Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề huy động vốn trong nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại h...

Tài liệu Một số vấn đề huy động vốn trong nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở việt nam hiện nay

.PDF
43
44
69

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên nhƣ một vấn đề cấp bách. Đầu tƣ và tăng trƣởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trƣởng kinh tế, để thực hiện chiến lƣợc phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nƣớc ta cần đến một lƣợng vốn lớn. Vốn cho phát triển kinh tế- xã hội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nƣớc ta. Đƣơng nhiên để duy trì những thành quả đã đạt đƣợc của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua, giữ vững nhịp độ tăng trƣởng kinh tế cao, tránh cho đất nƣớc rơi vào tình trạng lạc “tụt hậu” so với nhiều nƣớc láng giềng trong khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay nƣớc ta đang tìm mọi cách khơi dậy mọi nguồn vốn trong nƣớc từ bản thân nhân dân và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã có tại các cơ sở quốc doanh. Nguồn nƣớc ngoài từ ODA, NGO và từ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài FDI. Tuy nhiên cần thấy rõ nguồn vốn trong nƣớc là chủ yếu, nguồn vốn trong nƣớc vừa phong phú vừa chủ động nằm trong tầm tay. Nguồn trong nƣớc vừa là tiền đề vừa là điều kiện để “ đón” các nguồn vốn từ nƣớc ngoài. Nguồn vốn nƣớc ngoài sẽ không huy động đƣợc nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu nguồn vốn “bạn hàng” trong nƣớc. Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lợi đã mở ra những khả năng to lớn để huy động nguồn vốn từ bên ngoài, nhƣng nguồn vốn ở trong nƣớc đƣợc xem là quyết định cho sự phát triển bền vững và độc lập của nền kịnh tế. Qua nghiên cứu thực tế, và với cơ sở kiến thức đã tích luỹ đƣợc trong thời gian qua em nhận thấy tầm quan trọng của việc huy động nguồn vốn đầu tƣ trong nƣớc phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Cũng nhƣ xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề này, em chọn đề tài: “Một số vấn đề huy động vốn trong nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay”. 1 Nội dung của đề tài này bao gồm các nội dung sau: PHẦN 1: Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn. PHẦN 2: Thực trạng huy động vốn trong nước trong thời gian qua ở Việt nam. PHẦN 3: Định hướng và giải pháp huy động vốn trong nước ở Việt nam trong thời gian tới. 2 PHẦN 1 CƠ SỞ PHƢƠNG PHÁP LUẬN ĐỂ HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN 1/ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM. Trƣớc hết, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất, đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu qủa các hoạt động kinh tế, nó bao gồm những nguồn vật tƣ và tài sản trong các doanh nghiệp, nguồn tiền mặt hoặc các tài sản khác dự trữ trong dân. Vì vậy, chính sách tạo vốn cơ bản phải tuân thủ nguyên tắc lợi ích của ngƣời có vốn và do đó, việc sử dụng vốn nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Mục tiêu của chính sách tạo vốn trƣớc hết và chủ yếu là tạo ra môi trƣờng kinh tế và tiền đề pháp lý để biến mọi nguồn tiền tệ thành tƣ bản sinh lợi và tăng trƣởng trong quá trình tái sản xuất xã hôị. Các nguồn chủ yếu bao gồm :vốn đầu tƣ kinh tế của nhà nƣớc, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền và tiền nhàn rỗi của dân cƣ và vốn của các doanh nghiệp và tổ choc tài chính quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay vốn là yếu tố vật chất quan trọng nhất cho tăng trƣởng. Để tao ra tốc độ tăng trƣởng kinh tế từ 7-8% thì cần tích luỹ một lƣợng vốn từ 20- 25% GDP. Nếu trong những năm tới mục tiêu tăng trƣởng kinh tế là hai con số trong vài thập niên tới thì cần thì tỷ lệ tích luỹ vốn phải lên tới trên 30% GDP. Đây là một nhu cầu lớn cần phải giải quyết để khai thác nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nƣớc. Vốn ngân sách nhà nƣớc một thời gian giảm xuống nay đã bắt đầu tăng lên. năm 1990 là 20% thì tới năm 1994 đã tăng lên là 44% ngân sách. Để đạt đƣợc kết quả đó thì nguyên nhân cơ bản là chính sách thuế đã đƣợc cải cách một cách toàn diện và thu đƣợc nhiều kết quả cho ngân sách. Năm1990 thu ngân sách từ thuế phí chiếm 73,69%, năm 1993 phần thu đó là 93,8%. Nếu so với GDP thì các tỷ trọng tƣơng tự là 17,3% và 17,06% vốn huy động từ các nguồn khác cũng có xu hƣớng tăng do chính sách khuyến khích đầu tƣ, tƣ nhân và tạo dựng đƣợc 3 môi trƣờng đầu tƣ cho mọi thành phần kinh tế phát triển. Điều mà ai cũng có thể đồng ý với nhau là một nền kinh tế kém phát triển có thể cất cánh đƣợc nếu không có sự tham gia của các nguồn vốn từ nƣớc ngoài. Vai trò của nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa quan trọng nhằm hỗ trợ khai thông những cản ngại, tạo sức bật cho nền kinh tế phát triển. Vì vậy chúng ta nên nỗ lực huy động nguồn vốn từ bên ngoài dƣới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không nên trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn từ bên ngoài. Trong việc huy động vốn để đầu tƣ phát triển, chúng ta cần phải khẳng định vai trò của nguồn vốn trong nƣớc đóng vai trò quan trọng hay quyết định. Mặc dù nguồn vốn này còn thấp so với vốn dài hạn ( cho thời kỳ 1996- 2000) vẫn còn khó huy động trong hiện tại. Theo ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nƣớc , cùng với kinh nghiệm của các nƣớc đang phát triển cho thấy: Nguồn vốn trong nƣớc vẫn là nguồn vốn có tính chất quyết định, ngƣời dân trong nƣớc vẫn chƣa dám bỏ vốn ra đầu tƣ thì ngƣời nƣớc ngoài cũng chƣa mạnh dạn bỏ vốn dầu tƣ vào Việt nam. Vấn đề đặt ra là không phải tìm mọi cách để huy động cho đƣợc các nguồn vốn, mà phải coi trọng việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ấy cho đầu tƣ phát triển sao cho có hiệu quả để nguồn vốn ấy sinh sôi nảy nở và đạt đƣợc chiến lƣợc hiệu quả kinh tế - xã hội đề ra. Đầu tƣ phát triển phải đảm bảo đƣợc các yêu cầu sau: Phải đƣợc tính bền vững trong đầu tƣ phát triển, tức là tự bản thân nó phải có mầm mống cho tăng trƣởng trong tƣơng lai, nhằm sử dụng tài nguyên một cách hợp lý để không ngừng khai thác lợi thế so sánh của tiềm năng đất nƣớc. - Sử dụng nguồn vốn đầu tƣ phát triển phải có hiệu quả để tái tạo và phát triển các nguồn vốn, tạo tiền đề cho việc huy động vốn ở giai đoạn tiếp theo. - Nền kinh tế Việt nam có xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân đầu ngƣời khoảng 300 đô la/ năm, lại nằm trong khu vực ASEAN có tốc độ tăng trƣởng cao, nên Việt nam phảt duy trì tốc độ tăng trƣởng cao để đuổi kịp các nƣớc trong khu vực trong vài thập niên, mặc dù chịu tác đông nhất định của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực . 4 Vì vậy Chính phủ phải có kế hoạch,huy động vốn phù hợp với khả năng phát triển của nền kinh tế, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân dân. trong việc duy trì và phát triển nền kinh tế, nếu không có vốn thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không thể thực hiện đƣợc. . Vốn đầu tư: - Khái niệm: Vốn đầu tƣ là những chi phí để tái sản xuất tài sản cố định bao gồm các chi phí để thay thế những tài sản cố định bị thải loại để tăng mới các tài sản cố định và để gia tăng các tài sản cố định tồn kho. - Các hình thức đầu tƣ: + Đầu tƣ trực tiếp. + Đầu tƣ gián tiếp. . Cơ cấu vốn đầu tư: a. Nguồn vốn trong nƣớc bao gồm các loại vốn chủ yếu sau: - Vốn huy động từ ngân sách nhà nƣớc. - Vốn huy động trong dân cƣ. - Vốn huy động từ tiết kiệm của các doanh nghiệp. b. Nguồn vốn ngoài nƣớc bao gồm: - Vốn đầu tƣ trực tiếp - Vốn đầu tƣ gián tiếp - Vốn hỗ trợ và phát triển chính thức. 2/ CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƢỚC. 2.1/ Vốn huy động từ ngân sách nhà nước Là bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lƣợng đầu tƣ, nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh đầu tƣ của mọi thành phần kinh tế theo định hƣớng chung của kế hoạch. Chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định hƣớng của chiến lƣợc và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội. 5 Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nƣớc và nguồn thu bổ sung từ bên ngoài, chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít là vay nợ của tƣ nhân nƣớc ngoài. Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách nhà nƣớc cần có những sửa đổi trong chính sách đầu tƣ. Nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nƣớc:là các nguồn tàI chính có khả nămg tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nƣớc do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nƣớc mang lại. -Nguồn thu đƣợc hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất. -Nguồn thu đƣợc thực hiện trong khâu lƣu thông-phân phối. -Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ. Thu ngân sách nhà nƣớc bao gồm các khoản: -Thuế ,phí và lệ phí. -Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nƣớc. -Thu lợi tức cổ phần của Nhà nƣớc. -Các khoản thu khác theo luật định. Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nƣớc hàng năm mà còn là công cụ của Nhà nƣớc để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nƣớc không ngừng tăng lên qua các năm, bình quân từ 13,1% GDP (thời kỳ1986- 1990) lên 20,5% ( thời kỳ 1991- 1995) ngân sách nhà nƣớc từ chỗ thu không đủ chi đến nay đã có một phần tích luỹ dành cho đầu tƣ phát triển từ 2,3% GDP năm 1991 tăng lên 6,1% GDP vào năm 1996 ( nếu cả do khấu hao cơ bản). Nguyên nhân chủ yếu của nó là: - Ngân sách nhà nƣớc đã điều chỉnh lại cơ cấu đầu tƣ nhằm tạo ra các tiền đề thu hút vốn đầu tƣ. - Chi của ngân sách nhà nƣớc dành cho đầu tƣ phát triển chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xã hội. 6 - Ngân sách nhà nƣớc không còn bao cấp cho các xí nghiệp nhà nƣớc thông qua cổ phần hoá và tập trung đầu tƣ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp- lâm nghiệp. Mục tiêu của huy động vốn ngân sách nhà nƣớc phải dành khoảng từ 2025% tổng số chi ngân sách cho đầu tƣ phát triển hàng năm. Khai thác có hiệu quả tín dụng nhà nƣớc đầu tƣ phát triển, đồng thời phải đẩy mạnh hình thức vay vốn trong nhân dân, cho đầu tƣ phát triển kinh tế là quốc sách hàng đầu. Muốn đạt đƣợc các hiệu quả trên cần phải thực các biện pháp sau: Hình thành nguồn vốn đầu tƣ trong ngân sách: Các biện pháp quan trọng nhất để tăng thu là thu đúng, thu đủ các khoản vay trong nƣớc. Thu ngân sách nhà nƣớc trong sự phát triển bền vững, tức là thu nhƣng không làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bổi dƣỡng phát triển và mở rộng các nguồn thu một cách vững chắc, lâu bền. Điều đó nghĩa là cần xác định mức thu hợp lý vừa đảm bảo NSNN có nguồn thu cao, vừa đảm bảo để các đối tƣợng NSNN có đủ điều kiện tài chính tiếp tục phát triển. Xác định mức thu tại diểm “giới hạn tối ƣu”này không đơn giản mà cần phân tích, cân nhắc nhiều nhân tố khác nhau. Những nguồn thu thuộc khu vực kinh tế quốc doanh và có ý nghĩa đặc biệt thì cần chú ý bồi dƣỡng thông qua các biện pháp hỗ trợ đầu tƣ, trợ giúp về khoa học kỹ thuật, công nghệ và nhân lực... trong một chừng mực không bao cấp. Không tận thu NSNN quá mức để bao cấp trong cấp phát mà chỉ thu trong chừng mực tốt nhất để đáp ứng các nhu cầu chi của Nhà nƣớc. Đối với những ngành , những địa phƣơng có thất thu lớn thì cần tăng cƣờng thu và tận thu, nhƣng quan điểm bao trùm thì không phải là tận thu-Vì điều đó sẽ ảnh hƣởng đến khả năng tăng trƣởng của nền kinh tế. + Cải tiến các hệ thống thuế, làm cho diện thu thuế tăng lên, nhƣng thuế xuất đơn giản hoá. Kết quả là: giảm đƣợc tỷ lệ trốn lậu thuế, tăng nguồn thu cho ngân sách, đáp ứng đƣợc nhu cầu chi thƣờng xuyên và chi cho đầu tƣ phát triển, 7 đồng thời tránh đƣợc các khoản lạm thu, gây khó khăn phiền hà đến sinh hoạt và các hoạt động khác của đời sống dân cƣ. + Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo đúng đối tƣợng trả nợ và tính kỹ các điều kiện trả trƣớc khi ký hợp định khung vay vốn, và hiệp định vay cho từng công trình, chƣơng trình dự án đầu tƣ. Các chính sách về ngân sách nhằm huy động vốn dàI hạn cho phát triển kinh tế xã hội cần thƣờng xuyên đổi mới cảI tiến các hình thức huy động, đặc biệt là hệ thống thuế. - Phân bổ và sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc + Tăng quy mô đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc và sử dụng đúng hƣớng nguồn vốn này với biện pháp bao chùm là chống thất thu và tiết kiệm chi thƣờng xuyên để tăng quy mô nguồn đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc. + Từng bƣớc xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp trong lĩnh vực cấp phát quản lý đầu tƣ xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn của nhà nƣớc. + Tăng cƣờng công tác quản lý sau dự án. Những dự án này dùng nguồn vốn nhà nƣớc thƣờng có quy mô vốn rất lớn, hiện nay việc thẩm định các dự án là tƣơng đối chặt chẽ thì trái lại việc quản lý sau dự án lại bị buông lỏng dẫn đến tình trạng chi tiết trên danh nghĩa nhƣng lại lãng phí trên thực tế. Sử dụng nhiều cơ chế khác nhau để quản lý vốn, với nguồn vốn nhà nƣớc đƣợc thông qua vay nƣớc ngoài với điều kiện ƣu đãi thì tiến hành cho vay lại để tạo điều kiện bình đẳng trong sản xuất kinh doanh và tái tạo nguồn vốn. Tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách hiện vẫn là một khả năng rất lớn cần tận dụng, bởi lẽ so với các nƣớc tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nƣớc là tƣơng đối cao. Tỷ lệ thuế ở các nƣớc so với GDP là tƣơng đối cao ( thƣờng đạt mức dƣới 20% ). 2.2/ Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp nhà nước. Trong chiến lƣợc ổn định kinh tế Việt nam đến năm 2000, Đảng ta đã chỉ rõ “ chính sách tài chính quốc gia hƣớng vào việc huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân” . Tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một vấn đề mà Đảng và 8 các doanh nghiệp nhà nƣớc luôn quan tâm. Bởi có huy động đƣợc vốn mới tiến hành đƣợc quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nƣớc. Đối với doanh nghiệp, chính sách tài chính hƣớng vào các việc mở rộng khả năng hoạt động mạnh mẽ có hiệu quả cao của các đơn vị sản xuất kinh doanh, đó là những tế bào tài chính; làm cho các nguồn vốn chu chuyển nhanh và linh hoạt, đồng thời tạo ra cơ sở để nhà nƣớc có khả năng kiểm soát đƣợc nền tài chính quốc gia. Trong lĩnh vực đầu tƣ cho khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc cần phải thực hiện một số giải pháp và chính sách sau: -Các doanh nghiệp nhà nƣớc thuần tuý kinh doanh tự huy động nguồn vốn trong xã hội hoặc tín dụng ngân hàng để đảm bảo đƣợc điều kiện đầu tƣ bình đẳng với các thành phần kinh tế của doanh nghiệp. -Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nƣớc, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp thật cần thiết, còn cho phép chuyển đổi hình thức sở hữu, với sở hữu đan xen, cổ phần hoá" Đồng thời trong cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đẳng tối đa, cùng loại hình hoạt động, nếu nhƣ không có các quy chế đặc biệt thì đều có cơ chế về thuế, tín dụng và lãnh thổ. - Cùng với quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế, cần xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ để tránh tình trạng thêm tầng lớp trung gian, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các bộ chuyển nhanh sang các chức năng quản lý nhà nƣớc và chuyển nhanh về cơ chế Bộ chủ quản để các doanh nghiệp tự chủ trong bảo bảo toàn và phát triển nguồn vốn. - Hiện nay nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Bởi lẽ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp, công nghệ chƣa đƣợc đổi mới, chất lƣợng của sản phẩm chƣa cao, nên khả năng tiết kiệm cho đầu tƣ chƣa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao chƣa đƣợc quản lý nghiêm ngặt và khấu hao đủ. Vì vậy để huy động đƣợc nguồn vốn lớn trong doand nghiệp nhà nƣớc thì đòi hỏi nhà nƣớc phải tiến hành sửa đổi và ban hành các chính sách để khuyến khích doanh nghiệp làm ăn có hiệu , để có thể đầu tƣ phát triên sản xuất. 9 - Trong giai đoan 1996- 2000 vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc tự đầu tƣ khoảng14-15% tổng số của toàn xã hội. Mở rộng quyến tự chủ của các doanh nghiệp theo hƣớng cơ cấu lại vốn sản xuất và tài sản của doanh nghiệp một cách hợp lý, tính đầy đủ giá trị quyền sử đất vào vốn vào tài sản tại doanh nghiệp. 2.3/ Nguồn vốn huy động từ trong dân cư: Theo ƣớc tính của các chuyên gia về kinh tế tài chính nguồn vốn trong dân cƣ có khoảng 6 tỷ USD đƣợc sử dụng qua điều tra của bộ kế hoach kế hoạch đầu tƣ và tổng cục thống kê nhƣ sau: - 44% để dành của dân là dùng để mua vàng và ngoại tệ - 20% để dành của dân đƣợc dùng để mua nhà đất và cải thiện đời sống sinh hoạt. - Tuy nhà nƣớc cho phép các doanh nghiệp nhà nƣớc huy động vốn từ trong dân với nhiều chính sách khác nhau, khi thực tế áp dụng còn nhiều ràng buộc. Để tăng cƣờng sử dụng nguồn vốn của nhân dân hay vốn ngoài vùng ngân sách thì cần phải có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm giàu chính đáng tạo lòng tin cho nhân dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tƣ, tiềm lực trong nhân dân còn rất rất lớn, muốn vậy nhà nƣớc phải ổn dịnh tiền tệ. Vốn đầu tƣ của tƣ nhân và dân cƣ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, mở mang ngành nghề ở nông thôn phát triển công nghiệp thủ công, thƣơng mại , dịch vụ, vận tải…Vì vậy chúng ta cần phải thực hiện các chính sách sau: - Đa dạng hoá các công cụ, huy động vốn để cho mọi ngƣờ dân ở bất cứ nơI nào cũng có đIều kiện sản xuất kinh doanh. - Tăng lãi xuất tiết kiệm đảm bảo lãi xuất dƣơng. - Khuyến khích sử dụng tài sản cá nhân, thực hiện chế độ thanh toán tiền gửi ở một nơi và rút ra bất cứ lúc nào, có vậy chúng ta mới đƣa đƣợc nguồn vốn dƣới dạng cất giấu vào lƣu thông. 10 - Tao môi trƣờng đầu tƣ thông thoáng và thực hiện theo quy định của luật pháp để ngƣời dân dễ dàng bỏ vốn đầu tƣ. - Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích các hộ gia đình ở các vùng nông thôn, vốn vào sản xuất trên cơ sơ khai thác thế mạnh của từng vùng, phát huy truyền thống hiện có của địa phƣơng. - Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích tƣ nhân trong nƣớc nhƣ tự đầu tƣ - Thực hiện chính sách xã hội hoá dần đầu tƣ phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của nhân dân. 2. 4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Nó có tầm quan trọng đặc biệt cho việc phát triển kinh tế với phần lớn các nƣớc đang phát triển và là điều kiện để nhang chóng thiết lập cacad quan hệ kinh tế quốc tế, gắn thị trƣờng nội dịa với thị trƣờng thế giới trên cả bốn mặt :thị trƣờng hàng hoá, thị trƣờng tàI chính, thị trƣờng lao động và thị trƣờng thông tin. Vì vậy, phảI xây dung một chiến lƣợc kinh tế đối ngoại đúng đắn, phù hợp voí những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị -xã hội và khoa học hiện nay. Cần có chính sách tàI chính thích hợp để khuyến khích đầu te nƣớc ngoàI dƣới hình thức vay nợ, đầu tƣ tàI chinh, đầu tƣ trực tiếp, mở chi nhánh kinh doanh, thuê chuyên gia… Thực hiện chế độ tàI chính ƣu tiên nhƣ thuế nhập khẩu vật tƣ kỹ thuật , dịch vụ thông tin, thuế xuất nhập khẩu thành phẩm, thuế thu nhập , quyền đƣợc đảm bảo tàI sản, đIều kiện chuyển lợi nhuận và vốn về nƣớc và các dịch vụ đầu tƣ ƣu đãI khác. Khuyến khích đặc biệt đôi với đầu tƣ nƣớc ngoàI cho các công trình cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, công nghệ mũi nhọn, các ngành sử dụng nhiều lao độngvà những dự án khai thác tài nguyên có số vốn khổng lồ. Mở rộng thị trƣờng hối đoái bằng cách cho phép nhiều ngân hàng thƣơng mại có đủ điều kiện về vốn và nghiệp vụ, đƣợc kinh doanh ngoại hối và thực hiện dịch vụ thanh toán ngoại thƣơong nhanh chóng, thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc . 11 Tóm lại, việc kết hợp giữa “khơi trong “ và “hút ngoài”;giữa vốn tập trung của Nhà nƣớc và vốn doanh nghiệp (có đƣợc từ mọi nguồn )theo một định hƣớng đầu tƣ đúng đắn trong một cơ chế hoạt động tài chính thích hợp với tong giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nƣớc ta là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc củng cố và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, đồng thời cũng là nhân tố tạo nên bƣớc chuyển biến có ý nghĩa cơ bản của công cuộc đổi mới cơ chế kinh tế. 3/ VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG NƢỚC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƢỚC. 3.1/ Vốn trong nước với vấn đề đáp ứng nhu cầu của đẩu tư cho phát triển kinh tế. - Chủ trƣơng phát triển nền kinh tế hàng hoá có tính kế hoạch nhiều thành phần , định hƣớng XHCX nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội, khai thác và sử dụng có tiềm năng vốn của đất nƣớc đã đặt nền kinh tế nƣớc ta đến một loạt các mâu thuẫn lớn cần giải quyết cấp bách. Trong đó có mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tƣ và nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu ấy. Việc đánh giá đúng nguồn vốn và việc sử dụng nó trong thời gan vừa qua nó cho chúng ta những cơ sở để tạo ra chiến lƣợc tạo vốn nhằm khai thác mọi tiềm năng về vốn và định hƣớng chính sách sử dụng nguồn vốn có hiệu - Đối với việc huy động vồn trong nƣớc thì đây chính là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng, quyết định. Trong khi đất nƣớc nghèo nàn, khả năng tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những phần chi tiêu không mang lạI hiệu quả thì nó không những là quốc sách mà chúng ta cần có các giảI pháp để hoàn thiện dần; Nhà nƣớc , các doanh nghiệp, hộ gia dình, các tổ chứ tài chính…Phải gắn tiết kiệm với tích luỹ trong sự tác động của các các nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế đã huy động tối đa các nguồn vốn trong nƣớc. - Vốn đầu tƣ trong nƣớc đƣợc hình thành từ các nguồn vốn trong các khu vực: Nhƣ ngân sách nhà nƣớc, tín dụng nhà nƣớc, doanh nghiệp nhà nƣớc và các tổ chức tín dụng tƣ nhân. 12 - Vốn đầu tƣ từ khu vực nhà giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tƣ vào khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội, các công trình công cộng, hỗ trợ các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, hải đảo... Vốn đầu tƣ của tƣ nhân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn,mở mang các ngành nghề ở nông hôn phát triển, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, dịch vụ và thƣơng nghiệp. Nguồn vốn trong nƣớc tiếp tục tăng cả về tốc độ tuyệt đối và tốc độ tƣơng đối trong GDP từ 10,1% năm 1991 lên tới 19% năm 1995, sau đó ổn định ở mức 16-17% GDP và là động lực chủ yếu gia tăng tổng nguồn vốn đầu tƣ toàn xã hội mà kết quả cuả nó là sự phát triển của nền kinh tế. Tổng sản phẩm trong nƣớc thời kỳ 1991- 1995 tăng lên với tốc độ 8,5% trong đó nông nghiệp và thuỷ sản tăng 4,4% , công nghiệp và dịch vụ tăng 13,2%, dịch vụ tăng 8,6%. Trong tƣơng lai cần tiến hành làm thông thoáng thị trƣờng vốn, tích cực hình thành thị trƣờng chứng khoán để đầu tƣ. Nguồn vốn trong dân cƣ còn rất bé, vốn nhàn rỗi trong dân cƣ không huy động đƣợc, theo kết quả đIều tra mức sống gần đây của uỷ ban nhà nƣớc và tổng cục thống kê cho thấy số tiền của ngƣời dân đƣợc tích luỹ dƣới nhiều hình thức. Vì vậy việc bán tín phiếu với lãi xuất thích hợp đang thu hút nhanh nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cƣ. Và gần đây chính phủ cho phép thành lập quỹ tín dụng nhân nhân, cũng nhƣ ngân hàng dành cho ngƣời nghèo để hỗ trợ cho các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn. 3.2/ Huy động vốn trong nước với vấn đề phát triển kinh tế. Trong năm năm 1991- 1995 vốn đầu tƣ xã hội khoảng 18 tỷ USD, trong đó đó đầu tƣ nhà nƣớc chiếm khoảng 43%. Đầu tƣ của khu vực tƣ nhân chiếm khoang 1/3 tổng số vốn đầu tƣ.Tổng mức tiết kiệm mà các tổ chức huy động dƣợc tăng từ 5300 tỷ đồng năm 1990 lên trên 24000 tỷ đồng, chiếm 35,5% tổng đầu tƣ xã hội . Sang kế hoạch 1996- 2000 lƣợng vốn dự báo cần cho đầu tƣ phát triển khoảng 41- 43 tỷ USD trong đó thì 50% từ nguồn vốn trong nƣớc. Phần 13 vốn đầu tƣ từ ngân sách Nhà nƣớc dự kiến chỉ chiếm 12,6%, do đó phải đẩy mạnh việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cƣ, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nƣớc và các doanh nghiệp khác tự bỏ vốn ra hoạt động sản xuất kinh doanh. Trƣớc yêu cầu mới, vấn đề huy động và sử dụng vốn vẫn đang gặp nhiều khó khăn phức tạp cần phải khắc phục. Ngân sách nhà nƣớc luôn ở trong tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tƣ phát triển. Đầu tƣ của nhà nƣớc bị phân tán do phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ, các nguồn thu từ thuế, các khoản lệ phí, dịch vụ công cộng còn nhiều thất thoát và lãng phí. Số vốn huy động đƣợc thông qua tín dụng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn không đáp ứng đƣợc nhu cầu đầu tƣ phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tƣ trực tiếp từ khu vực tƣ nhân hãy còn chiếm tỷ lệ nhỏ tập trung chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực thƣơng mại dịch vụ, phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận không nhỏ nguồn vốn huy động ở trong nƣớc còn đang nằm ở ngân hàng thƣơng mại đang bị ứ đọng không trở thành nguồn vốn đầu tƣ đƣợc. Theo các ý kiến dự báo thì khoảng 50- 70 nghìn tỷ đồng của nhân dân đang cất giữ dƣới dạng tiền mặt, ngoạI tệ, tàI sản có giá trị cao…Chƣa chuyển đƣợc thành nguồn vốn đầu tƣ và kinh doanh. Khoản tiền kiều hối hàng năm gửi về nƣớc khoảng từ 0,6- 1 tỷ USD chƣa đƣợc khai thác và sử dụng hợp lý. Nguyên nhân của các yếu kém trên là do: - Trình độ phát triển kinh tế của nƣớc ta vẫn còn thấp, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế và các quan hệ tài chính tiền tệ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, mức độ phân tán ở trong nƣớc vừa nhỏ vừa phân tán. - Cơ cấu sản xuất nói chung kém hiệu quả, sau hơn 10 năm đổi mới cầu về những sản phẩm truyền thống gần nhƣ đã bão hoà cần phải thay bằng những sản phẩm mới có chất lƣợng và hình thức cao hơn. - Chính sách quản lý vĩ mô chƣa hoàn thiện và đồng bộ, chƣa khuyến khích mọi ngƣời bỏ vốn ra mở rộng sản xuất, môi trƣờng đầu tƣ chƣa ổn định còn nhiều rủi ro cho các nhà đâù tƣ. 14 - Khả năng kinh doanh sinh lợi cao hơn lãi trả ngân hàng của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Điều đó cũng kéo theo các ngân hàng cũng gặp rủi ro khi cho vay, khó thu hồi vốn, phải sử dụng thế chấp nhƣ một công cụ chủ yếu. Đây chính là yếu tố hạn chế phân bổ có hiệu quả nguồn vốn Để huy động nguồn vốn một cách có hiệu quả thì chúng ta nên áp dụng một số biện pháp sau: - Đẩy mạnh thu hút vốn trực tiếp từ dân cƣ và doanh nghiệp, thúc đẩy đa dạng hoá các hình thức đầu tƣ. - Ủng hộ chủ trƣơng của nhà nƣớc đang dự thảo về cơ chế” Đổi quyền sử dụng đất lấy công trình”. Biện pháp có thể là nhà nƣớc giao quyền sử dụng đất (có thời hạn) cho chủ đầu tƣ để lấy công trình do chủ đầu tƣ xây dựng theo yêu cầu của nhà nƣớc. - Củng cố các ngân hàng thƣơng mại và tín dụng theo hƣớng bảo đảm mục tiêu an toàn vốn cho gửi tiết kiệm. Mở thêm các điểm gửi thuận lợi cho ngƣời gửi và rút tiền linh hoạt khi xử lý các mức thời hạn - Quán triệt chủ trƣơng của Đảng nguồn vốn trong nƣớc là quyết định cuối cùng với việc tích cực tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài, nhân dân ta góp tiền của và sẽ tiếp tục bỏ tiền của để xây dựng đất nƣớc nhanh chóng thiết lập các cơ chế chính sách thích hợp đồng bộ hoá các thủ tục hành chính và các giải pháp vi mô để lập môi trƣờng đầu tƣ lành mạnh, an toàn, hiệu quả. 3.3/ Huy động vốn trong nước với các vấn đề xã hội. Trong 5 năm (1991- 1995) vốn đầu tƣ thực hiện toàn xã hội là 193,537 tỷ đồng ( tính theo giá hiện hành) tƣơng đƣơng 18,6 tỷ USD. Trong đó vốn đầu tƣ trong nƣớc là 137,305 tỷ đồng chiếm 29%. Vốn đầu tƣ trong nƣớc thuộc khu vực nhà nƣớc là: 70.011 tỷ đồng ( bao gồm vốn ngân sách, tín dụng nhà nƣớc, doanh nghiệp nhà nƣớc đầu tƣ ), chiếm 31,6%, bình quân hàng năm tăng 16%. Khu vực ngoàI nhà nƣớc đã đầu tƣ 67,294 tỷ đồng chiếm 37,7% so với vốn đầu tƣ trong nƣớc. 15 Trong 3 năm (1996- 1998) tổng mức vốn đầu tƣ toàn xã hội thực hiện là253,614 tỷ đồng tƣơng đƣơng khoảng 20- 21 tỷ USD. So với mục tiêu toàn xã hội của kế hoạch 5 năm 1996- 2000 là 41- 42 tỷ USD thì 3 năm1996- 1998 đã thực hiện đƣợc khoảng 40- 50%. Nguồn vốn đầu tƣ huy động toàn xã hội ngày càng tăng so với GDP. Naawm 1989 chỉ đạt 8-9% GDP, thì đến năm 1991 đạt 15,22%, năm 1993 đạt 21%, năm 1995 đạt 26,3%, năm 1996 đạt 26,9% , nawm 1997 đạt 27,5% và năm 1998 đạt28,2%. Nguồn vốn đầu tƣ toàn xã hội ngày càng đa dạng hoá, hình thức huy động đƣợc huy động qua nhiều kênh nhƣ vốn ngân sách nhà nƣớc, phát hành tráI phiếu công trình. Hiện nay hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nƣớc để tái đầu tƣ hoặc đầu tƣ xây dựng mới đang đƣợc mở rộng. Hình thức doanh nghiệp tự vay vốn của nƣớc ngoào để đầu tƣ có sự bảo lãnh của nhà nƣớc cũng đã đƣợc mở rộng và hoàn thiện dần. Những năm gần đay đã triển khai nhiều dự án đầu tƣ theo hình thức BOT ( xây dựng- chuyển giao- kinh doanh), BTO ( xây dựng – kinh doanh- chuyển giao). Đối tƣợng sử dụng vốn đầu tƣ đã có sự thay đổi căn bản, theo hƣớng xoá bỏ dần bao cấp. Vốn đầu tƣ từ nguồn ngoài quốc doanh cos tốc độ tăng trƣởng rõ rệt và ngày càng chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội. Nguồn vốn này chủi yếu tập trung trong lĩnh vực thƣơng mại, dịch vụ, nhà đất, khách sạn nhà hàng... 16 VỐN ĐẦU TƢ THỰC HIỆN TOÀN XÃ HỘI 1996- 1998 Nguồn vốn huy 1996 động Tỷ 1997 % Tỷ 1998 % Tỷ 1996- 1998 % Tỷ đồng % 100 253614 đồng đồng đồng Tổng vốn đầu tƣ. 778,14 100 90800 Vốn nhà nƣớc 30614 39,4 38000 41,9 39000 45,9 107614 42,43 Vốn ngoài QD 21773 28,0 22000 24,2 20000 23,5 63733 25,19 Vốn dân cƣ 15600 20,1 14743 16,2 13500 15,9 43843 17,28 Vốn FDI 26400 33,9 30800 33,9 26000 30,6 83200 32,80 Hệ số icor - 3,04 - 3,49 - 3,6 - 100 85000 - 100 Để đảm bảo đầu tƣ đúng định hƣớng, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế của vùng, lãnh thổ, nâng cao sử dụng vốn tín dụng đầu tƣ ƣu đãi, cần đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đầu tƣ theo chƣơng trình dự án. Tất cả các công trình dự án đều phải tân thủ một cách nghiêm ngặt các trình tự đầu tƣ xây dựng cơ bản. 4/ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƢ TRONG NƢỚC. Nguồn vốn luôn là một vấn đề đặt ra hàng đầu cho mọi nền kinh tế công nghiệp hoá. Tuy nhiên do lợi thế của mỗi một quốc gia là khác nhau và do sự khác nhau về lợi thế so sánh nên con đƣờng để kiến tạo nguồn vốn sản xuất là hết sức đa dạng. 4.1/ Kinh nghiệm của Nhật Bản. Nhật bản là một cƣờng quốc kinh tế ở Châu á với cách tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế khác với nhiều nƣớc khác. Những năm cuối thế kỷ XIX dƣới thời Minh Trị, Nhật còn là một nƣớc rất nghèo, nền kinh tế mới đi vào công cuộc cải cách. Để có khoản tích luỹ vốn đầu tƣ ban đầu cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nhật đã dựa vào cơ cấu chính quyền rất mạnh cộng với thu thuế 17 rất lớn từ nhân dân. Thông qua biện pháp này Nhật đã huy động đƣợc nguồn vốn rất lớn cho phát triển kinh tế Các nhà kinh tế đã tổng kết và đƣa ra các nhân tố tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Nhật là: - Sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tăng cƣờng điều tiết và vai trò của chính phủ trong nền kinh tế quốc dân, mở rộng thị trƣờng. - Bƣớc đàu bƣớc vào thời kỳ công nghiệp hoá Nhật đã có tỷ lệ tích luỹ vốn hàng năm là 21,8% đến năm 1968 là 29,2% lớn hơn hai lần so với Mỹ và gần bằng 2 lần của Anh. Năm 1959 GDP của Nhật bằng 81% của Đức nhƣng tổng đầu tƣ vào tƣ bản cố định của Nhật đã vƣợt Đức. - Nhật duy trì đƣợc mức tích luỹ cao là nhờ mức lƣơng thấp trong khi năng xuất lao động thì rất cao và có xu hƣớng ngày càng tăng nhanh. Huy động đƣợc khối lƣợng lớn nguồn vốn từ ngƣời dân vào trong kinh doanh, chi phí cho quan sự thấp, chi phí sử dụng nguồn vốn thấp và khống chế đƣợc mức chi tiêu công cộng ở mức thấp. 4.2/ Kinh nghiệm của Hàn Quốc. Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cách từ thập kỷ 60, kể từ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ nhất ra đời năm 1962, nền kinh tế đã duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh. Bình quân tốc độ tăng GDP hàng năm là 9% cao hơn rất nhiều so tốc độ tăng bình quân của thế giới. Trong cùng thời gian công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trên 20% năm, dịch vụ tăng trên 14%/ năm. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh đã giúp cho Hàn Quốc giải quyết đƣợc nhiều vấn đề nhƣ giảm thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo đói, giảm mức chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị. - Tài trợ cho các nhu cầu đầu tƣ trƣớc tình hình kinh tế trong nƣớc kém phất triển, nguồn tích luỹ từ nội bộ ít, nguồn tài trợ bên ngoài giảm sút chính 18 phủ đã khuyến khích đầu tƣ làm tăng việc sử dụng nguyên liệu trong công nghiệp, khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài, khuyến khích du nhập công nghệ kỹ thuật mới. - Sử dụng công cụ thuế và tăng cƣờng tiết kiệm của chính phủ, sử dụng công cụ thuế nhƣ một công cụ kích thích đầu tƣ, tăng cƣờng sử dụng chính sách lãi suất thấp, chính phủ đƣa ra các điều kiện để hoàn lại vốn và trả lãi cho các nhà đầu tƣ. Để tập trung vốn cho phát triển các ngành mũi nhọn. 4.3/ Kinh nghiệm ở Anh. Học thuyết Mác đã nhận định là sự tích luỹ tƣ bản nguyên thuỷ nhất thiết phải diễn ra trƣớc khi có sự phát triển kinh tế. Cơ sở thực tiễn của học thuyết này bắt nguồn từ thực tiễn kinh nghiệm phát triển kinh tế của nƣớc Anh, nơi mà buôn bán, bóc lột thuộc địa và một số hình thức khác đã tạo cho nƣớc Anh có đƣợc nguồn vốn tích luỹ khổng lồ. Đến cuối thế kỷ XIIX nguồn vốn tích luỹ của nƣớc Anh biến thành tƣ bản đầu tƣ vào công nghiệp. Từ thực tiễn đó cho thấy, trƣớc cách mạng công nghiệp nƣớc Anh đã trải qua chủ nghĩa tƣ bản thƣơng mại hàng thế kỷ. Nhƣ vậy thì con đƣờng và giải pháp cơ bản để tạo dựng vốn đầu tƣ vào công nghiệp hoá và phát triển kinh tế là phát triển mạnh tự do thƣơng mại nhằm tạo ra từ tích luỹ nội bộ nền kinh tế kết hợp với sự cƣớp bóc từ các nƣớc thuộc địa. 4.4/ Những bài học vận dụng vào Việt nam. Kinh nghiệm huy động vốn từ các nƣớc rất đa dạng không theo một khuôn mẫu định trƣớc nào. Điểm chung có thể rút ra là các nƣớc thành công trong chính sách này đều tân thủ những quy luật kinh tế cơ bản, tận dụng tối đa các lợi thế so sánh của nƣớc mình và tính đến một cách cặn kẽ đIều kiện tự nhiên, địa lý, các nguồn lực tự nhiên cũng nhƣ các phong tục tập quán, tâm lý ngƣời dân, đặc đIểm riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên có những điểm riêng đáng chú ý của từng nƣớc đƣợc nghiên cứu có thể mang lại nhiều lợi ích cho quá trình phát triển kinh tế ở nƣớc ta. 19 Kinh nghiệm ở một số nƣớc còn cho thấy quỹ đầu tƣ còn là một định chế tài chính trung gian tƣơng đối thích hợp để huy động và sử dụng nguồn vốn lớn. Đây là một mô hình kinh tế bổ ích cho quá trình phát triển kinh tế ở Việt nam vì vậy chúng ta phải tiến hành công tác nghiên cứu nó một cách tỉ mỷ xem cái gì có thể vận dụng đƣợc và cái gì không áp dụng đƣợc. Nó góp phần vào giải quyết bài toán khó về huy động vốn đầu tƣ trong nƣớc, tích luỹ trong nƣớc chỉ đƣợc cải thiện nhờ chính sách lãi suất mà còn nhờ tiết kiệm chi tiêu của chính phủ. Việc hạn chế phần chi tiêu này góp phần tích cực trở lại với vấn đề huy động vốn trong nƣớc. Một chính phủ gọn nhẹ với những nguyên tác chi tiêu một cách hợp lý có ý nghiã thực sự đối với tích luỹ cho nội bộ nền kinh tế quốc dân. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan