp phải được tuân thủ các nguyên tắc như sau: Việc xác định nhu cầu vốn lưu động trước hết cần phải xuất phát từ tình hình thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, nhu cầu vốn cần phải đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp một cách hợp lý, tránh tình trạng ứ đọng vốn hoặc thiếu vốn gây ảnh hưởng đến việc kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, các mức nhu cầu vốn lưu động phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm. Tránh lạm dụng hay gây lãng phí vốn ảnh hưởng đến sự tăng doanh thu và sinh lời của một đồng vốn bỏ ra. Việc xác định cần phải đảm bảo cân đối với các bộ phận kế toán trong doanh nghiệp, vì VLĐ là một bộ phận cấu thành nguồn tài chính của doanh nghiệp. c. Phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động Phương pháp trực tiếp xác định nhu cầu VLĐ Nội dung của phương pháp này là căn cứ vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu VLĐ trong từng khâu: sản xuất, dự trữ, lưu thông để xác định được vốn lưu động cần thiết trong mỗi khâu của quá trình chu chuyển vốn lưu động. Trên cơ sở xác định nhu cầu vốn lưu động cần thiết của doanh nghiệp trong kỳ bằng cách tập hợp nhu cầu vốn lưu động trong các khâu. 8 Thang Long University Library Xác định nhu cầu vốn lưu động theo phương pháp trực tiếp được áp dụng cụ thể cho các khâu trong quá trình sản xuất như sau: - Xác định nhu cầu vốn lưu động cho khâu dự trữ sản xuất: Đối với nguyên vật liệu chính, công thức tính toán như sau Vnl = Mn * Nnl Trong đó: Vnl : Nhu cầu về vốn dự trữ nguyên vật liệu chính năm kế hoạch. Mn : Chi phí nguyên vật liệu chính bình quân một ngày trong năm kế hoạch. Nnl : Số ngày dự trữ cần thiết về nguyên vật liệu chính. Chi phí nguyên vật liệu chính bình quân một ngày trong năm kế hoạch được xác định bằng cách lây tổng chi phỉ sử dụng nguyên vật liệu chính trong năm kế hoạch chia cho số ngày trong năm. Trong đó tổng chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong năm được xác định căn cứ vào số lượng sản phẩm dự kiến sản xuất, mức tiêu dùng nguyên vật liệu chính cho mỗi đơn vị sản phẩm và đơn giá kế hoạch của nguyên vật liệu. Số ngày dự trữ cần thiết về nguyên vật liệu chính bao gồm số ngày cách nhau giữa hai lần mua hay giữa hai lần nhập kho nguyên vật liệu chính và số ngày dự trữ bảo hiểm. Đối với những loại vật tư có giá trị thấp, số lượng tiêu hao không nhiều hoặc không thường xuyên thì có thể ước tính dự trữ bằng một tỷ lệ phần trăm so với chi phí sử dụng loại vật tư đó trong kỳ hoặc có thể dùng công thức sau: Vk = Mk * T% Trong đó: Vk : Nhu cầu vốn dự trữ của loại vật tư khác trong khâu dự trữ năm kế hoạch. Mk : Tỏng mức luân chuyển của các loại vật tư khác trong kỳ kế hoạch. T% : Tỷ lệ nhu cầu vốn so với tổng mức luân chuyển vốn của loại vật tư đó ở năm báo cáo. - Xác định nhu cầu vốn lưu động cho khâu trực tiếp sản xuất : Vốn lưu động trong khâu sản xuất bao gồm vốn sản phẩm dở dang, vốn chi phí chờ kết chuyển. + Xác định nhu cầu vốn sản phẩm dở dang : Đối với các doanh nghiệp đang sản xuất, quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Vì vậy trong quá trình sản xuất thường xuyên 9 có một lượng sản phẩm dở dang. Đây là công thức xác định nhu cầu vốn sản phẩm dở dang : Vdd = Pn * Ck Trong đó : Vdd : Nhu cầu vốn sản phẩm dở dang. Pn : Chi phí sản xuất sản phẩm bình quân một ngày trong kỳ kế hoạch. Ck : Chu kỳ sản xuất sản phẩm. Chi phí sản xuất sản phẩm bình quân một ngày kỳ kế hoạch được xác định bằng các lấy tổng chi phí sản xuất sản phẩm kỳ kế hoạch chia cho số ngày trong kỳ. Chu kỳ sản xuất là độ dài thời gian của quá trình sản xuất sản phẩm được tính kể từ khi đưa nguyên liệu vào khâu sản xuất cho đến khi sản phẩm được sản xuất xong và hoàn thành các thủ tục nhập kho. - Xác định nhu cầu vốn chi phí chờ kết chuyển: Chi phí chờ kết chuyển là các chi phí thực tế đã phát sinh có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nhiều kỳ nhưng chưa tính hết vào giá thành sản phẩm trong kỳ mà được phân bổ dần vào nhiều kỳ liên tiếp, đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng ra lượng vốn nhất định. Có thể xác định nhu cầu vốn chi phí chờ kết chuyển theo công thức sau: Vp = Pd + Pe – Pp Trong đó: Vp : Nhu cầu vốn chi phí chờ kết chuyển trong kỳ kế hoạch. Pd : Số dư chi phí chờ kết chuyển đầu kỳ kế hoạch. Pe : Chi phí chờ kết chuyển dự kiến phát sinh trong kỳ. Pp : Chi phí chờ kết chuyển dự kiến phân bổ vào giá thành sản phẩm trong kỳ. - Xác định nhu cầu vốn lưu động trong khâu lưu thông: Là nhu cầu vốn lưu động để lưu giữ, bảo quản sản phẩm, thành phẩm ở kho với thành phẩm với quy mô cần thiết trước khi xuất giao cho khách hàng. Công thức xác định: Vtp = Zn * Ntp Trong đó: Vtp : Nhu cầu vốn dự trữ thành phẩm kỳ kế hoạch 10 Thang Long University Library Zn : Gía vốn hàng bán bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch. Ntp : Số ngày dự trữ thành phẩm. Giá vốn hàng bán bình quân mỗi kỳ kế hoạch được xác định bằng cách lấy tổng giá vốn hàng bán trong năm kế hoạch chia cho số ngày trong năm ( 1 năm có 260 ngày). Số ngày dự trữ thành phẩm là số ngày kể từ khi thành phẩm nhập kho cho đến khi thành phẩm đươc j xuất giao cho khách hàng. Số ngày dự trữ thành phẩm xác định trong hợp đồng tiêu thụ với khách hàng, nếu đã xác định rõ số ngày cách nhau giữa hai lần giao hàng thì có thể lấy số ngày đó làm số ngày dự trữ thành phẩm, hoặc nếu số ngày dự trữ thành phẩm ở kho là số ngày cần thiết để tích lũy đủ số hàng hóa để xuất giao cho khách hàng thì được tính bằng trung bình quân. - Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu VLĐ Dựa vào số vốn lưu động bình quân năm báo cáo, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh năm kế hoạch và khả năng tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch để xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp trong năm kế hoạch. Cách tính như sau : Công thức 1 : Vnc = VLĐo * M1/Mo *(1 ± t%) Trong đó : Vnc : Nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch. VLĐo : Số dư bình quân vốn lưu động năm báo cáo. M1,Mo : Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch và năm báo cáo. t%: Tỷ lệ tăng hoặc giảm số ngày luân chuyển VLĐ năm kế hoạch so với năm báo cáo. M = Tổng doanh thu – thuế gián thu VLĐo = (Vđq1/2 + Vcq1 + Vcq2 + Vcq3 + Vcq4/2)/4 Vđq1: VLĐ đầu quý 1. Vcq1, Vcq2, Vcq3, Vcq4: VLĐ cuối quý 1,2,3,4. t % = (K1 – Ko) * 100/Ko K1, Ko: Kỳ luân chuyển VLĐ năm kế hoạch và năm báo cáo. Trên thực tế để ước đoán nhanh nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch, các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp căn cứ vào vòng quay VLĐ dự tính nhu cầu VLĐ năm kế hoạch. Công thức 2: V1 = M1 / L1 11 Trong đó: M1: Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch. L1: Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ kế hoạch. Để xác định nhu cầu VLĐ cần thiết cho năm kế hoạch ở từng khâu kinh doanh theo phương pháp gián tiếp, doanh nghiệp có thể căn cứ vào tỷ trọng VLĐ được phân bổ hợp lý trong các khâu kinh doanh theo thống kê kinh nghiệm ở các năm trước. Phương pháp gián tiếp trong xác định nhu cầu VLĐ có ưu điểm là tương đối đơn giản, giúp doanh nghiệp ước tính được nhanh chóng nhu cầu VLĐ năm kế hoạch để xác định nguồn tài trợ phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay. 1.2.2.2. Quản lý tiền và chứng khoán ngắn hạn Vốn bằng tiền của doanh nghiệp gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng. Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp đến quyết định khả năng thanh toán của một doanh nghiệp tương ứng với quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi thường xuyên phải có một lượng tiền tương xứng mới đảm bảo cho tình hình tài chính doanh nghiệp ở trạng thái bình thường. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi lư giữ vốn bằng tiền cũng nhằm 3 mục đích sau: - Thực hiện mục đích giao dịch để doanh nghiệp có thể lưu giữ vốn bằng tiền để thanh toán tiền hàng, trả lương cho công nhân viên. - Thực hiện mục đích đầu cơ, ngoài mục đích mua bán thì doanh nghiệp còn dự trữ một lượng vốn bằng tiền để sẵn sàng thực hiện các cơ hội kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận cao. - Thực hiện mục đích phòng bị, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vốn bằng tiền vận động không theo một quy luật nhất định nào cả, do vậy doanh nghiệp phải duy trì một vùng đệm an toàn để thỏa mãn các nhu cầu chi bất thường. Nếu khả năng dự đoán cao thì nhu cầu dự trữ vốn bằng tiền cho mục đích phòng ngừa sẽ rất thấp. - Ta có thể quan sát hình dưới đây mô tả hệ thống quản trị tiền mặt, trong đó nổi bật lên các vấn đề liên quan đến quản lý tiền mặt bao gồm: quyết định tồn quỹ tiền mặt, quản lý quá trình thu chi tiền mặt và đầu tư tiền mặt nhàn rỗi nhằm mục tiêu sinh lời. 12 Thang Long University Library Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống quản lý tiền mặt a. Xác định mức dự trữ tiền mặt Việc xác định mức dự trữ tiền mặt có ý nghĩa quan trọng, giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán bằng tiền mặt cần thiết trong kỳ, tránh được rủi ro mất khả năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp dự trữ tiền mặt quá nhiều có thể gây ra tình trạng ứ đọng vốn do tiền không được đầu tư vào các tài sản sinh lời. Vì vậy doanh nghiệp cần ngoài việc dự trữ tiền còn nên chuyển sang năm giữ chứng khoán ngắn hạn có khả năng thanh khoản cao trên thị trường. Để xác định mức dự trữ tiền mặt hợp lý doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp như: Sử dụng mô hình Baumol hoặc mô hình Mille – Orrr. Mô hình Baumol dưới đây mô tả tình hình tiền mặt của công ty biến thiên như sau: Đồ thị 1.1. Đồ thị thể hiện mức dự trữ tiền mặt (Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều) 13 Giả định của mô hình: công ty áp dụng tỷ lệ bù đắp tiền mặt không đổi, không có số thặng dư tiền mặt trong kỳ hoạch định, không có dự trữ tiền mặt cho mục đích an toàn và dòng tiền tệ rời rạc. Các biến số liên quan: F: Chi phí cố định phát sinh khi giao dịch chứng khoán ngắn hạn T: Tổng số tiền mặt cần bù đắp cho giao dịch trong năm K: Chi phí cơ hội do giữ tiền mặt C: Tồn quỹ tiền mặt đầu kỳ C/2: Tồn quỹ tiền mặt bình quân T/C: Số lần công ty bán chứng khoán để bù đắp tiền mặt đã chi tiêu (T/C)*F: Chi phí giao dịch, tổng chi phí = TC = (C/2)*K + (T/2)*F Mô hình Miller – Orrr xác định các giới hạn trên và giới hạn dưới của tiền mặt. Đó là thời điểm doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ mua bán chứng khoán để cân đối lượng tiền mặt Đồ thị 1.2. Sự vận động của vốn bằng tiền theo mô hình Miller – Orrr (Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều) Nhìn vào đồ thị trên ta thấy lượng vốn tiền mặt vận động không theo quy luật đến khi đạt được một giới hạn trên. Tại điểm này doanh nghiệp sẽ dùng tiền mua chứng khoán nhằm làm giảm số dư vốn bằng tiền mục tiêu. Mức vốn bằng tiền lưu trữ giao động một cách tự do cho tới khi đạt một giới hạn trên hoặc giới hạn dưới, khi đó doanh nghiệp mua hay bán chứng khoán để tái lập số dư vốn bằng tiền mong muốn. 14 Thang Long University Library b. Quản lý các khoản thu chi bằng tiền: Doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ các khoản thu chi bằng tiền để tránh tình trạng mất mát, lạm dụng tiền của công mưu lợi cá nhân. Trong việc quản lý doanh nghiệp cần chú ý điểm sau: - Tất cả các khoản thu chi tiền phải thông qua quỹ. - Việc xuất quỹ tiền hàng ngày phải trên cơ sở phiếu thu chi tiền mặt hợp lý và hợp pháp. Sau mỗi ngày sẽ kiểm tra, nếu có chênh lệch thì thủ quỹ và kế toán phải kiếm tra để xác định nguyên nhân và kiến nghị biện pháp xử lý kịp thời. c. Tăng tốc quá trình thu tiền và làm chậm quá trình chi tiền. Đầu tư tiền nhàn rỗi Trong thời gian doanh nghiệp hoạt động ổn định, có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi, số tiền này cần được đầu tư nhằm mục đích sinh lời bằng cách mua các chứng khoán ngắn hạn. Với doanh nghiệp thương mại, thì đầu tư tiền nhàn rỗi thông qua tài sản tài chính ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại hoặc qua các nhà kinh doanh, môi giới đầu tư. 1.2.2.3. Quản lý tín dụng thương mại (Phải thu khách hàng) Trong các khoản phải thu thì khoản thu khách hàng là quan trọng nhất và chiếm tỷ lệ đáng kể. Khoản phải thu khách hàng là một bộ phận thuộc TSLĐ của doanh nghiệp phát sinh do doanh nghiệp bán chịu hàng hoá hoặc dịch vụ cho khách hàng của mình. Bởi vì do yếu tố cạnh tranh cũng như nhu cầu tăng doanh số bán ra, các doanh nghiệp luôn phải chấp nhận bán hàng theo phương thức tín dụng, cho nên các khoản phải thu là một tất yếu được xác định trong vốn lưu động của doanh nghiệp bán hàng theo phương thức tín dụng được các doanh nghiệp sử dụng như là điều kiện thanh toán, điều kiện bán hàng với khách hàng đồng thời nó cũng là công cụ của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh. Các biện pháp quản lý khoản phải thu: a. Xác định chính sách bán chịu (chính sách tín dụng TM) với khách hàng Nợ phải thu từ khách hàng của doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa, dịch vụ bán chịu cho khách hàng và thời gian bán chịu. Vì vậy để quản lý tốt các khoản phải thu trước hết chúng ta nghiên cứu các yếu tố quyết định đến chính sách bán chịu. - Mục tiêu mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. - Tính chất thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ của một số sản phẩm. 15 - Tình hình tài chính doanh nghiệp không thể mở rộng bán chịu cho khách hàng khi nợ phải thu của doanh nghiệp ở mức cao và có sự thiếu hụt lớn vốn bằng tiền trong cân đối thu chi bằng tiền. b. Phân tích năng lực tài chính của khách hàng Để tránh những tổn thấy do nợ không thể thu hồi công ty cần chú ý đến việc phân tích uy tín của khách hàng trước khi quyết định có nên bán chịu hay khong. Quy trình đánh gái uy tín tín dụng của khách hàng qua 3 bước: đầu tiên là thu thấp thông tin về khách hàng, bước thứ hai là phân tích thông tin thu thập được để phán quyết về uy tín tín dụng của khách hàng và bước ba là quyết định có bán chịu hay không. Toàn bộ quy trình được mô tải hình sau: Hình 1.2. Quy trình đánh giá uy tín khách hàng (Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều) Bước 1: Thu thập thông tin về khách hàng: Để quyết định cho khách hàng chính sách bán chịu, trước tiên doanh nghiệp cần lập được hồ sơ của khách hàng bao gồm: Thông tin cá nhân, mục đích cấp tín dụng và thời gian có thể thu hồi được nợ của khách hàng. Bước 2: Phân tích thông tin thu thập được để phán quyết về uy tín tín dụng của khách hàng: Để quyết định cấp tín dụng cho khách hàng hay không thì việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm là phân tích năng lực tín dụng của khách hàng. Để làm được điều này doanh nghiệp trước tiên phải xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý, thứ hai là xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng. Nếu tiêu chuẩn khách hàng phù hợp tiêu chuẩn tối thiểu doanh nghiệp đưa ra thì mới cấp tín dụng. Tuy nhiên tiêu chuẩn tín dụng phải phù hợp, nếu doanh nghiệp đặt ra tiêu chuẩn tín dụng quá cao có thể sẽ bị mất khách hàng có tiềm năng còn nếu tiêu chuẩn quá thấp thì đem lại doanh thu cho doanh nghiệp nhưng mặt khác doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro 16 Thang Long University Library và chi phí thu tiền cao. Sau đây là một số tiêu chuẩn để đánh giá khả năng tín dụng của khách hàng: - Phẩm chất tư cách tín dụng: Phản ánh tinh thần trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ. Điều này phản ánh trên cơ sở thanh toán các khoản nợ trước đây của doanh nghiệp và của doanh nghiệp khác. - Năng lực trả nợ: Khả năng thanh toán và dự trữ của khách hàng. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể căn cứ vào tài sản mà khách hàng mang ra thế chấp để quyết định việc có cấp tín dụng hay không. - Vốn của khách hàng: Thông qua lượng vốn của khách hàng doanh nghiệp đánh giá được sức mạnh tài chính của khách hàng. Bước 3: Quyết định chính sách bán chịu cho khách hàng: Từ những phân tích phía trên, doanh nghiệp sẽ dựa vào những tiêu chuẩn để ra quyết định xem khách hàng có đáp ứng được nhu cầu khả năng trả nợ để doanh nghiệp tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng. Sau khi cấp tín dụng, việc quan trọng mà doanh nghiệp cần làm đó là theo dõi tình hình phải thu khách hàng. Luôn mở sổ theo dõi chi tiết nợ phải thu và tình hình thanh toán với khách hàng, cần thường xuyên xem xét đánh giá tình hình nợ phải thu. Để theo dõi các khoản nợ phải thu doanh nghiệp có thể sử dụng công thức sau: Thời gian thu nợ trung bình (ACP) Thời gian thu nợ TB 360 = Số vòng quay các khoản phải thu Theo dõi sự thay đổi của thời gian thu nợ trung bình sẽ giúp các doanh nghiệp kịp thời đưa ra điều chỉnh về chính sách tín dụng và thu tiền. Tuy nhiên chỉ tiêu này không có hiệu quả khi sử dụng nội bộ để theo dõi thu tiền của doanh nghiệp. - Các tiếp cận dựa trên mẫu hình phải thu: Mẫu hình phải thu là tỷ lệ % của doanh thu bán hàng trả chậm vẫn chưa thanh toán trong tháng ghi nhận doanh thu và trong những tháng tiếp theo. Do các khoản phải thu được chia nhỏ theo từng tháng phát sinh doanh thu nên theo dõi sự thay đổi trong mẫu hình phải thu giúp các doanh nghiệp ghi nhận ngay sự thay đổi trong hành vi thanh toán của khách hàng. Thường xuyên theo dõi và phân tích cơ cấu nợ phải thu theo thời gian, xác định trọng tâm quản lý nợ phải thu để có biện pháp quản lý chặt chẽ. Ngoài ra chủ động áp dụng các biện pháp thu hồi nợ dài hạn. Trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi để chủ động bảo toàn vốn lưu động. 17 1.2.2.4. Quản lý hàng tồn kho Để xác định mức độ đầu tư vào HTK tối ưu cần so sánh lợi ích đạt được và chi phí phát sinh kể cả chi phí cơ hội của việc đầu tư vào hàng lưu kho. Hàng lưu kho thường chiếm một khoản đầu tư lớn trong doanh nghiệp và cần được quản lý hiệu quả. Trên cơ sở cân đối lợi ích đạt được và chi phí phát sinh của việc đầu tư vào hàng lưu kho., doanh nghiệp phải quản lý hàng lưu kho sao cho đảm bảo cung cấp yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, đảm bảo cung cấp đầu ra đáp ứng nhu cầu của thị trường. Việc dự trữ hàng tồn kho mang lại lợi ích cho cả hai bộ phận sản xuất và bộ phận marketing của doanh nghiệp. Mô hình EOQ (The Economic Order Quantity Model) Mục tiêu của mô hình EOQ: Mô hình EOQ xác lập nhằm mục đích xác định tần suất và số lượng đặt hàng, lượng hàng tồn kho trung bình cần nắm giữ tối ưu. Giả định của mô hình: Nhu cầu về HTK là ổn định, không có biến động về nhu cầu HTK, bao gồm cả yếu tố đầu vào đầu ra. Không có biến động về giá, không có tổn thất trong khâu dự trữ. Chi phí phát sinh loại chi phí dự trữ và chi phí đặt hàng. Thời gian đặt hàng là cố định, khoảng thời gian này có thể xác định trước một cách chính xác và không thay đổi tại các thời điểm khác nhau. Không có thiếu hụt xảy ra nếu đơn đặt hàng được thực hiện đúng hạn. Sơ đồ 1.1. Mô hình EOQ Tổng chi phí Chi phí Chi phí dự trữ Chi phí đặt hàng Số lượng đặt hàng Q* (Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều) Công thức: - Chi phí lưu kho Với lượng hàng mỗi lần đặt là Q thì lượng HTK trung bình sẽ là Q/2. Tổng chi phí lưu kho sẽ bằng số lượng HTK trung bình nhân với chi phí dự trữ của một đơn vị hàng lưu kho: Chi phí lưu kho = (Q/2) * C 18 Thang Long University Library - Chi phí đặt hàng Tương tự như vậy, với S là doanh số bán ra tính theo đơn vị sản phẩm trong một năm, số lần đặt hàng trong một năm sẽ bằng S/Q, gọi O là chi phí của mỗi lần đặt hàng, ta có tổng chi phí đặt hàng trong một năm: Chi phí đặt hàng = (S/Q) * O = S * O/Q - Tổng chi phí Để tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu, công ty cần tối thiểu hóa chi phí cho lưu trữ HTK. Tổng chi phí = Chi phí lưu kho + Chi phí đặt hàng = C * Q/2 + S * O/Q - Mức dự trữ kho tối ưu Q* Theo đúng lý thuyết, tổng chi phí cho hàng lưu cho sẽ đạt giá trị nhỏ nhất tại điểm mà đạo hàm bậc nhất của nó bằng 0. Đi tìm giá trị của biến Q mà tại đó đạo hàm bậc nhất của tổng chi phí cho hàng lưu kho = 0, ta có mức dự trữ kho tối ưu khi tổng chi phí là tối thiểu: Q* = √(2 * S * O/C) Trong đó: C: Chi phí dự trữ của một lần đơn vị hàng lưu kho. O: Chi phí cho một lần đặt hàng Q: Số lượng của một lần đặt hàng S: Số lượng bán một thời kỳ (năm) 1.2.2.5. Huy động nguồn tài trợ Nguồn tài trợ của doanh nghiệp là các nguồn tài chính mà doanh nghiệp có thể khai thác, huy động để đáp ứng nhu cầu vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể chia thành nguồn tài trợ ngắn hạn và dài hạn - Nguồn ngắn hạn: + Nợ phải trả có tính chất chu kỳ: Các khoản nợ này là khoản nợ tích lũy, luôn phái sinh thường xuyên trong hoạt động kinh doanh. Khi các khoản nợ chưa đến kỳ hạn thanh toán thì doanh nghiệp có thể xử dụng tạm thời vào các hoạt động kinh doanh của mình. 19 + Tín dụng nhà cung cấp: Là hình thức tài trợ quan trọng trong nhu cầu VLĐ ngắn hạn của doanh nghiệp, hình thành khi doanh nghiệp mua hàng hóa từ nhà cung cấp nhưng chưa phải trả tiền ngay, nên doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản mua được nhà cung cấp như nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn doanh nghiệp. + Vay ngắn hạn ngân hàng: Nguồn tài trợ quan trọng với doanh nghiệp hiện nay, sử dụng vốn vay ngân hàng là phải sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, có vật tư đảm bảo và có thời hạn kèm trả lãi. - Nguồn dài hạn: + Cổ phiếu thường: Phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán làm tăng vốn đầu tư dài hạn cho công ty, không có thời gian đáo hạn vốn nên công ty không phải trả vốn gốc theo kỳ hạn cố định nên giúp công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt trong kinh doanh. + Vay dài hạn các tổ chức tín dụng: Vay dài hạn ngân hàng là nguồn vốn tín dụng quan trọng, vay vốn dài hạn ngân hàng thông qua thời gian trên 1 năm, việc sử dụng vay nợ ngân hàng có thể mang lại lợi ích cho chủ sở hữu doanh nghiệp. 1.2.3. Chiến lược quản lý vốn lưu động 1.2.3.1. Chiến lược quản lý TSLĐ Chính sách quản lý tài sản lưu động được chia làm 2 trường phái cấp tiến và thận trọng. Hình 1.3. Mô hình quản lý tài sản lưu động Quản lý tài sản cấp tiến Quản lý tài sản thận trọng TSLĐ TSLĐ TSCĐ TSCĐ Quản lý theo trường phái cấp tiến đồng nghĩa với việc duy trì tỷ trọng TSLĐ thấp. Việc quản lý tài sản lưu động có một số đặc điểm như: mức tài sản lưu động thấp nhưng đựợc quản lý cấp tiến và hiệu quả, công ty chỉ giữ một mức tối thiểu tiền và chứng khoán, dựa vào sự quản lý hiệu quả và khả năng vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu bất thường. Thời gian quay vòng tiền ngắn. Do phải thu khách hàng và hàng 20 Thang Long University Library tồn kho giảm nên vòng quay của chúng tăng. Do đó chính sách này rút ngắn chu kỳ kinh doanh và dẫn tới rút ngắn thời gian quay vòng của tiền. Một số ưu điểm mà chính sách cấp tiến mang lại là chi phí thấp hơn dẫn tới lợi nhuận trước thuế và lãi cao hơn. Do khoản thu khách hàng ở mức thấp nên chi phí quản lý dành cho công nợ cùng tổng giá trị của những khoản nợ không thể thu hồi được sẽ giảm đi. Thêm vào đó, việc doanh nghiệp dự trữ ít hàng tồn kho hơn cũng giúp tiết kiệm chi phí lưu kho. Nhờ tiết kiệm được chi phí nên lợi nhuận của DN tăng. Tuy nhiên, DN cũng có thể gặp phải những rủi ro như: cạn kiệt hay không có đủ tiền để có được những chính sách quản lý hiệu quả, mất doanh thu khi dự trữ hàng lưu kho, mất doanh thu khi sử dụng các chính sách tín dụng chặt để duy trì khoản phải thu khách hàng thấp. Quản lý tài sản lưu động theo chính sách thận trọng: là việc duy trì tỷ trọng TSLĐ nhiều hơn TSCĐ. Chính sách này có một số đặc điểm ngược lại với chính sách quản lý cấp tiến: Thời gian quay vòng tiền dài hơn do hàng tồn kho tăng từ đó làm giảm vòng quay của hàng tồn kho kéo theo làm tăng thơi gian luân chuyển trung bình. Thêm nữa, do khoản phải thu khách hàng tăng nên làm giảm vòng quay các khoản phải thu từ đó làm tăng thời gian thu nợ trung bình. Việc dự trữ tiền, hàng tồn kho và phải thu khách hàng ở mức cao sẽ làm tăng các khoản chi phí của DN như chi phí cơ hội, chi phí dự trữ tiền, chi phí lưu kho,… Trong trường hợp này nếu DN có mức doanh thu thấp hơn sẽ kéo theo lợi nhuận thấp hơn. Mô hình quản lý tài sản thận trọng mang tính rủi ro thấp hơn do khả năng thanh toán ngắn hạn của DN được đảm bảo, dự trữ hàng tồn kho kịp thời phục vụ nhu cầu thị trường. Với chính sách quản lý thận trọng mang lại những ưu điểm nhất định như kịp thời có hàng bán khi cần thiết, khả năng thanh toán cao và độc lập về tài chính. Tuy nhiên, song song với đó là quản lý theo chiến lược này làm tăng chi phí về vốn và kéo dài chu kỳ chu chuyển của tiền. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan