MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
MỤC
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2
NỘI DUNG
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của SKKN
PHẦN NỘI DUNG
Cơ sở lý luận
Thực trạng
Các giải pháp thực hiện
Hiệu quả của sáng kiến
PHẦN KẾT LUẬN
Kết luận
Kiến nghị
TRANG
2
2
3
3
3
3
3
3
4
5
9
10
10
10
1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trường tiểu học Pù Nhi đóng trên địa bàn xã Pù Nhi huyện Mường Lát
với đặc điểm dân cư phân bổ rộng trong 11 chòm bản, giao thông đi lại khó
khăn, là xã miền núi, vùng sâu, vùng xa nên cha mẹ ít có điều kiện quan tâm đến
việc học tập của con em hoặc phó mặc hoàn toàn cho giáo viên chủ nhiệm hoặc
nhà trường. Với quan điểm “Nề nếp kỉ cương là chất lượng” đây là điều đặc biệt
quan tâm của nhà trường. Trong những năm gần đây, ở trường tiểu học Pù Nhi
chất lượng các em vào học ở khu chính Na tao đã phần nào được nâng lên.
Chính vì thế việc rèn luyện nề nếp học tập cho các em cũng góp phần không nhỏ
trong việc nâng cao nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Nhà trường đang
tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Với phong trào này học sinh đóng vai trò trọng tâm trong trường học và cũng là
cơ sở quan trọng để thực hiện tốt phong trào thi đua “chống tiêu cực do ngành
giáo dục phát động”. Nếu muốn có kết quả tốt thì cũng phải dựa trên nền tảng
nề nếp kĩ cương tốt.
Công tác xây dựng nề nếp học tập cho học sinh là một trong những nhiệm
vụ trọng yếu hàng đầu của người giáo viên tiểu học. Thực tế cho thấy, nếu học
sinh không có nề nếp thì việc giáo dục và dạy học trên lớp không bao giờ đạt
hiệu quả cao. Tuy nhiên, việc hình thành cho các em một thói quen tốt hay một
nề nếp tốt ở một số hoạt động gắn liền với việc học tập cho các em là một điều
không hề đơn giản đối với giáo viên. Đa phần trong những năm qua giáo viên
đến trường đến lớp thường chú trọng nhiều đến việc dạy miễn sao các em biết
đọc, biết viết đạt mục tiêu, nhiệm vụ năm học được xem như hoàn thành “sứ
mệnh”. Vẫn còn một vài giáo viên chưa thật sự quan tâm đến việc hình thành nề
nếp và chưa tìm hiểu tâm tư, tình cảm, tính cách, điều kiện sống của các em, từ
đó việc xây dựng nề nếp lớp khó mà thực hiện, nếu lớp không có nề nếp thì việc
dạy kiến thức khó mà thực hiện đạt mục tiêu theo cá thể hoá.
Với những lí do khách quan nêu trên, việc giáo dục và giảng dạy đối với
người giáo viên hết sức quan trọng, để tạo ra một con người toàn diện trong suy
nghĩ và trong hành động. Để có nề nếp tốt cho học sinh ở các lớp đầu cấp của
bậc tiểu học nói chung mà đặc biệt là học sinh lớp môt, hai chúng ta phải làm
như thế nào cho có hiệu quả, giúp các em có ý thức học tập và có nề nếp và khoa
học. Nếu lớp học không có nề nếp, thì cũng không thể giáo dục và truyền đạt
cho các em những kiến thức để giúp các em trở thành những học sinh chăm
ngoan và đặc biệt là không thể đáp ứng được mục tiêu giáo duc đó là “Phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức- trí tuệ- thể chất- thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản,
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh vững bước
tiếp tục học ở trung học cơ sở.”
Xuất phát từ những lý do trên trong năm học trước, năm học 2016- 2017
tôi đã chọn đề tài Giải pháp chỉ đạo xây dựng nề nếp học tập cho học sinh
trường tiểu học Pù Nhi để làm sáng kiến kinh nghiệm.
Nhận thấy đây là một đề tài hay, có tính thực tiễn cao, cần được bổ sung
thêm một số biện pháp để đạt được hiệu quả cao, năm học 2018-2019 này tôi
2
tiếp tục nghiên cứu, đưa ra một số điểm mới về “Giải pháp chỉ đạo xây dựng nề
nếp học tập cho học sinh trường tiểu học Pù Nhi”.
1.2. Mục đích nghiện cứu
Mục đích của bản thân tôi nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao
nề nếp, chất lượng học tập của học sinh trường tiểu học Pù Nhi.
1.3. Đối tượng nghiện cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số điểm mới về giải pháp chỉ đạo
xây dựng nề nếp học tập của học sinh trường tiểu học học Pù Nhi.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực trạng
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học, giáo dục.
1.5. Những điểm mới của SKKN
- Biện pháp 3.5. Xây dựng nề nếp cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn
- Biện pháp 3. 6. Xây dựng nề nếp giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập:
- Biện pháp 3.7. Xây dựng nề nếp học tập ở nhà:
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Việc đổi mới Giáo dục
và Đào tạo đang tiến hành từng bước.[3] Từ đổi mới phương pháp dạy học lấy
học sinh làm trung tâm, cho học sinh được hoạt động, thực hành và trải nghiệm
nhiều hơn, học sinh chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Đến việc đổi mới
đánh giá học sinh tiểu học, đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh Bộ giáo dục và
Đào tạo đã lần lượt ban hành Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 08
năm 2014 quy định đánh giá học sinh tiểu học, Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT
ngày 22/09/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 30. Về đổi mới
chương trình thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 đã ban
hành chương trình phổ thông mới theo đó chương trình phổ thông sẽ được thực
hiện theo lộ trình bắt đầu cho lớp 1 từ năm học 2020-2021.[4]
Mục tiêu giáo dục tiểu học là giáo dục mang tính toàn diện: Giúp học sinh
hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn về lâu dài về đạo
đức- trí tuệ- thể chất- thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản. Do vậy, để đáp ứng của
mục tiêu thì người giáo viên cần thực hiện đúng nghĩa là “Người thầy là tổng
thể.” Giáo viên phải là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo cho học sinh
noi theo, giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục tiểu học nói chung
và nề nếp nói riêng một trong những mục tiêu nhỏ của giáo dục của nhà trường.
Cụ thể phải xây dựng nề nếp học tập cho từng khối lớp. Nề nếp học tập
của lớp Một như thế nào? Nề nếp học tập của lớp Hai như thế nào? Hoàn toàn
nề nếp học tập của lớp một, hai không thể giống nề nếp học tập của lớp Năm. Vì
ở lớp một, hai các em có những đặc thù tâm sinh lý riêng biệt, chưa có được
nhiều về việc tiếp cận các nề nếp, mà các em chỉ được thông các việc dạy bảo
3
của gia đình và những người các em được tiếp cận thường xuyên, do vậy cần
phải chú trọng nhiều đến những đặc điểm tâm sinh lý của từng khối lớp. Xét về
tâm lý đối với học sinh tiểu học, vẫn luôn luôn “Vô tư, hồn nhiên, trong sáng.”
Tâm hồn các em rất trong sáng không một chút vẫn đục, như một tờ giấy trắng
và điều dễ nhận thấy đối với các em là rất nghe lời thầy cô giáo. Đó cũng là điều
kiện rất tốt để giáo viên xây dựng những thói quen tốt cho các em.
Để xây dựng nề nếp học tập cho học sinh tiểu học là rất là quan trọng
trong việc giáo dục và đào tạo. Đòi hỏi người giáo viên phải hội đủ tư chất thực
của người giáo viên hiện đại “Chuẩn nghề nghiệp”. Nói cách khác là phải bản
lĩnh, bao dung giàu lòng vị tha, có trái tim nhân hậu, lương tâm nghề nghiệp
đồng thời phải thật sự là một tấm gương trong lời nói và trong việc làm hàng
ngày để học sinh học tập và noi theo là “thần tượng” trong suy nghĩ, để các em
hình thành nhân cách, phẩm chất tốt đẹp nhất. [1]
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường tiểu học Pù Nhi là một trong những trường trọng điểm của huyện
Mường Lát, trong những năm qua chất lượng giáo dục của đơn vị đều được
nâng dần, tỷ lệ học sinh hoàn thành tốt các nhiệm vụ học tập được nâng cao và
giảm dần học sinh số lượng học sinh chưa hoàn thành. Tuy nhiên, vẫn tồn tại ở
một số lớp có học sinh hoàn thành tốt, nhưng nề nếp chưa thật sự tốt. Cụ thể ở
một số lớpcó một vài nề nếp không tốt như: Nói chuyện và làm việc riêng trong
giờ học, khi nói chuyện với thầy cô chưa biết dạ thưa và còn nhiều hành động
chưa đúng trong việc ứng xử bình thường.
Trường có ý thức trong việc chỉ đạo rèn luyện nề nếp cho học sinh, giáo
dục đạo đức kĩ năng sống, đẩy mạnh phong trào dạy tốt học tốt và các hoạt
động ngoại khoá (tham quam, chăm sóc khu di tich lịch sử địa phương và các
hoạt động nhân đạo). Quan tâm chỉ đạo sâu sát mọi hoạt động của đơn vị trong
việc dạy chữ, dạy người. Các đoàn thể (công đoàn, giáo viên, tổng phụ trách
đội) tổ chuyên môn phối họp cộng tác khá chặt chẽ trong việc giáo dục toàn diện
cho học sinh.[2]
Đa số cán bộ, giáo viên, nhân viên đều có năng lực chuyên môn đạt
chuẩn về đào tạo, nhiệt tình năng nổ trong công việc giảng dạy, nêu cao tinh
thần tập thể trong công tác, quan tâm đến chất lượng dạy và học. Song vẫn còn
một số hạn chế như năng lực chuyên môn và chủ nhiệm chưa đồng đều. Một số
giáo viên trong công tác chưa nhiệt tình phối hợp, trong việc thực hiện công
việc, nhiệm vụ được giao kết quả chỉ tới mức hoàn thành, chưa chịu khó đầu tư
trong giảng dạy .
Đối với học sinh được lên một lớp trên hay chuyển trường (từ lớp một
sang lớp hai hay ngày đầu tiên đi học do chuyển đến) thường có những thay đổi
chút ít về tâm lý. Chính vì sự thay đổi đó mà nề mà nề nếp của lớp hay của bản
thân các em cũng ảnh hưởng ít nhiều như việc giờ giấc của mỗi bậc học khác
nhau, xếp hàng ra vào lớp, đưa tay phát biểu trong giờ học, bàn ghế sự đi lại, ra
vào tự do khi ở nhà, đối với những em chưa có thói quen học tập và sinh hoạt
hoạt động tập thể của nhóm, của lớp. Một số học sinh đi học thường bỏ vở ở nhà
và chưa biết chuẩn bị dụng cụ học tập, trong giờ học chưa chú ý, chưa tập trung
theo dõi thực hành các kĩ năng do giáo viên hướng dẫn, giảng dạy, cách ngồi
4
học, cách cầm bút, cầm bảng tuỳ tiện, chưa có ý thức tự học, thụ động lười phát
biểu.
Trong những năm gần đây mặc dù kinh tế của địa phương có sự chuyển
biến. Nhưng thực tế phụ huynh học sinh một số sống bằng nghề buôn bán nhỏ
lẻ, còn lại chủ yếu là nghề nông còn lại bà con phải sống bằng nghề làm thuê,
làm mướn nghề nghiệp không ổn định, nay đây mai đó. Do lo buôn chải cuộc
sống gia đình cha mẹ các em phải làm việc suốt ngày nên thường ít quan tâm
đến việc học của con em, do gia đình khó khăn, con đông, do một số phụ huynh
chưa đọc viết thạo, ít hỏi thăm hoặc nhắc nhở trẻ học tập. Phần đông không
dành cho trẻ được một góc học tập ở nhà, cho dù giáo viên đã yêu cầu đối với
phụ huynh của các em, gia đình không đáp ứng tốt những việc hỗ trợ trong học
tập và sinh hoạt của các em. Từ đó dẫn đến các em không thích học ở nhà và sẽ
mất đi một nề nếp và thời gian biểu trong học tập, sinh hoạt ở các em dần dần
các em mất đi ý thức tự học. Bởi vì, vốn các em đã có được nề nếp nhờ vào việc
dạy bảo của giáo viên chủ nhiệm lớp, nội quy của trường.
2.3. Giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Từ những thực trạng trên trong nhà trường cần xây dựng tốt nề nếp học
tập của mỗi lớp, để lớp thật sự có nề nếp - kỷ luật tốt hơn. Từ đó mà bản thân đề
ra những biện pháp chỉ đạo và những việc làm cụ thể như sau:
2.3.1. Xây dựng nề nếp, trật tự và kỷ luật cho học sinh
- Chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm sau khi nhận và bàn giao lớp giáo viên
cần nắm rõ các thông tin cụ thể của từng học sinh thông qua việc trao đổi với
giáo viên lớp trước, phân loại học sinh theo kết quả học lực, thể lực, cá tính,
hoàn cảnh gia đình ... Từ đó, lập kế hoạch chủ nhiệm và nội dung xây dựng nề
nếp của lớp cần thực hiện trong năm học.
- Ngày đầu tiên nhận lớp, Giáo viên cần thể hiện được sự nghiêm khắc
trong việc thực hiện nội quy cuả trường, của lớp, nhưng cũng phải biết kết hợp
tốt việc dạy học với các trò chơi. Tạo sẹ tôn kính và thân mật giữa Thầy và Trò,
tránh dễ trường hợp “dễ quá, hoá lờn” sau này sẽ khó dạy bảo và mất đi sự tôn
nghiêm của người giáo viên. Giáo viên cần tập cho trẻ thích nghi với môi trường
học tập mới, lớp học mới mà không để trẻ cảm nhận rằng quá xa lạ đối với trẻ.
Tạo cho các em niền tin và xem lớp học như ở nhà trong mọi hoạt động.
Ví dụ: Như giáo viên tự giới thiệu về mình và làm quen lần lượt từng học
sinh thông qua việc thăm hỏi, năm rồi em học cô hay thầy ? Em thuộc những
bài hát nào? ... Và những điều có liên quan để nắm bắt được tâm lý của từng e,
cũng như đặc điểm hoàn cảnh sống của từng em. Tạo các hoạt động tập thể để
gắn kết các em với nhau (hát tập thể, chơi những trò chơi dân gian, nhóm đôi
hoặc nhóm 4,5...)
Người thầy vừa cứng rắn, cương quyết với việc thực hiện nội quy vừa thể
hiện được tình cảm dịu dàng, ấm áp tình thương của người cha, người mẹ
thương yêu chăm sóc các em trong việc dạy bảo. Giáo viên cần kiên trì huấn
luyện một học sinh có tài quản lí, có phong thái tự tin.
Đi đôi với việc xây dựng nề nếp trật tự, kỷ luật cho các em là việc rèn
cho học sinh nề nếp tự quản. Chẳng hạn như sử dụng 15 phút đầu giờ, ôn lại các
bài đã học những ngày trước hoặc chuẩn bị những dụng cụ, vật dụng cho tiết
5
học mới ...Từ từ đưa các em vào nề nếp tự quản theo đúng định hướng của giáo
viên. Với những việc các em làm tốt giáo viên cần khen kịp thời để các em học
hỏi, tranh đua, nhưng nếu ta cứ khen mà không thưởng thì dần dần không hiệu
quả. Đồng thời làm mất lòng tin nơi các em và mọi việc xây dựng của ta đều trở
nên vô ích mất lòng tin đối với học sinh (nói mà không làm).
Thực hiện tốt tiết sinh hoạt lớp cuối tuần theo quy định của nhà trường,
cần tránh tiết sinh hoạt thành là buổi chê bai làm các em sợ và mặc cảm khi
mắc lỗi trong học tập hoặc trong sinh hoạt.
2.3.2. Xây dựng nề nếp học tập ở các lớp
Chỉ đạo cho giáo viên giới thiệu và hướng dẫn cho các em nhận biết các
loại sách giáo khoa, dụng cụ học tập, bộ đồ dùng học toán ... việc này được lập
đi lập lại nhiều lần, vì trẻ thường mau quên nên chúng ta cần lưu ý về điều này.
Còn đối với việc rèn tư thế ngồi học, cách cầm bút hay việc sử dụng các
dụng cụ học tập , giáo viên phải thực hiện mẫu và cầm tay chỉ việc cụ thể đối
với những học sinh gặp khó khăn về vấn đề nào đó. Công việc này đòi hỏi
người giáo viên cần có tâm và có tầm quan sát rộng và cần thể hiện được “thầy
cô là cha là mẹ” đừng quá nôn nóng “Dục tất bất đạt” tránh để trẻ sợ và ngán
ngại, quá khó sinh ra chán nản.[2]
Việc học tại lớp không đáng ngại nhưng hướng dẫn ở nhà chúng ta cần
chú trọng nhiều hơn. Thông qua buổi họp phụ huynh đầu năm học. Giáo viên
cần giúp cha mẹ học sinh cách sử dụng sách giáo khoa của các em,hướng dẫn
cặn kẻ những thông tin, yêu cầu cần tực hiện của từng bài với môn toán và tiếng
việt. Từ đó phụ huynh dễ dàng tháo gỡ những thắc mắc hoặc giúp đỡ các em
trong việc chuẩn bị tốt sách vở và các dụng cụ cần thiết phục vụ cho các môn
học khi đến trường, cũng tránh để đỡ mang nặng. Ngoài ra, giáo viên cũng cần
nhắc nhở sau tiết học cuối buổi mỗi ngày, những thứ cần thiết để chuẩn bị cho
ngày học hôm sau đối với từng môn học.
Những học chưa tốt còn gặp khó khăn trong việc thực hiện các kĩ năng sử
dụng viết, phấn tư thế ngồi, cách phát âm... giáo viên chủ nhiệm cần đến gia
đình thăm hỏi, tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp thích hợp để uống nắn,
giúp đỡ kịp thời.
Tuyên truyền, phát động đến phụ huynh học sinh ở nhà, mỗi gia đình học
sinh cần tạo được một góc học tập riêng cho các em, không cần quá rộng nhưng
phải được trang trí như: thời khoá biểu, hộp đựng bút, thước kẻ, tranh ảnh gần
gũi phù hợp với lứa tuổi các em. Tạo cho trẻ sự thích thú ham học, thích học và
từ đó có thói quen học tập đúng giờ học ở nhà.
Một điều mà các bật phụ huynh cần lưu ý đó là , trong lúc trẻ đang học
tuyệt đối không được mở truyền hình, tập trung trò chuyện vấn đề nào đó mà ở
gần nơi trẻ học... như vậy sẻ ảnh hưởng không tốt trong khi trẻ đang học, trẻ dễ
bị phân tâm và thậm chí các em sẽ không học được. Trường hơp này này phụ
huynh cần tránh để các em tập trung học tập.
2.3.3. Xây dựng nề nếp hành vi đạo đức ở các lớp
Quá trình sư phạm là một quá trình hoạt động tổng thể được diễn ra cùng
lúc với hai quá trình cơ bản khác trong các trường phổ thông nói chung và ở bậc
tiểu học nói riêng : Đó là quá trình giáo dục và quá trình dạy học. Hai hoạt động
6
của quá trình này luôn luôn đan xen lẫn nhau, tác động qua lại, chúng có mói
quan hệ biện chứng lâu dài và tương đối phức tạp.
Trong quá trình giáo dục sẽ có sự có mặt của quá trình dạy và học và
ngược lại. Chính vì những lẽ đó người giáo viên ngoài việc dạy học giúp học
sinh nắm vững kiến thức cơ bản, còn phải là người “Mẹ hiền” luôn tận tuỵ với
những đứa con thơ ngây của mình. Có nghĩa là song song với việc dạy Giáo dục
hành vi đạo đứccho trẻ qua các bài học là một điều không thể thiếu được ở mỗi
giáo viên. Cùng một lúc thẹc hiện bốn chức năng: Vừa làm thầy dạy các em
những điều hay lẽ phải, nhưng cũng phải là người cha nghiêm khắc là một
người mẹ chu đáo, đồng thời là một người bạn biết chia sẽ, lắng nghe những tâm
sự của các em, khi các em mắc lỗi hay những khó khăn vướng mắc mà các em
không tự giải quyết được.
Luôn quán triệt, nhắc nhở đến giáo viên phải “luôn luôn phải” là người
làm gương, là tấm gương sáng cho các em học sinh. Người thầy tốt sẽ đào tạo
sản sinh ra những học trò tốt.
Ví dụ: Lời giáo viên dạy trên lớp phải biết giữ vệ sinh tốt sân trường,
phòng học, bỏ rác đúng nơi quy định, ăn mặt gọn gàng...nhưng những việc giáo
viên làm thì không đúng như lời giảng trên lớp. Từ đó sẽ làm giảm lòng tin ở
các em và cũng đừng mong vì các em thực hiện tốt các nề nếp mà giáo viên đã
gầy dựng cho chúng.
Xây dựng nội quy lớp học dựa trên những ý kiến của lớp, chính vì những
đề xuất của các em như : Không nên đi học trễ, không xả rác bừa bãi, không nói
tục, chửi thề... và những việc nên làm như: Làm bài đầy đủ, trật tự trong giờ học,
giúp bạn cùng tiến, tích cực xây dựng bài, giữ gìn trường lớp sạch đẹp, biết đoàn
kết chia sẻ hợp tác trong nhóm.
2.3.4. Tổ chức tiết sinh hoạt lớp sinh động, hiệu quả
Chỉ đạo giáo viên ở các lớp xây dựng kế hoạch sinh hoạt một cách chi
tiết, cụ thể.
Ví dụ: * Nhận xét đánh giá tình hình học tập, sinh hoạt.
- Việc thực hiện nội quy.
- Nề nếp học tập, sinh hoạt.
- Những ưu điểm và những hạn chế.
* Tuyên dương khen thưởng.
- Khen những học dinh có thành tích tốt, học sinh gương mẫu (học tập,
sinh hoạt... thực hiện tốt nội quy).
* Phê bình nhắc nhở.
- Tìm hiểu nguyên nhân, chia sẻ với học sinh.
- Những học sinh vi phạm nội quy trường, lớp (không thuộc bài, đi học
trễ, chưa chăm chỉ trong giờ học, thực hiện chưa tốt nội quy...)
* Kế hoạch tuần tới.
Những công việc thực hiện trong tuần của lớp. (chuẩn bị ôn tập để kiểm
tra, chuẩn bị tham gia dự thi các phong trào thi đua của trường như: thi vở sạch
chữ đẹp, thi vui học tiếng việt, thi khéo tay, thi vẽ tranh, thi văn nghệ, thi các trò
chơi dân gian và tham quan...)
* Tổng kết.
7
- Phát huy những việc mà lớp đã thực hiện tốt trong thời gian tới, khắc
những tồn tại của lớp cũng như của từng cá nhân của học sinh. Qua đó tiếp tục
giáo dục cho các em những hành vi ứng xử trong sinh hoạt, học tập giúp trẻ
nhận biết được hành vi đúng sai. Giúp các ưm phát huy được thế mạnh sẵn có ở
từng học sinh
2.3.5. Chú trọng theo dõi học sinh về mặt tâm lý
- Cũng như đã đề cập ở phần trên, đối với trẻ được lên lớp trên hay
chuyển trường, thường có những thay đổi chút ít về tâm lý, có một số em chưa
thật sự sẵn sàng bởi từ lẽ đó các em thường nhút nhát, chưa mạnh dạn. Vì thế
người giáo viên cần chú yd về thay đổi này của các em. Hiểu được những đặc
điểm tâm lý này người giáo viên nên trấn an tinh thần các em qua những việc
làm như: những cử chỉ ân cần dịu dàng, để trẻ đặt niềm tin vào người mẹ thứ hai
của chúng, từ đó tạo dựng được niềm tin nơi trẻ.
- Luôn quán triệt, nhắc nhở giáo viên ngoài việc dạy kiến thức cho các
em, mà còn phải dạy cho các em trở thành con người, con người chân chính có
tài có đức thật sự có ích cho xã hội cho đất nước. Đúng mục tiêu giáo dục là
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.3.6. Xây dựng nề nếp cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn
Đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn giáo viên cần tìm hiểu tận tình:
đến gia đình thăm hỏi đồng thời đề ra biện pháp hỗ trợ gíup đỡ các em.
- Giáo viên phải thường xuyên chấm trả bài đầy đủ để nắm được tình hình
sức học của các em kịp thời uốn nắn, giúp các các em thấy được lỗi của mình từ
đó có hướng khắc phục. Giáo viên cũng cần học hỏi phương pháp giảng dạy tích
cực để giảng dạy có hiệu quả.
- Trong quá trình dạy học, giáo viên là người điều khiển, tổ chức hướng
dẫn học sinh học tập; học sinh phải biết tự giác học tập để chiếm lĩnh kiến thức.
Vì vậy, giáo viên phải biết áp dụng các hình thức học tập nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh. Ví dụ: Trong phân môn tập đọc, phần tìm hiểu bài ta có
thể tổ chức thành một trò chơi (tôi đố, tôi đố – đố gì đố gì ?) Hoặc: để nhắc lại
tên một bài đã học, ta sử dụng trò chơi những ô chữ kì diệu. Hoặc: thi đua 3 tổ
tiếp sức: viết số lên các toa tàu hoả, tàu nào được điền số xong nhanh nhất thì
tàu đó về đích trước …
- Giáo viên sử dụng phương pháp: học mà chơi – chơi mà học, nhưng
không vì thế mà làm anh hưởng đến những lớp xung quanh. Ví dụ: Trong khi
học các em phải đảm bảo trật tự, không phát biểu chung cả lớp. Còn trong khi
chơi các em cũng phải tuân thủ luật chơi; không la lớn không đập bàn, phải biết
trao đổi hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ cô giao …
Tóm lại, nếu giáo viên xây dựng tốt nề nếp học tập thì hiệu quả giảng dạy
rất cao, học sinh lĩnh hội đầy đủ những kiến thức.
2.3.7. Xây dựng nề nếp học tập ở nhà
Xây dựng nề nếp học tập ở nhà là một phần quan trọng trong vấn đề hình
thành nề nếp học tập cho học sinh.
8
Hiện nay, toàn bộ phần bài làm, bài học của học sinh đều được giáo viên
hướng dẫn và hoàn thành ngay trên lớp nhưng bao giờ giáo viên cũng giao việc
về nhà: đọc lại phần bài vừa học, sau đó các em phải chuẩn bị sách vở cho ngày
hôm sau dưới sự hướng dẫn của bố mẹ. Hằng ngày các em đều qua sự kiểm tra của
cán bộ lớp trong giờ truy bài, do đó giáo viên nắm được cụ thể từng ngày thực hiện
của các em.
Hằng ngày thực hiện đều đặn như vậy lâu dần các em sẽ có thói quen về nề
nếp học tập ở nhà. Các em cũng tự soạn sách vở, đồ dùng học tập cho mình.
- Học sinh có thói quen thực hiện tốt nề nếp trong học tập, sinh hoạt ở nhà.
Mỗi học sinh có thời gian biểu cho các buổi học ở nhà cụ thể, mỗi học sinh phải tự
thực hiện: “chưa thuộc bài chưa đi ngủ, chưa làm bài đủ chưa đi chơi”.
- Học sinh có thói quen sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, giờ nào
việc nấy, tránh tình trạng vừa học vừa chơi.
- Đối với học sinh còn chậm tiến, giáo viên giao việc trực tiếp cho phụ huynh
kiểm tra . Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh .
2.3.8. Xây dựng nề nếp giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập
Chúng ta đều biết thường một học sinh giỏi, ngoan bao giờ sách vở đồ dùng
học tập cũng đầy đủ, ngăn nắp, sách vở được giữ gìn cẩn thận, không quăn mép,
quyển vở ngay ngắn sạch đẹp,..rèn nề nếp giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập cũng
là một trong những việc quan trọng trong việc dạy dỗ các em,
Các em chưa thực sự có ý thức trong việc giữ gìn sách vở đồ dùng học tập.
Nhiều em sách vở chưa được bao bọc cẩn thận nên dẫn đến rách bìa, quăn góc,…Đồ
dùng học tập tuy có nhưng vì chưa cẩn thận nên hỏng hoặc mất. Như vậy việc giữ
gìn sách vở đồ dùng học tập cũng ảnh hưởng đến chất lượng và nề nếp học tập. Do
vậy tôi chỉ đạo đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng nề nếp giữ gìn sách vở đồ
dùng học tập như sau:
- Giới thiệu bộ sách vở mẫu trong lớp để cho học sinh xem .
- Hướng dẫn cho học sinh bao bọc sách vở bằng giấy nilon, dán nhãn tên
ngay đầu góc, bấm lại cho khỏi bị rơi. Khi viết không tẩy xóa, bôi bẩn, gạch hết bài
phải dùng thước.
- Khi học sinh đọc bài sách giáo khoa, giáo viên luôn uốn nắn cách cầm sách
không bị bẻ gáy, không bị quăn góc.
- Khi viết, không được ấn mạnh tay sẽ gãy ngòi, hoặc sẽ rách vở, không tỳ
tay làm làm quăn mép vở,….
Giáo viên thường xuyên kiểm tra sách vở đồ dùng học tập của học sinh mỗi
tuần hai lần.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
- Trong năm học 2018 – 2019, được sự ủng hộ của hiệu trưởng, toàn thể
giáo viên trong trưởng, đến nay đa số các lớp, học sinh trong nhà trường đã
thực hiện tốt các nề nếp cụ thể như sau:
* Nề nếp trật tự và kỷ luật.
+ Xếp hàng ra vào lớp nhanh và trật tự.
+ Đi học đúng giờ .
+ Biết xin phép khi ra, vào lớp.
9
+ Biết nhắc nhở mẹ xin phép khi nghỉ học.
+ Ăn mặc đồng phục khi đến trường.
* Nề nếp học tập .
+ Biết giơ tay khi muốn phát biểu.
+ Khi phát biểu biết dạ thưa.
+ Ngồi đúng tư thế khi ngồi học, khi viết bài.
+ Biết giơ bảng đúng như hướng dẫn của cô giáo.
+ Biết lắng nghe và chú ý trong giờ học
+ Biết thảo luận khi học nhóm.
+ Thực hiện đúng các yêu cầu của thầy cô khi đã giao nhiệm vụ.
+ Thực hiện đúng luật chơi với các trò chơi trong học tập.
* Hành vi đạo đức.
+ Có thói quen biết chào hỏi ông bà, cha mẹ khi đi học, biết chào hỏi thầy
cô và khách đến trường, biết nhường nhịn các em nhỏ.
+ Biết giữ vệ sinh phòng lớp học, biết bỏ rác vào sọt khi thực hiện môn
thủ công, biết giữ vệ sinh sân trường, nơi công cộng.
+ Biết chăm sóc cây xanh trong và ngoài lớp .
+ Thực hiện đúng luật chơi với các trò chơi trong học tập và cũng thực
hiện tốt trong lúc chơi với bạn trong giờ chơi; không nói tục; không chửi thề.
+ Các em biết tự phục vụ bản thân, trong lớp biết tự quản, và biết phụ
giúp thầy cô làm nhiều việc có ích. Số lượng học sinh chưa thực hiện tốt còn lại
ít, hạn chế nhất ở các em là phần thực hiện việc tự học, còn phải có sự nhắc nhở
của thầy cô.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Qua việc chỉ đạo, thực hiện, rèn luyện và theo dõi các em một cách chặt
chẽ, tôi thấy các lớp đã có sự tiến bộ đáng kể. Mặc dù có những em cá biệt chưa
hoàn toàn tiến bộ, nhưng đây là kết quả khả quan. Nó đòi hỏi người làm công
tác giáo dục trước hết phải tâm huyết với nghề, yêu thương học sinh năng động
sáng tạo, thương yêu học sinh như yêu thương con của mình, công tâm.
Những biện pháp nêu trên không quá phức tạp và cũng không quá nặng
nề, không khó thực hiện đối với các lớp, với học sinh. Nhưng chủ yếu nhất vẫn
là người giáo viên, phải kiên trì thực hiện việc giáo dục nề nếp cho học sinh.
Người giáo viên cần thường xuyên theo dõi, nhắc nhở uốn nắn nếu các en gặp
khó khăn hoặc vi phạm để kịp thời chấn chỉnh. Giúp học sinh hình thành những
thói quen tốt về ứng xử trong cuộc sống, biết yêu thương, bao dung, nhân hậu,
sống có đạo đức văn minh. Nếu chúng ta xem thường, xem nhẹ thì việc hình
thành giáo dục nề nếp khó in sâu trong tiềm thức của các em, việc dạy học của
chúng ta chưa chắc đạt chất lượng. nếu lớp học có nề nếp, đó là một điều tất yếu.
3.2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường: Cần quan tâm chỉ đạo tốt xây dựng nề nếp quản lí
dạy- học chú trọng đến việc giáo dục nề nếp và kĩ năng sống cho học sinh, đối
với từng tổ chuyên môn và các đoàn thể trong nhà trường.
* Đối với giáo viên: Nên chủ động bàn bạc, thảo luận với tổ chuyên môn
cũng như với Ban giám hiệu nhà trường đề ra các nội dung hoạt động cho từng
10
chủ đề giáo dục nề nếp lớp và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Giáo viên nên
tích cực phối hợp với các đoàn thể (GV tổng phụ trách đội, công đoàn, hội cha
mẹ học sinh, những tấm gương tốt có thực gần gũi với các em ...) tổ chuyên môn
trong các phong trào thi đua và tăng cường bồi dưỡng học sinh năng khiếu và
phụ đạo học sinh yếu. Giáo dục yêu thương và chia sẻ những vui buồn, khó
khăn, giúp học sinh tự tin trong học tập. Thường xuyên phối hợp với cha mẹ học
sinh để trao đổi về việc giáo dục các em, chú trọng dối với học khiếm khuyết và
cá biệt. Quan trọng nhất một điều ở mỗi giáo viên không thể thiếu được, đó là
phải tận tâm nhiệt huyết với nghề và với tất cả vì “học sinh thân yêu” để các em
trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước tài đức vẹn toàn.
Trên đây là kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng nề nếp học tập cho học sinh
trường tiểu học Pù Nhi. Rất mong quý lãnh đạo, quý đồng nghiệp đóng góp ý
kiến để sáng kiến này được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2019
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Trịnh Văn Thọ
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
Tên tác giả
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo
1
2
3
4
Tên tài liệu
tham khảo
ĐIỀU LỆ
Trường tiểu
học
(Ban hành kèm
theo Quyết
định số
51/2007/QĐBGDĐT
Nhà xuất
bản
Năm xuất
bản
năm 2007
Các tạp chí
Giáo dục Tiểu
học.
Các chỉ thị Nghị
quyết
Các Thông tưBGĐT
12
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT XẾP
LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Văn Thọ
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng – Trường tiểu học Pù nhi
Cấp đánh
Kết quả
giá xếp loại
đánh giá
TT
Tên đề tài SKKN
(Phòng, Sở, xếp loại (A,
Tỉnh...)
B, hoặc C)
1.
Giải pháp chỉ đạo xây dựng
Phòng
nề nếp học tập cho học sinh
GD&ĐT
B
trường tiểu học Pù Nhi
Mường Lát
2.
Giải pháp tăng cường tiếng
Phòng
Việt cho học sinh dân tộc
GD&ĐT
C
thiểu số
Mường Lát
3.
Biện pháp chỉ đạo dạy tăng
Phòng
cường Tiếng Việt cho HS dân
GD&ĐT
B
tộc TS ở trường TH Pù Nhi
Mường Lát
4.
Một số biện pháp chỉ đạo
Sở GD&ĐT
công tác bồi dưỡng chuyên
Thanh Hoá
C
môn cho đội ngũ giáo viên
Năm học
đánh giá
xếp loại
2016-2017
2015-2016
2014-2015
2010-2011
13
- Xem thêm -