Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ MỘT SỐ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CHỦ YẾU KHI PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VÙNG BỜ BIỂN...

Tài liệu MỘT SỐ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CHỦ YẾU KHI PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VÙNG BỜ BIỂN

.PDF
11
123
112

Mô tả:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CHỦ YẾU KHI PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VÙNG BỜ BIỂN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CHỦ YẾU KHI PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VÙNG BỜ BIỂN Trần Đình Lân, Karl Bruckmeier MỞ ĐẦU Nhu cầu phát triển điện gió và các nguồn năng lượng tái tạo khác ngày càng trở lên cấp thiết không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các quốc gia khác trong quá trình chuyển đối hệ thống năng lượng quốc gia theo hướng bền vững về kinh tế, xã hội và thân thiện môi trường. Trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam, mục tiêu phát triển các nguồn năng lượng mới và tái tạo được đặt ra là “Phấn đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010; khoảng 5% vào năm 2020, và khoảng 11% vào năm 2050” (Quyết định 1855/QĐ-TTg năm 2007). Để đạt được mục tiêu này, một số hoạt động triển khai điều tra, nghiên cứu tiền năng các nguồn năng lượng mới, tái tạo, trong đó có điện gió đã được thực hiện (Vũ Mạnh Hà 2007, Trần Hữu Quốc và nnk, 2007, Phạm anh Tuấn, 2007) đồng thời các thử nghiệm về năng lượng gió để phát điện cũng đã được triển khai ở vùng bờ biển và một số đảo của Việt Nam, tính đến 4/11/2011, đã có 27 dự án điện gió triển khai ở các qui mô khác nhau, tập trung chủ yếu ở vùng bờ và đảo của nước ta, các thỏa thuận hợp tác quốc tế để phát triển điện gió cũng được xúc tiến (http://vnexpress.net). Vùng bờ biển có nhiều tiềm năng để phát triển điện gió do điều kiện tự nhiên về gió thuận lợi (tần xuất, tốc độ và cường độ gió), đồng thời việc đặt các tua-bin gió cũng dễ dàng hơn (trên đất liền, đảo hoặc trên biển) và có thể phát triển thành những “công viên” tua - bin gió trên biển. Phát triển điện gió mang lại nhiều lợi ích về năng lượng bền vững cho kinh tế và xã hội, tuy nhiên cũng có những ảnh hưởng môi trường đáng chú ý mà trong quá trình xây dựng các qui hoạch, kế hoạch cũng như triển khai các dự án điện gió ở vùng bờ biển không thể bỏ qua. Kết quả điều tra ban đầu gần đây bằng bộ câu hỏi đối với hầu hết các trọng điểm nghiên cứu (bảng 1) của một số nước châu Âu và châu Á trong khuôn khổ dự án “Giải pháp xung đột môi trường vùng bờ biển – SECOA” do Ủy ban châu Âu (EC) tài trợ chính cho thấy những ảnh hưởng môi trường cần được đánh giá trong quá trình phát triển điện gió ở vùng bờ biển, đặc biệt trong điều kiện của Việt Nam khi phát triển điện gió ngày càng được chú trọng. Bảng 1. Các trọng điểm nghiên cứu của các nước tham gia dự án SECOA Nước Bỉ Ấn Độ Israel Italy Bồ Đào Nha Thụy Điển Anh Việt Nam Trọng điểm nghiên cứu Vùng Oostende và (Zee-)Brugge Mumbai và Chennai Tel Aviv và Haifa Rome và Chieti-Pescara Lisbon, Algarve và Funchal (Madeira island) Gothenburg và Malmö Thames Gateway và Portsmouth Hải Phòng và Nha Trang 1. LỢI ÍCH CỦA PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ 1 Các xung đột môi trường khi phát triển điện gió liên quan đến vị trí của tua-bin gió hay cơ sở điện gió thường bị bỏ qua do những lợi ích của hệ thống điện gió. Những lợi ích của nguồn năng lượng này có thể tóm tắt như sau: Điện gió là nguồn năng lượng không giới hạn và không phải trả tiền, ngoại trừ những đầu tư về công nghệ chuyển đổi. - Điện gió không phát thải khí độc, chất thải khó phân hủy hay khí nhà kính. - Hoạt động của thiết bị phát điện gió không cần nước và gây ô nhiễm nước. - Thiết bị điện gió có thể hoạt động trong những điều kiện khí hậu khác nhau. - Không giống năng lượng mặt trời, điện gió có thể được cung cấp suốt ngày đêm. Những tác động môi trường tiêu cực của hệ thống điện gió (tiếng ồn, gây nhiễu tín hiệu phát thanh, ảnh hưởng đời sống chim và cá) thường không lớn. Phát triển điện gió thường gây ra xung đột về vị trí đặt các tua-bin gió hoặc ‘cánh đồng’ tua-bin gió gần những khu dân cư. Tuy nhiên cho đến nay, phát triển điện gió được xem như ít tác động môi trường hơn phát triển năng lượng sinh học trên đất nông nghiệp. Phân tích vòng đời và nghiên cứu các tác động của sản xuất năng lượng sinh học cho thấy hàng loạt hậu quả môi trường không mong muốn. Năng lượng sinh học có thể không “xanh và sạch” như đã từng được xem như vậy khi phát triển ý tưởng này. So sánh các lợi ích và những nguyên nhân khác dường như cho thấy ở châu Âu, điện gió trở thành thành phần chính của hệ thống năng lượng tái tạo quốc gia, đáp ứng những biến động xã hội và môi trường lâu dài như xác định trong tầm như đến 2030: “Năng lượng gió có tiềm năng là nguồn điện rẻ nhất ở châu Âu, nhưng giống như bất kỳ công nghệ mới nổi, năng lượng gió còn gặp nhiều rào cản. Thị trường hiện nay phát triển dựa trên các nguồn năng lượng được quản lý và trợ cấp một cách nặng nề. Nếu năng lượng gió được đưa vào hệ thống cấp điện của châu Âu với mức độ đáng kể, sự phát triển năng lượng gió phải được xem ở tầm chiến lược… Một ngành năng lượng gió mạnh không chỉ có ý nghĩa trong giảm khí thải CO2, không khí sạch và an toàn đa dạng sinh học. Trong tăng trưởng kinh tế bền vững, giảm phụ thuộc nhập khẩu năng lượng, việc làm chất lượng cao, phát triển công nghệ, cạnh tranh toàn cầu và dẫn đầu về nghiên cứu và công nghiệp của châu Âu thì gió là lựa chọn hiếm hoi đáp ứng tất cả các yêu cầu trên” (TPWind Advisory Council 2006, p. 5). Xây dựng chế độ năng lượng mới liên quan đến những thay đổi về kỹ thuật cũng như xã hội, đặc biệt thay đổi về cách sống và tiêu dùng vốn là một phần của quá trình chuyển đổi hướng tới phát triển bền vững. Trong quá trình này, giảm thiểu các xung đột là cần thiết. Xung đột về vị trí phát triển điện gió là không thể tránh khỏi, nhưng cần được nghiên cứu để tìm giải pháp cho phép lồng ghép những lợi ích khác nhau và chiến lược về mặt chính trị để thay đổi hệ thống năng lượng trong mối quan tâm của tất cả các thành phần trong xã hội. - 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở CÁC VÙNG NGHIÊN CỨU TRONG DỰ ÁN SECOA Mặc dù có những lợi thế về phát triển điện gió ở vùng bờ biển nhưng ở các trọng điểm nghiên cứu của dự án SECOA, phát triển điện gió còn hạn chế, có thể do tính chất lựa chọn vùng nghiên cứu trong dự án. Kết quả điều tra thực trạng phát triển điện gió từ các nhóm nghiên cứu của dự án SECOA được tóm tắt trong bảng 2. Như vậy hệ thống năng lượng gió chưa được phát triển ở các trọng điểm nghiên cứu của dự án. Tuy nhiên, ở qui mô quốc gia, thực trạng phát triển như sau: 2 1) Ở Italia, hiện tại không phát triển điện gió ở các trọng điểm nghiên cứu, chủ yếu do điều kiện gió không thuận lợi, nhưng ở một số vùng bờ khác và trong lục địa, điện gió đang được phát triển. Điện gió có xu thế sẽ là một phần trong hệ thống năng lượng quốc gia, mặc dù chậm nhưng chắc chắn sẽ phát triển. Vai trò của điện gió có thể không quan trọng ở hầu hết các vùng bờ biển trong tương lai. Bảng 2: Thực trạng phát triển điện gió ở các trọng điểm nghiên cứu trong dự án SECOA Italy Bồ Đào Bỉ Anh Thụy Israel Ấn Độ Việt Nam Mục Nha Có, nhưng hạn chế Có (ngoài khơi, gần vùng nghiên cứu) Ít ở cửa sông Thames Đang phát triển nhưng còn điều tra về điều kiện tự nhiên, kinh tế và khó khăn trong ra quyết định Có Địa và sử đất tại Cao trong tương lai (sự phụ thuộc của quốc gia vào nhập khẩu năng lượng) Quan trọng nhưng cần giải quyết vấn đề công nghệ Giảm sự phụ thuộc năng lượng nhập khẩu Một số Phát triển điện gió ở trọng điểm nghiên cứu Không Lý do không hoặc chậm phát triển Điều kiện phát triển không thuận lợi _ Phát triển điện gió ở các vùng bờ khác Tầm quan trọng của điện gió trong hệ thống năng lượng quốc gia Có Có Khá thấp, nhưng đang tăng Tầm quan trọng của điện gió trong tương lai phát triển ở vùng bờ biển Những lý do chính phát triển điện gió ở quốc gia Tài liệu về phát triển điện gió Không ý nghĩa ở Pescara, ngày càng quan trọng ở Rome Chính sách năng lượng EU Một số Điển Có Không Không phát triển ở Mumbai, phát triển ở Chennai Nhiều nguyên nhân (điều kiện gió của địa phương, vấn đề vị trí xây dựng) Không - Điều kiện gió không thuận lợi (tốc độ nhỏ) Có Có Có (vùng núi) Có Có Cao Khá thấp Còn thấp nhưng đang tăng lên nhanh chóng Thấp Cao Thấp Tiềm năng cao ở vùng ngoài khơi Tiềm năng cao ở vùng ngoài khơi Cao Thấp Hạn chế, nhưng đang tăng lên trong tương lai gần Ngày càng tăng Chính sách quốc gia và EU Chính sách quốc gia và EU Chính sách quốc gia và EU ? Chính sách vầ chiến lược quốc gia Một số Một số ở cấp quốc gia Một số Không nhiều Nhu cầu năng lượng tăng nhanh trong vài năm gần đây Một số hình việc dụng hiện Không nhiều 2) Điện gió ở Bồ Đào Nha đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng từ năm 2000 và đang phát triển nhanh chóng cả ở vùng bờ và trong lục địa (đặc biệt ở vùng núi phía bắc Bộ Đào Nha). Mục tiêu quốc gia về phát triển năng lượng cho thấy sự quan tâm tới việc sử dụng nguồn năng lượng tái tạo vốn đã chiếm 45% sản lượng điện quốc gia và đến 2020 chiếm 31% năng lượng tiêu thụ (60% sản lượng 3 điện quốc gia). Động lực chính cho sự phát triển điện gió và các nguồn năng lượng tái tạo khác dường như có vai trò rất khác nhau do nhu cầu giảm phụ thuộc vào năng lượng không tái tạo (dầu, than, khí thiên nhiên) và nguồn năng lượng nước ngoài và nhập khẩu (chiếm 83% năm 2008). 3) Phát triển năng lượng gió ở Bỉ diễn ra chủ yếu trong thập kỷ trước và vị trí xây dựng điện gió ở vùng biển có thể sẽ là quan trọng nhất (khó có thể lựa chọn vị trí xây dựng điện gió ở khu đông dân cư). 4) Ở Anh, phát triển điện gió không mạnh ở các trọng điểm nghiên cứu, cho dù ở những vùng bờ khác và trong lục địa, điện gió đang được phát triển với mục tiêu không lớn (so với mục tiêu của Liên minh châu Âu), chiếm 15% các nguồn năng lượng tái tạo vào 2020, tức đạt 35-40% sản lượng điện từ nguồn năng lượng tái tạo. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên để phát triển điện gió ở vùng bờ biển và đặc biệt ngoài khơi là tốt và có tiềm năng lớn trong tương lai. 5) Phát triển điện gió ở Thụy Điển, cả vùng bờ và trong lục địa ít quan trọng trong thời gian dài. Gần đây, điện gió được chú trọng phát triển. Hiện nay, điện gió được xây dựng và qui hoạch ở tất cả các vùng bờ biển và trong lục địa, cho thấy những thay đổi quan trọng trong nhận thức của các bên liên quan ở qui mô quốc gia cũng như địa phương. Vùng bờ biển dường như có ý nghĩa đặc biệt cho tương lai phát triển của điện gió với những điều kiện thuận lợi về vị trí xây dựng cũng như sự đồng thuận về chính trị (để đạt mục tiêu quốc gia đến 2020: 20% sản lượng điện quốc gia từ điện gió). 6) Phát triển điện gió ở vùng bờ biển Israel cũng như ở những vùng khác không có vai trò lớn, hiện tại chỉ chiếm 0,5 % sản lượng điện. Những nghiên cứu khả thi hiện có cho thấy chỉ ở một số vùng núi, điện gió mới có ý nghĩa về kinh tế. Điều này do những yếu tố tự nhiên như không đủ tốc độ gió, thiếu những khu vực trống trải, thảm thực vật không phù hợp. Những nơi thuận lợi cho phát triển điện gió có thể đã được phát triển cho mục đích khác, chẳng hạn khu bảo tồn, hoặc vì lý do chính trị mà không phát triển được (ví dụ khu quân sự). 7) Ở Ấn Độ, điện gió hiện tại có vai trò không đáng kể ở các trọng điểm nghiên cứu (chỉ có một ‘cánh đồng’ điện gió ở Chennai) và có thể cũng chưa phát triển mạnh ở nơi này. Dù vậy, điện gió đã được phát triển ở những vùng bờ biển khác và nói chung, Ấn Độ nằm trong số những nước có sản lượng điện cao (đứng thứ 4 toàn cầu). Lý do của việc chậm hoặc không phát triển điện gió ở một số vùng bờ biển là vì điều kiện tự nhiên không thuận lợi như không đủ gió, khó tìm được vị trí trong hoặc xung quanh khu vực đô thị v.v. 8) Điện gió ở Việt Nam mới phát triển chủ yếu ở vùng bờ biển và miền Trung và đang được qui hoạch ở các vùng khác, nhưng chưa có vai trò trong hệ thống năng lượng quốc gia. Mặc dù nằm trong chiến lược phát triển năng lượng mới và tái tạo của quốc gia nhưng vai trò của điện gió trong hệ thống năng lượng quốc gia cũng chưa rõ. Đối với các nước ngoài châu Âu trong dự án SECOA, phát triển điện gió thường ở qui mô quốc gia và không giống nhau. Nhưng chính sách năng lượng được Liên minh châu Âu xây dựng hướng tới mục tiêu bền vững và gần đây được định hướng vào năng lượng tái tạo. Ủy ban châu Âu năm 2007 đã phê chuẩn mục tiêu năng lượng với sự đóng góp của năng lượng tái tạo ở các nước châu Âu đến 2020 đạt 20%. Đối với các nước châu Á trong dự án, Israel có lãnh thổ nhỏ và ít thuận lợi cho điện gió, tương lai phát triển điện gió không nhiều. Ấn Độ với lãnh thổ rộng lớn và điều kiện động lực gió khác nhau theo mỗi khu vực có thể sẽ phát triển điện gió một cách độc lập tùy theo nhu cầu năng lượng mỗi vùng. Vai trò của điện gió ở Việt Nam hiện nay chưa có ý nghĩa nhiều, mặc dù đã có một số dự án phát triển điện gió ở vùng bờ biển. 3. NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CHỦ YẾU 3.1. Quan hệ giữa phát triển điện gió và môi trường 4 Kết quả điều tra trong dự án SECOA cho thấy hai nguyên nhân chính về việc lựa chọn phát triển điện gió: a) vai trò khác nhau của điện gió trong chính sách năng lượng quốc gia và b) vấn đề về vị trí xây dựng dự án điện gió cần xem xét đến các yếu tố môi trường tự nhiên như điều kiện tự nhiên phù hợp và nhân tố xã hội như xung đột lợi ích, thiết kế các vùng phù hợp. Thực tế cho thấy sự khác biệt lớn giữa các vùng và giữa các nước. Giữa các nước châu Âu và ngoài châu Âu có những sự khác biệt cơ bản sau: các nước thành viên châu Âu tuân thủ chính sách của Liên minh châu Âu không chỉ trong phát triển điện gió mà cả trong các hệ thống năng lượng. Hơn nữa, hệ thống năng lượng của các nước thuộc Liên minh châu Âu nằm trong các mạng lưới xuất nhập khẩu giữa các nước Liên minh châu Âu. - Về các thành phần xã hội: phát triển điện gió không chỉ phụ thuộc chủ yếu và điều kiện tự nhiên thuận lợi (hệ thống điện gió không phải phát triển ở tất cả những nơi có điều kiện gió thuận lợi). Điểm quan trọng hơn là điều kiện và lợi ích xã hội cũng như chính sách hỗ trợ phát triển điện gió. Lợi ích của địa phương về điện gió là quan trọng nhưng chưa đủ để phát triển điện gió mà cần sự hỗ trợ rộng rãi hơn thông qua các chính sách quốc gia, lợi ích kinh tế của điện gió cho các doanh nghiệp năng lượng và sự chấp thuận của dân chúng. Các vị trí của hệ thống điện gió được xem như vấn đề xã hội mà cần phải giải quyết cho được xung đột lợi ích và vấn đề chi phí trực tiếp và gián tiếp cho hệ thống điện gió. - Liên quan đến các thành phần môi trường: điểm quan trọng là sản xuất điện gió cần có không gian thoáng và phát triển hệ thống điện gió tương lai phụ thuộc nhiều vào việc sử dụng đất hơn là giải pháp với hệ thống công nghiệp ưu thế vốn phụ thuộc nguồn năng lượng không tái tạo. Hơn nữa, sử dụng đất hiện phù hợp với các hệ thống này (chẳng hạn khai thác than, khoan dầu…). So với các nguồn năng lượng tái tạo khác như nhiên liệu sinh học thì điện gió dường như ít có hại cho môi trường hơn và tương đối linh động về vị trí. - Về mặt kỹ thuật: điện gió phát triển với công nghệ tiên tiến, đa dạng về các giải pháp kỹ thuật cho các tác động tiêu cực về môi trường. Hơn nữa, sự phát triển công nghệ và tính thích ứng điều kiện địa phương có thể là lợi thế. Ngày nay, có nhiều dạng tua-bin gió kích cỡ khác nhau được sử dụng và chúng được xây dựng từ một tua-bin đơn lẻ đến tổ chức thành những ‘công viên điện gió’ sản xuất điện cho mạng lưới điện của một vùng. Các dạng công nghệ và tổ chức sản xuất điện như vậy xuất hiện ở những vùng cụ thể phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và mối quan tâm của cộng đồng. Công nghệ cho phép có những giải pháp cho việc lựa chọn kích thước, vị trí và hình dạng của các tua-bin gió phù hợp với một vùng cụ thể. - Liên quan đến sự phát triển và thành phần của các hệ thống điện gió: tương lai phát triển của hệ thống điện gió cũng như định hướng phát triển bền vững nguồn năng lượng tái tạo dường như còn để ngỏ và phụ thuộc vào việc hiểu biết và phối hợp giữa người tiêu dùng, doanh nghiệp năng lượng, chính quyền, các phong trào xã hội và các nhà khoa học. Thực trạng phức tạp của sự phát triển năng lượng sinh học có lẽ không xảy ra đối với năng lượng gió. Có lẽ những tranh luận trái chiều về phát triển năng lượng sinh học sẽ tạo cơ hội tốt hơn cho năng lượng gió ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Tuy nhiên, những hạn chế của điện gió cần được thảo luận kỹ càng, cẩn thận hơn. 3.2. Ví dụ về xung đột trong phát triển điện gió ở bờ tây Thụy Điển Phát triển điện gió không những chỉ ở một vấn đề là tìm được sự đồng thuận của cộng đồng sống ở vùng bờ biển. Giải pháp hướng tới sự đồng thuận rộng rãi của xã hội là nhằm giảm thiểu xung đột lợi ích trong sử dụng đất. Phân tích xung đột và giải pháp giảm thiểu là thành phần không thể thiếu trong đánh giá tác động xã hội. Phân tích xung đột về phát triển điện gió ở trọng điểm nghiên cứu của Thụy Điển trong Dự án SECOA là một ví dụ khi xem xét tác động môi trường của phát triển điện gió ở vùng bờ biển. 5 Xung đột ở khu Kungsbacka thuộc vùng bờ đô thị Gothenburg (Böhler et al., 2011) mang tính địa phương liên quan đến sử dụng đất. Theo ý kiến của cộng đồng địa phương, xung đột về sử dụng đất có phần phức tạp. Ở Thụy Điển và nhiều nơi khác, người ta thường nói rằng, điện gió có thể phát triển ở bất cứ đâu nhưng “không ở sân sau nhà tôi - Not In My BackYard (NIMBY)” cho thấy yếu tố xung đột trong sử dụng đất xuất hiện khắp nơi khi phát triển các vị trí điện gió. Điều này có nghĩa là người ta phản đối việc lựa chọn vị trí xây điện gió gần nơi ở của mình. Các đề xuất lựa chọn vị trí điện gió cần xem xét đến xung đột giữa các cá nhân, người sử dụng và chủ đất. Số lượng và kích thước của tua-bin gió cũng có thể trở thành nguyên nhân gây xung đột. Những tua-bin nhỏ cho cá nhân sử dụng gây ít xung đột hơn so với các công viên điện gió. Yếu tố NIMBY dần mất đi trong trường hợp các lợi ích về điện gió được xác định rõ và các xung đột được công khai. Các cơ sở pháp lý về lựa chọn vị trí điện gió, ở nơi này hay nơi khác dọc bờ tây của Thụy Điển, qui hoạch phát triển phải gắn liền với sự hình thành của các nhà máy điện gió. Trước đây, phát triển điện gió đã phải dừng lại hoặc được yêu cầu nghiên cứu xem xét trước khi có quyết định. Hiện nay, việc qui hoạch đã hoàn thành và xung đột đã được giải quyết với quyết định thiết lập hệ thống điện gió. Điều đó cho thấy những thay đổi quan trọng về lợi ích giữa các bên liên quan: sự đồng thuận hướng tới nguồn năng lượng tái tạo ở mọi cấp. Trong trường hợp có xung đột, điều quan trọng là các công ty năng lượng phải hướng tới điện gió và tạo ra những tiền lệ tốt trong sử dụng điện gió. Những thành phần chính trong xung đột (lợi ích về sử dụng nguồn năng lượng bền vững xung đột với các lợi ích khác, bao gồm sử dụng cảnh quan cũng như bảo vệ tự nhiên và các loài sinh vật) cần dược liên kết với các giá trị khác cũng như các thành phần lợi ích khác ở qui mô rộng hơn. Xung đột sẽ được giải quyết khi những mâu thuẫn về lợi ích từ chỗ không rõ ràng được cụ thể hóa cho các bên liên quan. Xung đột không còn tồn tại khi mà các bên cũng nỗ lực tìm kiếm các giải pháp chung. So sánh đặc điểm của các xung đột do phát triển điện gió với đặc điểm các kiểu sử dụng đất khác ở các trọng điểm nghiên cứu của Thụy Điển cho thấy rõ ràng rằng, xung đột sử dụng tài nguyên ở địa phương phức tạp về lợi ích, nguyên nhân, các giai đoạn và qui mô. Xung đột trở thành đa qui mô đến mức liên đới đến cả các thành phần quốc gia và quốc tế, dù rằng có thể những người sử dụng tài nguyên không nhận thức được các yếu tố này. Xung đột về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là sản xuất năng lượng mới từ các nguồn năng lượng tái tạo ở vùng bờ liên quan mật thiết đến xung đột sử dụng tài nguyên khác ở ngay vùng bờ hoặc trong lục địa. Duy có ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây nên nước biển dâng và ngập lụt dường như là xung đột chỉ xảy ra ở vùng bờ. Vùng bờ biển là nơi tập trung các khu dân cư, giải trí và trong các đô thị là sự phát triển công nghiệp và ngành kinh tế khác, hơn nữa các yếu tố xã hội càng làm gia tăng xung đột sử dụng tài nguyên. Các ưu tiên quốc gia về giữ sạch vùng bờ hoặc hạn chế các hình thức sử dụng tài nguyên sao cho mọi người đều có thể đến được các bãi biển. Khi các vùng ngập lụt mở rộng và xuất hiện điều kiện thời tiết khắc nghiệt ở vùng bờ, chất lượng cảnh quan cần được lượng giá lại với các mục đích phát triển khu dân cư vì tính hấp dẫn cho mục tiêu này có thể giảm đi. Việc giảm thiểu các ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu có thể đòi hỏi tái định cư và di cư khỏi vùng bờ. Tuy nhiên, đến nay các khu dân cư mới vẫn phát triển ở vùng bờ. Ở vùng ngoại ô thành phố Gothenburg, những khu định cư mới đang được qui hoạch, tức là đang chuyển hình thức sử dụng đất cho công nghiệp và thương mại trước đây sang xây dựng nhà ở. 3.3. Nhận xét chung Phân tích và giảm thiểu xung đột liên quan đến xây dựng hệ thống năng lượng gió cần được lồng ghép như là một phần của các giải pháp cho các xung đột về sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở vùng bờ biển. Hàng loạt những biến động lâu dài về kinh tế - xã hội liên quan đến hệ thống năng lượng của một quốc gia, trong đó xung đột về phát triển các dạng năng lượng mới luôn xuất hiện. Số lượng các nguồn năng lượng tái tạo ở các nước châu Âu vẫn còn hạn chế, nhưng chính phủ các nước này đã 6 xác định lại những lợi ích quốc gia liên quan đến hệ thống năng lượng tái tạo, trong đó có điện gió. Đó chính là bước đột phá trong việc phát triển hệ thống năng lượng dài hạn, chuyển đổi từ các nguồn năng lượng hóa thạch, không tái tạo như than, dầu mỏ, khí đốt và gần đây là năng lượng hạt nhân. Mặc dù nguồn năng lượng không tái tạo đang dần cạn kiệt, nhưng sự chuyển đổi sang những nguồn năng lượng tái tạo diễn ra chậm chạp trong nhiều thập kỷ qua. Quá trình chuyển tiếp không chỉ chịu ảnh hưởng của các ngành ở qui mô địa phương, quốc gia hay khu vực mà còn ở qui mô kinh tế toàn cầu. Trong Liên minh châu Âu, dù cho ngày càng có nhiều qui định ở qui mô liên quốc gia, sự phát triển năng lượng vẫn phụ thuộc vào ưu tiên và lợi ích của mỗi quốc gia. Những phân tích gần đây cho thấy các hệ thống năng lượng là một phần của chế độ năng lượng toàn cầu vẫn phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn năng lượng không tái tạo, cũng như lợi ích kinh tế và chính trị liên quan mật thiết đến nguồn năng lượng này. Ngày nay, ở qui mô châu Âu và Liên minh châu Âu, đang bắt đầu một quá trình đa qui mô về sự chuyển đổi hệ thống năng lượng hướng tới hệ thống năng lượng bền vững. Trong khi hầu hết các nước đều chấp nhận và có chính sách hướng tới phát triển bền vững thì hệ thống năng lượng bền vững vốn là một phần trong các chính sách và chiến lược trên dường như vẫn rất phức tạp trong nhận thức và chuyển đổi. Cho đến nay, chưa có quốc gia nào xây dựng thành công một hệ thống năng lượng bền vững với sự giảm đáng kể việc tiêu thụ năng lượng. Dù gặp phải những khó khăn trong phát triển hệ thống năng lượng cho tương lai, những lợi ích của điện gió đã thể hiện ngày càng rõ ràng trong những năm gần đây, đặc biệt ở các nước châu Âu. Về lâu dài, điện gió được các nhà bảo vệ môi trường ủng hộ phát triển do khả năng vô hạn về nguồn năng lượng và không gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, những lợi thế trong xây dựng điện gió, các tác động môi trường và lợi ích liên quan đang thay đổi. Điện gió không còn là công nghệ đặc biệt hay sự lựa chọn của tương lai mà trở thành một bộ phận đáng kể trong hệ thống năng lượng quốc gia. Ngày nay, điện gió đang trở thành một hoạt động kinh tế, công nghệ và tổ chức về kinh tế cho hệ thống điện gió đã phát triển đáng kể và có sự phân hóa, đồng thời hiệu quả của điện gió cũng được hiểu biết tốt hơn. Ở châu Âu, sự phát triển của hệ thống điện gió rất khác nhau. Ở một số nước như Dan Mạch, Đức, Tây Ban Nha, điện gió đã đóng vai trò quan trọng và được phát triển từ khá lâu. Ở nhưng nước khác, như Thụy Điển, điện gió phát triển chậm chạp. Những tranh luận về vị trí phát triển điện gió ở vùng bờ biển ở châu Âu luôn là vấn đề nóng, liên quan nhiều đến xung đột lợi ích, đặc biệt là những chi phí trực tiếp và gián tiếp cho hệ thống điện gió. Sự phát triển ào ạt các hệ thống tua-bin gió đã được qui hoạch ở vùng bờ biển châu Âu nảy sinh vấn đề về những tác động tiềm tàng của các hệ thống này đến môi trường biển. Ảnh hưởng trong giai đoạn xây dựng có thể giảm thiểu đến mức chấp nhận được nếu nhà đầu tư quan tâm đến các khu vực có các sinh cảnh và các loài quí hiếm. Các tác động do tiếng ồn, rung và trường điện từ trong quá trình hoạt động của hệ thống có thể được coi là không đáng kể đối với môi trường biển, ít nhất là xem xét với tri thức hiện tại của chúng ta. Ảnh hưởng đối với đáy biển được đánh giá là mạnh nhất ở các qui mô: ở qui mô nhỏ là tác động đến vật chất, cấu trúc và tính phân dị của vật liệu thành tạo đáy biển; ở qui mô trung bình là ảnh hưởng đến các công trình bảo vệ bờ biển; và ở qui mô lớn là tác động toàn diện của toàn bộ hệ thống điện gió trong khu vực. Ảnh hưởng ở các qui mô được xem xét trong mối quan hệ với các sinh cảnh tự nhiên, các rạn nhân tạo và các công trình do con người xây dựng ở vùng biển (Petersen and Malm 2006, 75). Liên quan đến các chi phí về vị trí của điện gió ở vùng ngoài khơi và ở vùng ven biển, một số nghiên cứu đã cho thấy rằng, vị trí tối ưu cho phát triển điện gió trong tương lai là một hàm có nhiều biến được phối hợp khi so sánh lựa chọn một vị trí với các vị trí khác. Một số biến số liên quan đến chi phí đầu tư cho phát triển điện gió. Theo một số kết quả ước tính, chi phí cho lắp đặt điện gió ở trên đất liền ở Anh nằm trong khoảng 583 đến 800 bảng/KW và ở ngoài khơi là 1200 đến 1600 bảng/KW. 7 Thường thường chi phí cho lắp đặt ở ngoài khơi cao gấp đôi chi phí cho lắp đặt ở trên đất liền. Nếu các hệ thống điện gió đặt ở vùng nước sâu ngoài khơi và xa bờ thì chi phí có thể còn cao hơn nữa. Nhưng chi phí trực tiếp cho thấy phát triển điện gió trên lục địa có thể là giải pháp hấp dẫn về kinh tế, thậm chí chế độ gió không bằng ở ngoài khơi. Tuy nhiên, sự khác nhau về chi phí ngoại biên giữa các vị trí khác nhau trên đất liền với vị trí ở ngoài khơi có thể làm thay đổi quan niệm này. Chi phí môi trường thấp của các hệ thống điện gió ở ngoài khơi có thể giảm tổng chi phí đầu tư cho hệ thống so với chi phí cho hệ thống trên đất liền, mọi khả năng đều có thể xảy ra. Tuy nhiên, như đã đề cập, các giá trị như vậy sẽ phụ thuộc nhiều vào việc lựa chọn vị trí xây dựng. Theo các tài liệu hiện có, chi phí môi trường cho hệ thống điện gió ở ngoài khơi thấp hơn cho hệ thống điện gió trên đất liền. Thậm chí, các vị trí ngoài khơi này có thể nhạy cảm về mặt địa lý, các kết quả nghiên cứu vẫn cho thấy chi phí môi trường cho hệ thống điện gió ngoài khơi có thể giảm xuống nhờ đặt các hệ thống này xa bờ đáng kể, cho dù lợi ích của việc đặt hệ thống xa bờ có thể giảm (Ladenburg 2009, 179-180). Kết quả phân tích chi phí – lợi ích có thể vẫn chưa phải cơ sở đủ tin cậy cho việc quyết định lựa chọn vị trí xây dựng điện gió, không kể đến điều kiện chế độ gió ở ngoài khơi tốt hơn ở trên đất liền. Vấn đề về các tác động xã hội như phân hóa lợi ích, quan điểm khác nhau, xung đột và tác động môi trường của tiến ồn, tác động đến các loài chim và cá đòi hỏi phải có các tiêu chí về lựa chọn vị trí và quyết định đầu tư. Giống như các dạng phát điện khác, cần tính đến ảnh hưởng của chi phí cho nghiên cứu triển khai công nghệ cũng như chi phí cho sử dụng công nghệ. Về lâu dài cần xem xét những vấn đề sau khi phát triển các hệ thống năng lượng gió: Tìm kiếm sự đồng thuận của xã hội quan trọng hơn phát triển công nghệ và qui hoạch xây dựng các tua-bin gió, chẳng hạn qui hoạch có sự tham gia của cộng đồng, công dân, đánh giá các tác động môi trường tự nhiên và xã hội. Vấn đề sử dụng không gian – trên đất liền hay trên biển – vẫn còn nhiều tranh cãi về vị trí xây dựng điện gió, trên đất liên hay trên biển. Lựa chọn vị trí trên biển được coi là giải pháp tránh được vấn đề xung đột lợi ích của nhiều bên so với khi lựa chọn vị trí trên đất liền. Tuy nhiên, tìm được giải pháp đơn giản mà không dựa vào một số bên có liên quan là phi thực tế. Điện gió không chỉ được phát triển ở ngoài khơi mà giải pháp phát triển ở trên biển hay trên đất liền cần được xem xét qua các quá trình giảm thiểu xung đột lợi ích. Một trong những bài học chủ yếu rút ra trong khi tranh luận về điện gió và năng lượng sinh học vốn là những thành phần của giải pháp năng lượng cho tương lai là: sản xuất năng lượng cần không gian, không thể không có không gian hoặc quĩ đất, tương tự như thực tế diễn ra hiện nay gắn với các nguồn năng lượng hóa thạch chi phối quá trình công nghiệp hóa. Điện gió là một phần của hệ thống năng lượng quốc gia đang dược thảo luận trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ tiếp tục tăng cao, câu hỏi đặt ra là: bao nhiêu KW điện gió đã và sẽ được sản xuất và tiêu thụ đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai? Hiện nay, các hệ thống điện gió đang phát triển nhanh chóng và các nước châu Âu, đặc biệt một số nước như Tây Ban Nha và Đức đã phát triển mạnh hệ thống này; một số quốc gia cũng đặt mục tiêu sản lượng điện gió sẽ đóng vai trò ngày càng cao, chẳng hạn Thụy Điển đặt mục tiêu điện gió sẽ chiếm 20% sản lượng điện quốc gia vào 2020. Về lâu dài, phát triển hệ thống năng lượng phải hướng tới phát triển bền vững, không những duy trì tiêu thụ năng lượng cao với sự phát triển của các nguồn năng lượng mới mà cần thường xuyên tìm các giải pháp để giảm tiêu thụ năng lượng. Các chính sách phát triển bền vững trong đó điện gió là phần quan trọng liên quan mật thiết đến những tranh luận về chiến lược và quá trình hướng tới bền vững. Vì quá trình này chịu ảnh hưởng mạnh của các chiến lược quốc gia, cần đặt chiến lược phát triển bền vững ở qui mô địa phương. Các kết quả điều tra trình bày ở phần trên là những ví dụ về các yếu tố địa phương vốn luôn cần được xem xét trong chiến lược phát triển bền vững. Kết quả nghiên cứu về so sánh phát triển điện gió ở Italia và Thụy Điển của Oles and Hammarlund (2011, p. 481f) cho thấy: luôn phải có sự hài hòa giữa nhu cầu 8 địa phương với mục tiêu tổng thể và các vị trí cụ thể không bao giờ có cùng giá trị; cần coi trọng các thể chế ở địa phương ngang bằng thể chế cao hơn trong việc tạo sự hài hòa của phát triển điện gió với cảnh quan thiên nhiên. KẾT LUẬN Điện gió là một trong những nguồn năng lượng tái tạo đầy tiềm năng và ngày càng được các quốc gia quan tâm trong bối cảnh những rủi ro về khủng hoảng nguồn năng lượng ngày càng lớn do dựa quá nhiều vào năng lượng hóa thạch vốn là nguồn năng lượng không tái tạo. Phát triển điện gió cũng gây nên những tác động môi trường tiêu cực, đặc biệt tiếng ồn và rung cũng như những xung đột trong sử dụng đất ven biển cũng như làm biến đổi động lực và cấu trúc vùng biển và đáy biển cần phải xem xét đánh giá cụ thể khi phát triển các dự án ở vùng bờ biển. Mặc dù vấn có những tác động môi trường vốn không thể tránh khỏi, nhưng những kết quả điều tra nghiên cứu trên cho thấy điện gió vẫn là một trong số ít các nguồn năng lượng mà khi khai thác sử dụng ít gây tác động tiêu cực tới môi trường nhất. Do vậy, đây là nguồn năng lượng cần được chú trọng phát triển trong chính sách năng lượng của Việt Nam. LỜI CẢM ƠN Các tác giả xin chân thành cảm ơn Ủy ban châu Âu (EC) đã hỗ trợ cho nghiên cứu này thông qua Dự án SECOA thuộc Chương trình khung số 7 (FP 7), cảm ơn các đồng nghiệp ở các quốc gia thành viên của Dự án SECOA đã cung cấp thông tin, tư liệu cho nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barrow, C.J., 1996. Environmental and Social Impact Assessment. An Introduction. London et al.: Arnold. 2. Böhler, Tom, 2004. Vindkraft, landskap och mening. Gothenburg University, Department of Environmental and Regional Studies of the Human Condition, Human Ecology Section (PhDThesis in human ecology). 3. Böhler, Tom; Bruckmeier, Karl; Morf, Andrea; Stepanova, Olga, 2011. National report Sweden. Secoa project, case studies resource use conflicts. Gothenburg University, School of Global Studies. 4. European Commission, 2008. Offshore Wind Energy: Action needed to deliver on the Energy Policy Objectives for 2020 and beyond. Communication COM(2008)768fin. 5. Jessup, Brad, 2010. Plural and hybrid environmental values: a discourse analysis of the wind energy conflict in Australia and the United Kingdom (Environmental Politics, 19, 1, 21–44). 6. Vũ Mạnh Hà, 2007. Phát triển năng lượng gió ở Việt Nam. Trong “Năng lượng biển Việt Nam – Tiềm năng, công nghệ và chính sách”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học toàn quốc, Hà Nội, trang 117-128. 7. Kungsbacka, 2009. Översiktsplan för vindkraft. Tillägg till Översiktsplan för Kungsbacka kommun, ÖP06. 9 8. Ladenburg, Jacob, 2009. Stated Public Preferences for On-land and Offshore Wind Power Generation—A Review (Wind Energy 2009, 12, 171–181). 9. Morf, Andrea, 2006. Participation and Planning in the Management of Coastal Resource Conflicts. Gothenburg University, School of Global Studies, Human Ecology Section. PhDThesis in Human Ecology. 10. NVV (Naturvårdsverket), 2008. Naturvårdsverket och vindkraft i Sverige. Vindkraftseminar Stickelstad 2008-08-(25-27), presentation by Alexandra Noren. 11. Oles, Thomas; Hamamrlund, Karin, 2011. The European Landscape Convention, Wind Power, and the Limits of the Local: Notes from Italy and Sweden (Landscape Research, 36, 4, pp. 471485). 12. Petersen, Jens Kjerulf; Malm, Torleif, 2006. Offshore Windmill Farms: Threats to or 13. Possibilities for the Marine Environment (Ambio, 35, 2, 75-80). 14. Trần Hữu Quốc, Nguyễn Văn Cư, Dương Duy Hoạt, 2007. Tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng gió tại đảo Quán Lạn. Trong “Năng lượng biển Việt Nam – Tiềm năng, công nghệ và chính sách”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học toàn quốc, Hà Nội, trang 129-145. 15. Solli, Jøran, 2010. Where the eagles dare? Enacting resistance to wind farms through 16. hybrid collectives (Environmental Politics, 19, 1, 45–60). 17. TPWind Advisory Council, 2006. Wind Energy: A Vision for Europe in 2030. Brussels. 18. Phạm Anh Tuấn, 2007. Tiềm năng và cơ hội phát triển năng lượng gió ở Việt Nam. Trong “Năng lượng biển Việt Nam – Tiềm năng, công nghệ và chính sách”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học toàn quốc, Hà Nội, trang 158-166. 19. Vindforsk et al., 2008. Forskning för mer och bättre vindkraft. Vindforsk–II syntesrapport. Stockholm. 20. Quyết định 1855/QĐ-TTg năm 2007 phê duyệt chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành 21. http://vnexpress.net/gl/khoa-hoc/2011/11/viet-nam-giau-gio-nhat-dong-nam-a/. Việt Nam giàu gió nhất Đông Nam Á. 22. http://devi-renewable.com/2011/10/27/list-of-wind-farms-in-vietnam/. Năng lượng tái tạo Việt Nam. 10 Summary Critical environmental issues in development of coastal wind power Trần Đình Lân, Karl Bruckmeier Windpower is missing or insignificant in most of countries over the world as well as the areas in the SECOA project; but the situation is specific for every area and country and can be understood only when seen in the larger context of energy policy of the respective country. Also, in the countries where no wind energy was generated in the SECOA study areas, windpower development happens in other areas or through national energy policy. The main reasons for selective development of windpower in coastal areas seem to be the different role given to windpower in national energy policies and the location question which includes as well environmental factors (good natural conditions) as social factors (interest conflicts, designation of suitable areas). The development of windpower in coastal areas has generally few critical environmental impacts, mainly related to noise and vibration due to windmill operation. The most social critical environmental problem of windpower development is related to landuse in coastal areas and sea use. However, wind energy is a very potentially renewable that need to pay attention to developed in the future. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan