Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại trường đ...

Tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại trường đại học dược hà nội trên quan điểm phát triển con người

.PDF
79
430
125

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM PHƢƠNG NGỌC MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TẠI ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI Chuyên ngành: Phát triển con người Mã số: LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. ĐỖ HOÀI NAM HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Đỗ Hoài Nam. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Đại học Dược Hà Nội trên quan điểm phát triển con người” có nguồn gốc rõ ràng, hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Học viên PHẠM PHƢƠNG NGỌC MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI ........................................................................................................................... 9 1.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................................................... 9 1.2. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trên quan điểm phát triển con người....................................................................................................................... 18 1.3. Nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Dược trên quan điểm phát triển con người ...................................................................... 32 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TẠI ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI ......................................................................................................................... 37 2.1. Khái quát về Đại học Dược Hà Nội ...................................................................... 37 2.2. Thực trạng chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Dược .......................................... 41 2.3. Đánh giá chung về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực tại Đại học Dược Hà Nội trên quan điểm phát triển con người .............................................................. 55 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TẠI ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN 2016-2020 TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI ....... 57 3.1. Đòi hỏi của Phát triển con người và ngành Dược trong giai đoạn 2016-2020 ..... 57 3.2. Một số giải pháp chủ yếu ....................................................................................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 72 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BS BVĐK CBYT CCVC CNH CNTT CTĐT ĐH ĐHDHN DS GDP GS GV HĐH HDI KHCN KNT KTV KT-XH KX/KHXH NCKH NLĐ NNL NXB PGS PTCN SV TS ThS UNDP VASS WHO Bác sỹ Bệnh viện đa khoa Cán bộ y tế Công chức viên chức Công nghiệp hóa Công nghệ thông tin Chương trình đào tạo Đại học Đại học Dược Hà Nội Dược sỹ Gross Domestic Product Tổng sản phẩm nội địa Giáo sư Giảng viên Hiện đại hóa Human Development Index s t tri n con n i Khoa học công nghệ Khu nội trú Kỹ thuật viên Kinh tế, xã hội Ký hiệu tên đề tài nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học Người lao động Nguồn nhân lực Nhà xuất bản Phó giáo sư Phát triển con người Sinh viên Tiến sỹ Thạc sỹ United Nations Development Programme ơn trìn t tri n của Liên hợp qu c Vietnam Academy of Social Sciences Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định con người và NNL là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước, phát triển giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược PTCN. PTCN là một trong các mục tiêu quan trọng nhất của phát triển kinh tế xã hội và đó cũng là phương tiện tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn cả trên toàn thế giới. NNL và chất lượng NNL là một trong những vấn đề cốt lõi của sự nghiệp phát triển KT-XH ở mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, đối với các nước đang phát triển, giải quyết vấn đề này đang là yêu cầu được đặt ra hết sức bức xúc, vì nó vừa mang tính thời sự, vừa mang tính chiến lược xuyên suốt quá trình phát triển KT-XH của mỗi nước. Mỗi một giai đoạn lịch sử, trình độ phát triển đòi hỏi một NNL phù hợp. Trong xu thế kinh tế tri thức và toàn cầu hóa, NNL có sức khỏe, học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được coi là một điều kiện để tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Con người được xem là nguồn lực căn bản có tính quyết định của mọi thời đại, đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công của một quốc gia, ngành hay lĩnh vực nói chung và một tổ chức nói riêng. UNDP coi con người là trung tâm của sự phát triển KT-XH. Thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu của sự phát triển, UNDP phê phán những quan điểm ít nhiều phiến diện như coi phát triển đơn thuần chỉ là phát triển kinh tế hay kỹ nghệ; coi tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với phát triển; chú trọng phát triển nhưng vô tình hoặc cố lãng quên vai trò động lực PTCN; xem con người chỉ như là công cụ, là phương tiện của sự phát triển, v.v... Tư tưởng đề cao con người của UNDP còn giúp cảnh báo các chính phủ tránh thái độ bằng mọi giá nhằm đến tăng trưởng kinh tế, định hướng cho các kế hoạch xã hội đừng quên mục tiêu PTCN và bảo vệ môi trường, trong đó con người cần phải được coi là trung tâm của sự phát triển. Nét chủ đạo của triết lý con người chiếm vị thế trung tâm trong sự phát triển của UNDP được hiểu rất cụ thể. Trung tâm, nghĩa là con người đóng vai trò quyết định 1 ở cả “đầu vào”, ở cả “đầu ra” và trong toàn bộ quá trình phát triển. Ở “đầu vào” nhân tố quyết định sự phát triển là vốn con người, tiềm năng con người. Ở “đầu ra”, mục tiêu của sự phát triển là chất lượng sống, PTCN, hạnh phúc con người. Trong suốt quá trình phát triển, nhân tố quyết định là NNL, là nguồn lao động, con người là động lực của sự phát triển. Cùng với những chuyển đổi to lớn và sâu sắc của nền kinh tế và xã hội đất nước ta, ngành Y tế không chỉ thụ hưởng những thành tựu chung của đất nước mà còn tạo ra những dấu ấn sâu đậm trong lĩnh vực đào tạo NNL y tế nói chung và nhân lực dược nói riêng, nhằm thực hiện chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Việt Nam trở thành nước có số BS và DS trên đầu dân cao hơn nhiều nước có mức thu nhập trung bình cao hơn Việt Nam. Trong thập kỷ qua, có sự thay đổi to lớn trong việc hành nghề dược trên toàn thế giới. Do đó, nhu cầu về đào tạo và sử dụng nhân lực dược không ngừng gia tăng bởi số lượng thuốc mới, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ người dân ngày một cao. Nhân lực dược là xương sống của ngành dược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, việc đào tạo và sử dụng nhân lực dược phải đáp ứng nhu cầu của hiện tại và tương lai vì sự phát triển liên tục của ngành nghề. Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 10/01/2014 đã nêu rõ: “Phát triển ngành Dược theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới; phát triển hệ thống phân phối, cung ứng thuốc hiện đại, chuyên nghiệp và tiêu chuẩn hóa” [30]. Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và để thực hiện được nhiệm vụ trên thì ngành Dược phải quan tâm xây dựng NNL cho mình vì con người là nguồn tài nguyên quý báu quyết định sự phát triển của một ngành hoặc một lĩnh vực. Trường ĐHDHN có sứ mạng đi tiên phong trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ Dược cho ngành y tế Việt Nam đặc biệt là đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ cao ngang tầm khu vực và thế giới. Trường là một trong những trung tâm hàng đầu của cả nước về nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, là đầu mối giao lưu quốc tế trong lĩnh vực đào tạo và NCKH của ngành Dược. Trường 2 ĐHDHN tiền thân từ Trường thuốc Đông Dương thành lập năm 1902. Năm 1961, Trường được tách ra từ Trường ĐH Y Dược thành Trường ĐH Dược khoa và nay là Trường ĐHDHN. Tính đến tháng 6/2016, Trường ĐHDHN đã đào tạo được hơn 14.200 DS, 2685 DS chuyên khoa cấp I và cấp II, 1083 ThS dược học và 131 TS dược học. Trong số đó có nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo của ngành y tế, của các trường ĐH Y - Dược và các Viện, Bệnh viện, cơ sở y tế trong cả nước. Hiện nay đội ngũ GV của nhà trường có 03 GS và 22 PGS. Mục tiêu phát triển của Trường ĐHDHN là: “Xây dựn Tr D ợc Hà Nội thành một tr ng Đại học ng trọn đi m qu c gia, một trun tâm đào tạo cán bộ và nghiên cứu về D ợc của cả n ớc, ngang tầm với c c n ớc trong khu vực vào 2020 và thế giới vào 2030”, cụ thể, về lĩnh vực đào tạo là Đào tạo NNL có trình độ ĐH, sau ĐH và các trình độ khác đáp ứng nhu cầu của xã hội và phù hợp với chiến lược phát triển ngành Dược cả về số lượng và chất lượng; Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV của trường ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng yêu cầu đào tạo GV cho các cơ sở đào tạo trong nước và các nước bạn Lào và Campuchia; Đa dạng hóa loại hình đào tạo, ngành nghề đào tạo, kết hợp đào tạo với NCKH góp phần xây dựng và phát triển ngành Dược theo hướng CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; Tăng cường quan hệ, hợp tác và liên kết quốc tế trong đào tạo [9]. Đất nước trong thời kỳ phát triển và hội nhập đang đặt ra nhiều yêu cầu mới về chất lượng của đội ngũ nhân lực ngành y tế nói chung, ngành dược nói riêng. Một câu hỏi được đặt ra là: Để đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp phát triển của đất nước và của ngành, trường ĐHDHN cần có những thay đổi như thế nào? Trên quan điểm PTCN, lấy con người là trung tâm, Trường ĐHDHN nên làm gì để nâng cao khả năng lựa chọn và nắm bắt cơ hội cho NNL dược mà mình đào tạo? Vì vậy, học viên chọn đề tài “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Trường Đại học Dược Hà Nội trên quan điểm phát triển con người” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ. 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề phát triển NNL đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó cũng có đề cập đến khía cạnh PTCN. Có nhiều nghiên cứu nước ngoài và cả ở Việt Nam về NNL. Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như sau: “Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”, Phạm Minh Hạc (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 1996; “Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới”, Nguyễn Minh Đường (chủ biên);... Nói chung đây là những nghiên cứu xã hội học thuộc Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX-07: “Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” do GS.VS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm với sự tham gia của gần 300 nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Tác giả Nguyễn Phú Trọng (2000) với đề tài NCKH cấp Nhà nước KHXH.05.03 “Luận chứng khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”. Đã đúc kết và đưa ra những quan điểm, sự định hướng trong việc sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đề tài là tài liệu để tham khảo hữu ích đối với cán bộ là công chức trong đơn vị hành chính sự nghiệp. Tác giả Phạm Công Nhất (2008), “Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế”, Tạp chí Cộng sản số 786. Trên cơ sở phân tích rõ thực trạng NNL Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, về số lượng và chất lượng. Tác giả đã nhấn mạnh chất lượng NNL nước ta còn nhiều bất cập và hạn chế do: thu nhập bình quân đầu người thấp, vấn đề quy hoạch và phát triển NNL còn kém, từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp để phát triển và nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tác giả Vũ Bá Thể (2005), “Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách tiếp cận theo quan hệ kinh tế quốc tế, tập trung phân tích và làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến NNL; kinh nghiệm phát triển NNL của một số nước tiên tiến 4 trên thế giới; đánh giá thực trạng NNL nước ta cả về quy mô, tốc độ, chất lượng NNL và rút ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển NNL; đề xuất các giải pháp nhằm phát triển NNL của Việt Nam trong thời gian tới. Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2005): “Phát triển NNL chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam”, luận án TS kinh tế chính trị, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng GV lý luận chính trị, ĐH Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu lý luận về phát triển NNL chất lượng cao thông qua những phân tích nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển lực lượng này; Qua đó, đề xuất một số giải pháp phát triển NNL chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong tương lai. “Phát triển nguồn nhần lực giáo dục ĐH Việt Nam” do TS. Đỗ Minh Cương, PGS. TS. Nguyễn Thị Loan chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Cuốn sách làm rõ quan điểm, định hướng chiến lược và giải pháp chủ yếu cho việc phát triển năng lực giáo dục bậc cao ở nước ta trong thời kỳ mới. “Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài” do PGS. TS Nghiêm Đình Vỳ và TS Nguyễn Đắc Hưng chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về lịch sử giáo dục Việt Nam, những cơ hội, thách thức và nhiệm vụ đặt ra đối với giáo dục Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Từ đó, các tác giả đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng và NNL cho đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH. Ngoài ra còn có những ấn phẩm đề cập đến kinh nghiệm về quản lý và phát triển NNL của một số nước có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam như “Phát triển NNL – kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996 của Trần Văn Tùng - Lê Ái Lâm... Đặc biệt là chương trình khoa học cấp Nhà nước KHXH-05 “Nghiên cứu văn hóa, con người, NNL đầu thế kỷ XXI” (11/2003), gồm những công trình đáng chú ý như: “Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và PTCN và NNL những năm đầu thế kỷ XXI” của TSKH Lương Việt Hải; “Phát triển NNL Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của TS. Nguyễn Hữu Dũng… 5 Từ quá trình nghiên cứu các công trình khoa học của các tác giả cho thấy NNL có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đơn vị nói riêng và đất nước nói chung. Các nghiên cứu đều khẳng định yêu cầu phát triển đào tạo NNL và ý nghĩa của việc nhận thức đúng đắn các chính sách phát triển đào tạo NNL. Các nghiên cứu, tác phẩm, bài viết khoa học trên đã đề cập đến thực trạng chất lượng NNL Việt Nam nhất là trong lĩnh vực đào tạo NNL trong CNH, HĐH ở nước ta. Hầu hết các công trình nghiên cứu này đã tập trung nghiên cứu các phương diện khác nhau của sự phát triển đào tạo NNL của Việt Nam và đề xuất những giải pháp để đào tạo NNL, từ giáo dục – đào tạo đến giải quyết việc làm, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng NNL ở nước ta. Cũng có một số công trình nghiên cứu về NNL y tế nói chung và của ngành Dược nói riêng. Hiện nay, số công trình nghiên cứu về thực trạng nhân lực dược khá ít, hầu hết các nghiên cứu chủ yếu hướng tới NNL y tế nói chung trong đó có đề cập nhân lực dược. Các báo cáo tổng kết của Bộ Y tế, Cục Quản lý Dược có đánh giá thực trạng nhân lực dược và mới đưa ra chỉ số nhân lực dược nói chung [3], [4], [10]. Các nghiên cứu phần nào chỉ ra các điểm mạnh, yếu trong chất lượng NNL y tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu không đề cập nhiều đến chất lượng đào tạo NNL, cũng như chưa có nghiên cứu nào về chất lượng đào tạo NNL trên quan điểm PTCN. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn thực trạng chất lượng đào tạo NNL dược trên quan điểm PTCN, Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo NNL cho Trường ĐHDHN. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: • Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về NNL, nâng cao chất lượng đào tạo NNL, chỉ tiêu đánh giá và những yếu tố ảnh hưởng trên quan điểm PTCN. • Phân tích thực trạng đào tạo NNL Trường ĐHDHN so với nhu cầu thực tế và mục tiêu phát triển của trường; nguyên nhân tác động đến thực trạng đó. 6 • Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo NNL tại nhà trường trên quan điểm PTCN. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề chất lượng đào tạo NNL tại Trường ĐHDHN trên quan điểm PTCN 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Trường ĐHDHN - Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu và sử dụng dữ liệu trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 để minh họa, đánh giá và phân tích trong quá trình nghiên cứu, từ đó đưa ra các giải pháp cho giai đoạn 2016-2020 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phƣơng pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu các tài liệu về phát triển con người của Việt Nam và UNDP để nghiên cứu, phân tích tổng hợp tài liệu, hệ thống hóa, khái quát hóa các nguồn tài liệu lý luận và thực tiễn có liên quan đến mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và PTCN, nhất là trong ngành Dược. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn lựa chọn phương pháp tiếp cận, nghiên cứu dưới góc độ phát triển con người, sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp chuyên gia, phương pháp tiếp cận hệ thống. Ngoài ra, luận văn sử dụng số liệu của Tổng cục Thống kê, số liệu của các công trình, dự án, bài viết trên các sách, báo, tạp chí, báo cáo của Trường đăng trên website và các tài liệu có liên quan. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn • Góp phần làm rõ khái niệm, vai trò và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng NNL trên quan điểm PTCN; Làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản về cách tiếp cận trên quan điểm PTCN như các đặc điểm đặc trưng, các yếu tố liên quan… • Trên quan điểm PTCN, phân tích thực trạng chất lượng đào tạo NNL hiện nay tại trường ĐHDHN 7 • Góp phần làm rõ những nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng đào tạo NNL và đề xuất giải pháp cơ bản có tính định hướng nâng cao chất lượng đào tạo NNL tại trường ĐHDHN. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong ba chương: Chương 1: Một số lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trên quan điểm phát triển con người Chương 2: Thực trạng chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Đại học Dược Hà Nội trên quan điểm phát triển con người Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của trường Đại học Dược Hà Nội trong giai đoạn 2016-2020 trên quan điểm phát triển con người 8 Chƣơng 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Phát triển con người PTCN là mục tiêu cuối cùng của mọi sự phát triển. Bởi lẽ đó, vấn đề về sự PTCN đã được quan tâm từ rất sớm. Nhà triết học cổ đại Aristot cho rằng sự giàu có không phải là tài sản mà con người tìm kiếm; những tài sản đó chỉ hữu dụng để con người tìm kiếm những thứ khác. Immanuel Kant thì cho rằng chính con người là mục tiêu chứ họ không phải là phương tiện để đạt được các mục tiêu khác. Một số nhà kinh tế học sau này như Adam Smith, Karl Marx cũng đi theo quan điểm coi con người là mục tiêu thực sự của tất cả mọi hoạt động. PTCN trong tư tưởng của Karl Marx không phải thuần túy đảm bảo các yếu tố tự nhiên, mà còn phát triển toàn bộ các giá trị tinh thần khác, hay nói cách khác, phát triển các lực lượng mang bản chất người. PTCN là sự phát triển những năng lực, phẩm chất người, năng lực cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và năng lực làm chủ bản thân mình. Thông qua đó, con người thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng và phát triển mình để trở thành con người tự do. Ở Việt Nam, PTCN cũng từ lâu đã được biết tới như là một khái niệm rất cơ bản trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" nổi tiếng. Nhưng khái niệm PTCN như hiện tại đang được sử dụng phổ biến ở các quốc gia thành viên của tổ chức Liên hiệp quốc, thì chỉ mới xuất hiện cùng với Báo cáo PTCN năm 1990 với tuyên ngôn đầy ấn tượng của nó: “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, khoẻ mạnh và sáng tạo. Chân lý giản đơn nhưng đầy sức mạnh này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và tài chính” [45]. 9 Quan điểm về PTCN của UNDP đưa ra trong báo cáo PTCN năm 1990 gồm: 1), là quá trình tăng cường năng lực cho sự lựa chọn của con người. 2), là sự mở rộng các cơ hội lựa chọn cho mọi người. Khái niệm này có thể được giải thích như sau: - PTCN là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của từng người và của từng cộng đồng. Ở đâu con người có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn, thì ở đó điều kiện PTCN sẽ tốt hơn. - PTCN là quá trình tăng cường các năng lực lựa chọn cho từng người và từng cộng đồng. Ở đâu con người có năng lực lựa chọn cao hơn, thì ở đó trình độ PTCN cũng cao hơn. Các năng lực của con người cần được tăng cường bao gồm các năng lực sinh thể (mà trước hết là sức khỏe) và các năng lực tinh thần (mà trước hết là tri thức). Các cơ hội cho hoạt động của con người cần được mở rộng bao gồm các hoạt động lao động và nghỉ ngơi. Mở rộng các hoạt động được hiểu theo nghĩa là con người có khả năng sử dụng ngày càng tốt hơn năng lực sinh thể và năng lực tinh thần của mình trong công việc và trong nghỉ ngơi. - Quá trình mở rộng cơ hội và tăng cường năng lực lựa chọn chính là môi trường làm cho khả năng sáng tạo, sống khỏe mạnh, được học hành và trường thọ... của con người tăng lên. Như vậy, tư tưởng về sự mở rộng các lựa chọn cho mọi người có hạt nhân hợp lý của nó. Như đã được UNDP giải thích, PTCN không phải là phương tiện mà là mục tiêu của sự phát triển. Nhằm mục tiêu đó, chất lượng sống của con người (cái không hề trừu tượng mà có thể đo đếm được) được xem như tương đương với hạnh phúc hay cũng chính là hạnh phúc. Con người trong quan niệm này chiếm vị thế trung tâm của sự phát triển KT-XH. Ngoài ra, UNDP cũng chỉ ra ba thành tố cơ bản trong PTCN, đó là: của con người, cho con người và bởi con người. Tuy nhiên, sự phát triển này phải đến với các thế hệ tương lai. Như vậy, có thể thấy quan niệm PTCN của UNDP phản ánh một cách khá bao quát những vấn đề về năng lực tự nhiên và năng lực xã hội của con người, quan niệm cũng nhấn mạnh cần phải mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho mỗi người theo ba tiêu chí: một cuộc sống có đời sống vật chất đầy đủ, có 10 học vấn, khỏe mạnh và trường thọ. Với quan niệm này, UNDP đã xây dựng một khái niệm mới về PTCN một cách khá chi tiết, trong đó, con người được coi là thước đo đánh giá sự tiến bộ xã hội và là mục tiêu tối thượng mà mỗi quốc gia, cộng đồng hướng tới. Khái niệm PTCN về cơ bản theo triết lí phát triển vì con người nhưng có nhiều sự biến đổi qua thời gian. Các vấn đề đặt ra trong việc tìm hiểu về khái niệm này có thể là việc tìm ra mối liên hệ giữa khái niệm PTCN với các khái niệm khác như: quyền con người, an ninh con người, mục tiêu thiên niên kỉ, mối quan hệ giữa PTCN và tăng trưởng kinh tế, hay PTCN và hạnh phúc. Năm 2010, sau khi cải tiến phương pháp tính toán về các chỉ số PTCN, UNDP định nghĩa lại: “PTCN là việc mở rộng quyền tự do của con người được sống lâu, sống khỏe mạnh và sáng tạo; tiến tới đạt được những mục đích khác nhau trong cuộc sống mà họ có lý do để coi trọng; và tham gia tích cực vào việc hình thành nên một sự phát triển bình đẳng và bền vững trên một hành tinh chung. Con người vừa là đối tượng hưởng lợi vừa là tác nhân thúc đẩy PTCN, dù với tư cách cá nhân hay tư cách nhóm người” [46]. Theo quan niệm này, sự PTCN bao gồm các yếu tố: sự thịnh vượng, trao quyền, tính chủ thể và công bằng. “Quan điểm này nhấn mạnh tới việc lấy con người làm trung tâm và sự tự do của con người” [46]. Con người không phải là đối tượng thụ động mà là những chủ thể của chính quá trình phát triển. PTCN phải bao gồm trao quyền cho con người, để họ là tác nhân có trách nhiệm và đổi mới chính mình trong quá trình phát triển. “PTCN giúp con người có thể tự giúp được chính họ” [46]. Con người là trung tâm của sự phát triển KT-XH, lấy PTCN làm mục tiêu, làm tiêu chí cho sự phát triển xã hội mà UNDP đưa ra, đang trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với các chính phủ trong việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, môi trường, xã hội và phát triển chính con người. Quan điểm này nhấn mạnh tới việc lấy con người làm trung tâm và sự tự do của con người. PTCN được xem là phát triển vì con người, bởi con người và cho con người. PTCN trao quyền cho con người, để họ là tác nhân có trách nhiệm và tự đổi mới trong quá trình phát triển. Bởi vì theo quan điểm này, con người không phải 11 là những đối tượng thụ động mà là chủ thể năng động. PTCN giúp con người có thể tự giúp được chính họ. PTCN tập trung vào những tự do thiết yếu của con người ở mọi cấp độ: tạo khả năng cho con người làm chủ cuộc sống trường thọ và khỏe mạnh, có kiến thức, để có thể hưởng thụ một cuộc sống thích đáng và để tạo cuộc sống riêng theo cách của mỗi người. Ở Việt Nam, vấn đề con người đã được quan tâm từ khá lâu, tuy nhiên trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, việc quan tâm đến con người được thể hiện một cách khác nhau. Đại hội VI (1986) được coi là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nước ta, mở ra một thời kỳ phát triển mới. Tại đại hội này, nhân tố con người được khẳng định trong tiến trình phát triển KT-XH và mục tiêu của phát triển vì con người được thể hiện trong khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã mang lại cho mỗi người dân nhiều cơ hội trong phát triển và tạo ra môi trường khuyến khích tính chủ động của mỗi cá nhân. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), vai trò của con người trong phát triển KT-XH tiếp tục được khẳng định, các mục tiêu phát triển được gắn liền với nhân tố con người và vì con người. “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với sự phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là tiền đề để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực phát triển kinh tế”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và NNL là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ CNH, HĐH”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng NNL với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Lần đầu tiên trong văn kiện chính thức, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định phải nâng cao đáng kể chỉ số PTCN (HDI). 12 Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ CNH, HĐH. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) đã thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển NNL có chất lượng cao. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm PTCN và NNL từ các Đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh NNL, nhất là NNL chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh NNL nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm năng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Về định hướng PTCN, Đại hội lần thứ XII khẳng định “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đây là quan điểm cốt lõi mà Đảng ta luôn nhất quán, mang tính định hướng chiến lược trong xây dựng, PTCN Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới. Đảng ta khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ “do nhân dân lao động làm chủ”. Vì vậy, phương hướng và mục tiêu lớn nhất của chính sách xã hội là “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Đây là quan điểm phát triển mang tính hài hòa kết hợp giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, trong đó tạo ra một môi trường xã hội công bằng và bình đẳng cho mọi người. 13 Vấn đề PTCN cho tới nay vẫn luôn được đặt trong chương trình nghị sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới. PTCN phải thường xuyên đặt con người làm trung tâm, lấy mục tiêu của phát triển là mở rộng tất cả những lựa chọn và nâng cao năng lực đón bắt cơ hội phát triển của con người, nhắm tới việc bồi đắp khả năng con người thông qua đầu tư vào con người và việc sử dụng những khả năng đó cho phát triển vì con người, của con người và do con người. PTCN có các nội dung cơ bản là công bằng, bền vững, hiệu quả, trao quyền và tham gia. 1.1.2. Các khái niệm về nguồn nhân lực 1.1.2.1. Nguồn nhân lực "Nguồn lực con người" hay "Nguồn nhân lực” là khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự phát triển: Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề cập đến khái niệm NNL với các góc độ khác nhau. NNL là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển KT-XH của quốc gia, khu vực, thế giới. Cách hiểu này về NNL xuất phát từ quan niệm coi NNL là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của tổ chức. NNL là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của mỗi cá nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành công, đạt được mục tiêu của tổ chức. Bất cứ tổ chức nào cũng được tạo thành bởi các thành viên là con người hay NNL đó của một tổ chức bao gồm tất cả những NLĐ làm việc trong tổ chức đó. Nhân lực là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực này bao gồm thể lực và trí lực. Thể lực chỉ là sức khoẻ của thân thể nó phụ thuộc vào sức vóc, tình trạng sức khoẻ của từng con người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chế độ y tế. Thể lực con người còn tùy thuộc và tuổi tác, thời gian công tác, giới tính. Trí lực chỉ sức suy nghĩ, sự hiểu biết, sự tiếp thu kiến thức, tài năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin nhân cách… của từng con người. 14 Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc: “NNL là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển KT-XH trong một cộng đồng" [48, tr.3]. Theo GS.VS. Phạm Minh Hạc: “NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những NLĐ có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH”. [16, tr.269]. Theo quan điểm của PGS.TS. Trần Xuân Cầu và PGS.TS. Mai Quốc Chánh thì: “NNL là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất va tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng, chất lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội” [11, tr.13]. NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính thống nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển. NNL, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá. Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội. 1.1.2.2. Nguồn nhân lực y tế NNL trong lĩnh vực y tế có thể được định nghĩa là tổng thể đội ngũ nhân viên lâm sàng và phi lâm sàng ở các vị trí công việc cần thiết khác nhau chịu trách nhiệm 15 can thiệp sức khỏe cá nhân và cộng đồng dân cư. NNL là yếu tố quan trọng nhất của đầu vào hệ thống sức khỏe, hiệu quả và những lợi ích mà hệ thống có thể cung cấp phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức, kỹ năng và động lực của những cá nhân chịu trách nhiệm về cung cấp dịch vụ y tế [44, tr. 75]. Năm 2006, WHO đã đưa ra định nghĩa: “Nhân lực y tế bao gồm tất cả những người tham gia chủ yếu vào các hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe”. Theo đó, nhân lực y tế bao gồm những người cung cấp dịch vụ y tế, người làm công tác quản lý y tế và cả nhân viên giúp việc mà không trực tiếp cung cấp các dịch vụ y tế. Nó bao gồm CBYT chính thức và CBYT không chính thức (như tình nguyện viên xã hội, những người CSSK gia đình, lang y...); kể cả những người làm việc trong ngành y tế và trong các ngành khác (như quân đội, trường học hay các doanh nghiệp) [49]. Nhân lực y tế không chỉ là cán bộ chuyên môn y dược mà gồm cả đội ngũ kỹ sư, cử nhân, kỹ thuật viên và công nhân lành nghề đang tham gia phục vụ công tác y tế ở tất cả các tuyến từ trung ương đến tuyến y tế cơ sở. Khi nói về NNL y tế cần chú ý đến cả hai khu vực: y tế tư nhân và y tế công lập. Phát triển NNL y tế vừa nằm trong tổng thể phát triển hệ thống y tế vừa nằm trong chiến lược phát triển nguồn lực con người của đất nước. Phát triển NNL y tế phải đi trước nhu cầu xã hội dựa trên những dự báo về nhu cầu cũng như khả năng tài chính và kỹ thuật cung ứng cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. + Các loại hình nhân lực ngành Y tế: Trước đây, cán bộ ngành y tế chủ yếu là BS, DS, Y tá Trung học, Sơ học nhưng hiện nay các loại hình nhân lực y tế đa dạng hơn, chuyên sâu hơn: Bậc ĐH của ngành y tế gồm các đối tượng chính như: BS đa khoa, BS chuyên khoa, BSĐH, Cử nhân Điều dưỡng, Cử nhân Hộ sinh, Cử nhân Kỹ thuật y học thuộc các chuyên ngành (Xét nghiệm, Chẩn đoán hình ảnh....), Cử nhân Y tế công cộng. Bậc Sau ĐH có TS, ThS, Chuyên khoa I, Chuyên khoa II (cả y và dược), BS nội trú. Bậc Cao đẳng có các đối tượng chính là Điều dưỡng Cao đẳng, Hộ sinh Cao đẳng, Kỹ thuật viên Cao đẳng thuộc các chuyên ngành khác nhau. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan