PHẦN THỨ NHẤT : MỞ ĐẦU
Môn Tiếng Việt cấp tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt, mục tiêu của môn
học là: nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
(Nghe, nói, đọc, viết...) để giúp các em học tập và giao tiếp trong môi trường
hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học môn Tiếng Việt góp phần rèn
luyện cho học sinh các kỹ năng, thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp..).
Đồng thời cung cấp cho học sinh kiến thức về Tiếng Việt và những hiểu biết cơ
bản về xã hội, tự nhiên, con người, văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài.
Đồng thời bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thực tiễn đã khẳng định những nét tính cách
chính của con người đều được hình thành từ trước và đầu tuổi đi học. Để thực
hiện mục tiêu của cấp học nói chung, môn Tiếng Việt nói riêng đạt hiệu quả
cao, điều đặc biệt quan trọng là mồi thầy giáo, cô giáo cần xác định đúng vai trò,
trách nhiệm của mình . Giáo viên là người thiết kế, là người cố vấn, trọng tài, là
nhân tố quyết định chất lượng giáo dục. Chính vì lẽ đó, trong dạy học đòi hỏi
luôn nhiệt tình, tâm huyết đào sâu suy nghĩ để nắm bắt vững vàng về hệ thống
kiến thứcTiếng Việt, thực sự coi trọng việc đổi mới phương pháp, hình thức,
phương tiện dạy học làm thế nào để tập trung rèn luyện cho học sinh tính năng
động và sáng tạo theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, lấy
học sinh làm nhân vật trung tâm.Trong dạy học người thầy có quan tâm vào hoạt
động của người học mới có điều kiện rèn luyện cho trẻ em những năng lực cần
thiết đáp ứng với yêu cầu đổi mới của đất nước, phù hợp với xu thế giáo dục của
khu vực thế giới. Hiện nay, trong đổi mới giáo dục phổ thông thay sách giáo
khoa mới thể hiện rất rõ về mục đích dạy học. Con đường đạt đến mục đích
hoàn toàn khác với phương pháp dạy học cũ. Mục đích giờ học hiện nay không
phải giáo viên truyền thụ lời giảng của mình, học sinh nghe, ghi nhớ một cách
thụ động, máy móc, không được quyền đánh giá mình, đánh giá bạn với phương
pháp cũ, mục đích cao nhất của phương pháp mới là làm sao để chủ thể HS ,
dưới sự hướng dẫn của giáo viên chiếm lĩnh được tri thức, hình thành phát triển
kỹ năng, tạo ra được sự phát triển toàn diện về tri tuệ, tâm hồn, nhân cách, năng
lực. Con đường đạt đến hiệu quả tự phát triển là sự vận động tự thân của mỗi
chủ thể sinh (Học sinh tích cực tham gia các hoạt động, đào sâu suy nghĩ, nghe,
nói, đọc, viết.....dưới sự hướng dẫn, điều hành của thầy giáo). Mọi phương pháp,
biện pháp hình thức hoạt động của thầy và trò đều nhằm thúc đẩy trí tuệ từng
học sinh . Tất cả các hoạt động đó không thể có bằng những hình thức tác động
từ bên ngoài mà phải bằng một hệ thống những thao tác, biện pháp cho hoạt
động được vật chất hóa. Phương pháp dạy học phải vật chất hóa hoạt động bên
trong của học sinh, tạo được sự hoạt động và phát triển bên trong của học sinh,
làm cho người học linh hoạt, sáng tạo, tự tìm tòi, phát hiện, chiếm lĩnh kiến
thức, vận dụng kiến thức thành thạo trở thành kỹ năng, kỹ xảo tạo thành hệ
thống tri thức và kỹ năng thực hành, hình thành nhân cách người học. Mục tiêu
đặt ra là như vậy, nhưng trong thực tế giảng dạy ở trường tiểu học số 2 Liên thủy
còn gặp không ít khó khăn, so với đích cần đạt thì nó có sự cách biệt bởi lẽ:
năng lực đội ngũ còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Khả năng tiếp nhận cái
mới còn chậm, còn nặng về phương pháp dạy học theo lối cải cách giáo dục. Kỹ
năng sư phạm tổ chức dạy học trên lớp thiếu linh hoạt ở một số khâu quan trọng
như : khâu giao việc, hướng dẫn, tiếp sức, kiểm soát hoặc tiếp cận các đối tượng
học sinh, kỹ năng sử dụng đồ dùng dạy học nhằm bổ trợ cho thực hiên đổi mới
phương pháp dạy học hạn chế, dẫn đến nhiều giờ dạy các phân môn Tiếng Việt
chưa nhẹ nhàng, chưa tự nhiên, hiệu quả chưa thật cao.
Xuất phát từ nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của môn Tiếng Việt cấp
Tiểu học và tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học. Xuất phát từ thực
tế giảng dạy ở trường, là phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, tôi đã băn
khoăn, trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra một số biện pháp chỉ đạo thực
hiện, rút kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cấp Tiểu
học. Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ đi sâu vào ba phân môn đó là : Tập đọc;
Luyện từ và câu và Tập làm văn.
PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG
I - NHỮNG CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN ĐỔI MỚI CÁCH THỰC
HIỆN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (PPDH)
1- Cơ sở lý luận
Thực hiện đổi mới PPDH trước hết cần phải nhận thức sâu sắc về cơ sở lí
luận dạy học. Từ cơ sở lý luận dạy học để vận dụng soi rọi vào quá trình dạy
học. Nói đến cơ sở lý luận dạy học trước hết chúng ta phải tiếp cận hệ thống,
tiếp cận nhân cách, tiếp cận hoạt động và công nghệ dạy học.
Tiếp cận hệ thống là cách thức nghiên cứu đối tượng như một hệ thống toàn
vẹn, phát triển tự động, tự sinh thành và phát triển thông quan việc giải quyết
mưu thuẫn nội tại do sự tương tác hợp quy luật của các thành tố tạo ra. Qua đó
phát hiện ra yếu tố sinh thành, yếu tố bản chất tất yếu và lô gic phát triển của đối
tượng trở thành hệ toàn vẹn, tích hợp mang chất lượng mới.
Ví dụ: Quá trình dạy học được coi là một hệ thống, nó bao gồm nhiều thành
tố và các thành tố này có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại với
nhau, quyết định chất lượng của nhau ... Mối quan hệ giữa thầy, trò, phương tiện
và điều kiện dạy học, mục đích, nội dung và PPDH với quá trình kiểm tra đánh
giá trong quá trình dạy học có những quan hệ phụ thuộc nhau. Toàn bộ quá trình
dạy học này chịu sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế - xã hội .
Trong quá trình dạy học, thầy và trò cũng là chủ thể có mối quan hệ. Quá
trình dạy học muốn kiến tạo và phát triển nhân cách phải thông qua sự thống
nhất ba mặt đó là :
+ Tính riêng biệt, độc đáo của cá nhân: Dạy học phải tạo được môi trường
thuận lợi nhất cho mỗi cá nhân phát huy được tiềm năng để trở thành chính
mình.
+ Hòa đồng các mối quan hệ liên nhân cách: Giúp người học tham gia vào
các hoạt động và các mối quan hệ xã hội.
+ Ảnh hưởng của nhân cách tới xã hội, cộng đồng: Giúp học sinh có thể
đóng góp cống hiến sáng tạo cho xã hội, cộng đồng.
Quá trình dạy học phải coi hoạt động là bản chất của mình có nghĩa là dạy
học chính là quá trình tổ chức các hoạt động khác nhau để học sinh được hoạt
động và lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Chuyển hóa vào thực tiễn dạy học
những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ từ mục tiêu, nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức....... Sử dụng tối đa phương tiện kĩ thuật hiện
đại đa kênh, đa hình vào dạy học. Chú ý đến điều kiện xây dựng công nghệ dạy
học. Dạy học phải theo hướng cộng tác, thầy có chức năng thiết kế , tổ chức chỉ
đạo và kiểm tra quá trình học, không làm thay, hoc sinh tự điều chỉnh quá trình
chiếm lĩnh tri thức của bản thân, tự thiết kế, tổ chức thi công, kiểm tra việc học
của chính mình dưới sự hướng dẫn tổ chức, điều hành của giáo viên. Kiểu dạy
học này là coi trọng quá trình học của học sinh, tập trung chú ý hình thành ở học
sinh những kỹ năng " Học cách học" . Thầy giáo chỉ là trọng tài khoa học, cố
vấn khoa học để các em chiếm lĩnh đối tượng ( bài học) một cách chuẩn xác
lôgic và hợp lý, vai trò của giáo viên hoàn toàn không bị hạ thấp mà được nâng
cao lên nhiều với những yêu cầu cao hơn.
Như vậy, người giáo viên hình thành ở học sinh cách học đúng đắn nhờ đó
mà phát triển ở các em những kỹ năng cơ sở của quan sát, thu nhập thông tin,
đưa ra những suy luận, phán đoán và kết luận. Để làm được điều đó đòi hỏi
người thầy không những có đủ tri thức mà phải có phương pháp, kinh nghiệm và
đầy sáng tạo, phải hiểu được tâm lý đối tượng để lựa chọn và xây dựng những
phương pháp phương tiện và hình thức dạy học phù hợp mang lại hiệu quả cao
trong đổi mới PPDH. Dạy và học là một hoạt động song phương giữa thầy và
trò. Dạy và học luôn gắn chặt với nhau, tồn tại với nhau, sinh thành ra nhau và
thống nhất với nhau. Để đạt được mục tiêu dạy học rõ ràng người thầy phải
“lao tâm, khổ tứ trăn trở, nghĩ suy” và thông qua nhiều con đường nhưng có lẽ
PPDH, các thủ pháp sư phạm... là cách thức, là con đường, là phương tiện duy
nhất.
2- Cơ sở thực tiễn
Đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang được toàn Dảng,
Nhà nước đầu tư quan tâm, trong đó đổi mới cách thực hiện PPDH là linh hồn,
cốt lõi, là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Đổi mới cách thực hiện PPDH sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ,
nếp làm của bao thế hệ học trò, chủ nhân tương lai của đất nước. Như vậy đổi
mới PPDH sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo dục và đào tạo. Nó
tạo ra sự hiện đại hóa của quá trình này.
Đổi mới cách thực hiện PPDH là đổi mới cái gì? Đổi mới như thế nào?.
Chúng ta cần nhấn mạnh rằng: không phải cái gì cũng tồi và cái gì cũng hoàn
hảo. Hiệu quả hay không của PPDH là do người sử dụng, tiến hành nó như thế
nào? Xét bản thân phương pháp thì không có phương pháp nào là phương pháp
tồi, không có phương pháp nào là phương pháp tích cực hay thụ động, mà
phương pháp ấy trở nên tồi, thụ động khi con người ta không khai thác hết tiềm
năng của nó hoặc sử dụng nó không đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, thực tế
không có phương pháp nào tồn tại lại không có ý nghĩa nào đó. Đổi mới PPDH
thực chất không phải thay thế các PPDH cũ bằng các loại PPDH mới.
Như vậy đổi mới PPDH không phải là sự thay thế các phương pháp quen
thuộc hiện có bằng phương pháp mới lạ. Thực chất chúng ta phải hiểu lại cho
đúng cách làm, cách tiến hành các PPDH, cách linh hoạt sáng tạo trong khi sử
dụng nó ở những hoàn cảnh và tình huống khác nhau để PPDH có tác động tích
cực đến người học. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của phương tiện dạy học và
của chính khoa học về PPDH, một số PPDH hiện đại cần được bổ sung trong "
va li PPDH " của giáo viên.
* Cơ sở thực tiễn của đổi mới PPDH là xuất phát từ sự phát triển sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi những con người năng động,
sáng tạo, tự lực, tự cường. Hơn nữa thế giới đã chuyển sang thời kỳ kinh tế tri
thức, cho nên đầu tư vào chất xám sẽ là cách đầu tư hiệu quả nhất cho sự hưng
thịnh của mỗi quốc gia. Vì vậy mà nhu cầu học tập của người dân ngày càng
nhiều, trình độ dân trí ngày càng tăng, xã hội học tập đang hình thành và phát
triển của khoa học công nghệ đã mở ra những khả năng và điều kiện thuận lợi
cho việc sử dụng phương tiện công nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Như
vậy, khi đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học và cách đánh giá kết quả học tập
của học sinh thì PPDH buộc phải cũng phải thay đổi theo. Đổi mới PPDH là nội
dung hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Trong giáo
dục tiểu học để thục hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục Tiểu học đặt ra là "
Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để hoc
sinh tiếp tục học trung học cơ sở". Điều cực kỳ quan trọng đòi hỏi người thầy
phải dạy cái gì? Dạy như thế nào? Dạy bằng cách nào? để hình thành năng lực,
hứng thú, khả năng hợp tác, phát huy hết tiềm năng, sự sáng tạo, khả năng tự
học, tự đánh giá, tham gia đánh giá bạn .....của học sinh.
.
II . ĐIỀU TRA PHÂN TÍCH XỬ LÍ TÌNH HUỐNG
1 - Tiến hành điều tra khảo sát
*. Khảo sát tình hình đội ngũ
* số lượng
Tổng số cán bộ giáo viên: 13 - Giáo viên đứng lớp :10
Trong đó: Tuổi đời bình quân
Tuổi đời : từ 40 trở lên :
09 đ/c
Dưới 40
04 đ/c
Dưới 30
không
Tuổi nghề: Dưới 5 năm
Đạt tỉ lệ 69,2%
Đạt tỉ lệ 30,8%
Không
Dưới 10 năm
Không
Dưới 15 năm
03 đ/c
Đạt tỉ lệ 23,0%
Dưới 25 năm
05 đ/c
Đạt tỉ lệ 38,5%
Trên 25 năm
05 đ/c
Đạt tỉ lệ 38,5%
* Chất lượng đội ngũ :
Trên chuẩn : 16/13
Đạt tỉ lệ 46,2%
Đạt chuẩn: 07/13
Đạt tỉ lệ 53,8%
Chưa đạt chuẩn: Không
b. Năng lực giảng dạy:
Tốt
06/13
46,2%
Khá
06/13
46,4%
ĐYC
01/13
76%
c. Năng lực sư phạm
- Giáo viên dạy giỏi cấp huyện: 03 tỉ lệ 23,1%
- Giáo viên dạy giỏi cấp trường : 06 tỉ lệ 46,2%
d. Nhận thức
- 100% tổng số giáo viên nhận thức tốt về quan điểm, mục tiêu, ý nghĩa của
việc đổi mới giáo dục phổ thông. Tuy nhiên trong vận dụng PPDH mới vẫn còn
một bộ phận giáo viên thực hiện đổi mới PPDH còn chậm.
2 - Thực trạng của việc sử dụng PPDH
Cùng với quá trình triển khai thực hiện nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông thay sách giáo khoa mới ở cấp Tiểu học
nước ta nói chung, sự chuyển biến mạnh mẽ của ngành giáo dục Lệ Thủy nói
riêng. Trường Tiểu học số 2 Liên thủy đã có những nỗ lực, cố gắng trong việc
triển khai thực hiện đổi mới phương pháp dạy học dạy học. Một số tiết dạyTiếng
Việt đã thể hiện sự linh hoạt, nhẹ nhàng. Hiện nay đổi mới PPDHnói chung,môn
Tiếng Việt nói riêng đã được quan tâm đúng mức, là vấn đề cấp bách, then chốt
của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn
đề đang tác động và thu hút sự tập trung của đội ngũ. Tuy nhiên vẫn còn một bộ
phận giáo viên chưa thực sự chú ý đến việc vận dụng PPDH theo hướng tích cực
hóa hoạt động của học sinh, hoặc thực hiện mang tính hình thức, năng lực giáo
viên chưa đáp ứng với yêu cầu đặt ra. Cụ thể:
*Luyện từ và câu: Nhiều giáo viên chưa đặt bài dạy Luyện từ và câu trong
hệ thống kiến thức đã học và sắp học, mối quan hệ của hệ thống các bài tập
trong một tiết học, chưa khai thác triệt để các PPDH luyện theo mẫu, PP thực
hnàh giao tiếp chưa khắc sâu kiến thức sau mỗi bài tập hoặc khái quát kiến thức
cuối tiết học.
*Tập đọc: Quy trình dạy học thể hiện rõ ràng , cụ thể tuy nhiên trong từng
hoạt động bộc lộ những hạn chế nhất định qua các hoạt động luyện đọc(hướng
dẫn, định hướng giọng đọc,sự nhanh nhạy trong khâu phát hiện và chữa lỗi...);
Hoạt động tìm hiểu bài ,đọc mẫu tiếp sức cho học sinh hoặc chưa linh hoạt ở
khâu tổ chức luyện đọc diễn cảm.
*Tập làm văn: Do đặc điểm phân môn là rèn kỹ năng tổng hợp (nghe, nói,
đọc, viết)đòi hỏi học sinh biết phát huy cao độ trí tuệ và cảm xúcđể thực hiện tốt
các yêu cầu của bài học. Là môn học mang tính tích hợp cao. Nhưng thực tế học
sinh khả năng vốn từ hạn chế, dùng từ diễn đạt vụng, ít học sinh biết dùng từ
ngữ miêu tả, biện pháp nghệ thuật, so sánh để viết câu văn có hình ảnh sinh
động (Văn miêu tả ....) do vậy giáo viên khi thao giảng, dự giờ ngại dạy Tập làm
văn. Tronggiờ dạy chưa tạo được tình huống giao tiếp tự nhiên, học sinh ít hứng
thú học tập .
III. CÁC BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI PPDH MÔN TIẾNG VIỆT
1. Đổi mới PPDH nhất thiết phải đổi mới nhận thức trong cán bộ chỉ đạo
đội ngũ giáo viên
Những năm gần đây( từ năm 2002 đến nay) Phòng giáo dục Lệ thủy đã tổ
chức hội thảo nhiều chuyên đề. Trọng tâm của hội thảo là trao đổi ý kiến về thực
trạng dạy học theo chương trình mới đổi mới giáo dục phổ thông. Đi sâu vào tổ
chức sinh hoạt chuyên môn cụm trường giảng dạy thực tế, dạy học theo từng
vùng miền mục đích chỉ đạo bồi dưỡng đội ngũ thực hiện đổi mới PPDH. Chính
vì thế phong trào đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa học tập của học sinh
nhằm tạo điều kiện cho mọi học sinh được bộc lộ, được phát triển được diễn ra
sôi nổi, rầm rộ trên diện rộng.
Trường Tiểu học số 2 Liên Thủy cũng đang hòa vào trong không khí phong
trào đó. Bằng nhiều việc làm trước mắt, lâu dài bằng nhiều tài liệu văn bản chỉ
đạo như tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III ( 2003-2007) tài liệu bồi
dưỡng các Mô đun dành cho quản lý, giáo viên tạp chí giáo dục, sách giáo khoa,
sách giáo viên .....
Chuyên môn đã tổ chức cho giáo viên nghiên cứu học tập bồi dưỡng kĩ nội
dung ở tài liệu. Tổ chức trao đổi thảo luận, rút kinh nghiệm qua thao giảng, dự
giờ, hội thảo chuyên môn theo tuần, tháng.
Những việc làm trên đã giúp đội ngũ hiểu, nắm chắc về cốt lõi của tinh thần
đổi mới giáo dục phổ thông thay sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 5 thấu suốt
được vị trí, tầm quan trọng của đổi mới PPDH là vấn đề then chốt có tính chất
quyết định chất lượng dạy học góp phần tạo ra kĩ năng, kĩ xảo, nhân cách của
học sinh. Từ đó càng thẩm thấu được vai trò, trách nhiệm của người giáo viên
là: Trong quá trình dạy học, thầy đóng vai trò chủ đạo, tổ chức hướng dẫn điều
hành cỗ vũ, động viên khuyến khích học sinh hoạt động học tập, học sinh là
người chủ động, tích cực làm việc tự tìm kiếm kiến thức, vận dụng kiến thức ,
tập cách tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau.
Nhận thức được đội ngũ giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo
dục đào tạo, tạo nên uy tín, sự tồn tại, sống còn của nhà trường. Việc dạy học
của giáo viên Tiểu học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, là
ngươì thầy tổng thể dạy đủ 9 môn học mà mỗi môn học chứa đựng một phương
pháp, cách thức tổ chức khác nhau. Do vậy, khi lên lớp giáo viên phải đồng thời
sử dụng nhiều phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học khác nhau trên các
phân môn khác nhau trong một buổi học. Do đặc thù của cấp học nên đòi hỏi
người giáo viên Tiểu học phải bằng nhiều hình thức bồi dưỡng " Học tập suốt
đời" để tích lũy vốn hiểu biết, về tri thức, khoa học, nắm thật vững chắc về
chuẩn kiến thức của từng lớp học, môn học vận dụng các PPDH đúng đặc trăng
các phân môn trong môn Tiếng Việt. Chú ý quan tâm đầu tư bồi dưỡng đội ngũ
một cách toàn diện mới có được đội ngũ “vừa hồng, vừa chuyên ”mới có thể
đảm đương được công việc của trường, ngành phân công, mới làm tròn sứ mạnh
của mình .
Để kế hoạch bồi dưỡng thực hiện chủ động, đúng quy trình mang lại hiệu
quả thiết thực, người cán bộ quản lý phải nghiên cứu, thiết lập kế hoạch bồi
dưỡng kĩ càng, chu đáo phù hợp với tình hình thực tế trường mình theo quy trình
khép kín.
2- Lập kế hoạch bồi dưỡng: Xác định đây là khâu cực kỳ quan trọng
Sau khi tiến hành quan sát, nắm bắt tình hình đội ngũ ( Trình độ, hoàn cảnh,
điều kiện, năng lực sư phạm, năng lực giảng dạy,......) .Từ đó người quản lý có
cách nhìn tổng quát, thiết lập quy trình bồi dưỡng: Xác định nội dung trọng tâm
cần bồi dưỡng, chú trọng những điểm yếu, thiếu, đối tượng được bồi dưỡng, lực
lượng tham gia bồi dưỡng, hình thức bồi dưỡng, thời điiểm bồi dưỡng. Ở trường
tôi đã thực hiện như sau:
Ví dụ:
*Nội dung cần bồi dưỡng là : Kỹ năng tổ chức dạy trên lớp môn Tiếng Việt
đi sâu chuyên đề: Dạy Luyện từ và câu, Tập làm văn, Tập đọc, những vấn đề đội
ngũ vướng mắc, khó khăn.
* Đối tượng: Toàn thể cán bộ giáo viên đứng lớp , chú trọng những đồng chí
yếu.
* Hình thức bồi dưỡng : thông qua sinh hoạt chuyên môn, tổ chuyên môn,
coi tổ chuyên môn là hạt nhân, là nơi bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ hoặc
thông qua dự giờ kiểm tra thường xuyên.
* Xây dựng lực lượng bồi dưỡng
+ Ban giám hiệu (Phó hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo) .
+ Tổ chuyên môn.
+ Giáo viên dạy giỏi.
* Thời gian bồi dưỡng : Mỗi tuần sinh hoạt tổ chuyên môn một lần, mỗi
tháng sinh hoạt chuyên môn chung 1 lần. Tháng 9 đi sâu chuyên đề đổi mới
PPDH môn Tiếng Việt, triển khai hàng tháng có rút kinh nghiệm, đến tháng 4
tổng kết.
- Nội dung sinh hoạt tổ, sinh hoạt chuyên môn là phải có kế hoạch trước đưa
vào quy trình đầu năm, tuy nhiên có một số yêu cầu cần thiết giải đáp vướng
mắc trong thực tế thì chuyên môn chỉ đạo thay đổi, tiến hành kịp thời, phù hợp
với điều kiện nhằm tạo động lực thúc đẩy đội ngũ.
3- Chỉ đạo lập kế hoạch bài dạy, kỹ năng sư phạm tổ chức lớp học
a. Chỉ đạo lập kế hoạch dạy học ( Dạy cái gì? Dạy bằng cách nào? Đối
tượng nào? Thời lượng cho mỗi hoạt động? Phương tiện bổ trợ cho thực hiện
PPDH : Từ đó định rõ các hoạt động) nhằm đạt được mục tiêu kiến thức, kỹ
năng của từng tiết học, môn học phù hợp với đối tượng học sinh.
b. Dạy trên lớp: chú trọng hoạt động dạy học Tiếng Việt của thầy, trò để tích
cực hóa hoạt động của học sinh:
* Giáo viên :
+ Giao việc đây là khâu quan trọng phải cụ thể rõ ràng,tường minh.
+ Kiểm tra học sinh: Kiểm tra kĩ, kịp thời động viên, giúp đỡ tiếp sức, tạo
mọi điều kiện để học sinh tham gia.
+ Tổ chức báo cáo kết quả làm việc ( nhiều hình thức)
Tổ chức đánh giá: Hình thức đánh giá đa dạng, phong phú, khách quan, công
bằng
* Học sinh
+ Hoạt động giao tiếp ( đặc thù của môn Tiếng Việt )
+ Hoạt động Phân tích, tổng hợp, thực hảnh lý thuyết( như các môn học
khác)
Tất cả các hoạt động trên có thể tổ chức theo nhhiều hình thức tổ chức khác
nhau ( đọc lập, nhóm, lớp ) và được thực hiện qua các PP đặc trưng của môn học
: PP thực hành giao tiếp, PP đóng vai, PP rền luyện theo mẫu, PP phân tích ngân
ngữ.
Sau mỗi chuyên đề, tiết dạy thao giảng, dự giờ, tổ chuyên môn tổ chức thảo
luận rút ra những thnàh công, hạn chế định ra hướng khắc phục. Với cách làm
này đã góp phần bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ về thực hiện đổi
mới PPDH môn tiếng Việt. Với cách làm một số dạng bài điển hình trên các
phân môn sau đó chuyên môn khái quát hóa, nhân rộng điển hình để giáo viên
thực hiện .
Ví dụ : Một số biện pháp chỉ đạo dạy các phân môn
1. Phân môn luyện từ và câu
Một số biện pháp dạy dạng bài, kiểu bài luyện từ và câu ở lớp 2
* Khi dạy bài : Mở rộng vốn từ về vật nuôi - Câu kiểu Ai thế nào?( lớp 2
tuần 17)
Đây là kiểu bài tập mở rộng vốn từ qua tranh vẽ.
Mục tiêu là: Mở rộng vốn từ , các từ chỉ đặc điểm của loài vật (Bài tập 1)
Khi dạy bài tập này giáo viên cần biết: Dạng bài tập này vừa có tác dụng
giúp học sinh nhận biết " Nghĩa biểu vật" của từ ( từ nào biểu thị sự vật, hoạt
động, tính chất) vừa có tác dụng giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ. Đây
là hình thức luyện tập về từ ở mức độ đơn giản nhận biết đặc điểm, tính chất của
sự vật các từ cho sẵn là tính từ : nhanh, chậm. khỏe, trung thành.
Cách dạy dạng bài tập này là giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học và
phương pháp sử dụng cụ thể :
+ GV vẽ phóng to tranh minh họa ở SGK - TV2-Tập 1, trang 142
+ 4 thẻ từ dùng để viết tên 4 con vật: Trâu, rùa, chó, thỏ
+ Thẻ từ viết 4 từ chỉ đặc điểm: nhanh, chậm, khỏe, trung thành
- GV tổ chức cho học sinh họat động cá nhân ( 100% HS đều được tham gia)
sau đó hướng dẫn HS lần lượt đối chiếu từng từ cho sẵn với hình ảnh tương ứng
thông qua tổ chức một trò chơi " gắn nhanh đúng, các từ chỉ đặc điểm phù
hợp với con vật " ở bài tập này đòi hỏi GV phải vận dụng đồ dùng thiết bị dạy
học linh hoạt, hình thức phù hợp giúp học sinh nắm được nghĩa biểu vật đồng
thời được mở rộng thêm vốn từ về vật nuôi với những con vật gần gũi, thân
thuộc xung quanh các em.
* Dạy kiểu bài tập điền từ vào chỗ trống dạng từ có sẵn cần điền.
Bài: Từ ngữ về Bác Hồ ( trang 104 - TV2- tập 2)
- Bài tập 1: Chọn từ ngữ trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống: ( nhà sàn, râm
bụt, đạm bạc, tinh khiết)
Bác Hồ sống rất giản dị . Bữa cơm của Bác ..... như bữa cơm của mọi người
dân. Bác thích hoa huệ, loài hoa trắng.... Nhà Bác là một ngôi...... khuất trong
vườn Phủ Chủ tịch. đường vào nhà trồng hai hàng ........, hàng cây gợi nhớ hình
ảnh miền Trung quê Bác. Sau giờ làm việc, Bác thường ..... ...chăm sóc cây, cho
cá ăn.
- Bằng các vật thật, tranh ảnh GV giúp học sinh hiểu nghĩa các từ cần thiết đã
cho sẵn.
- HS phải biết lựa chọn và kết hợp từ đã chọn với những từ đứng trước, đứng
sau nó trong chuỗi lời nói bằng hai thao tác cơ bản của hoạt động sử dụng từ
ngữ. GV hướng dẫn HS đọc các từ ngữ trong câu hoặc đoạn chưa hoàn chỉnh đã
cho để sơ bộ nắm nội dung các câu, đoạn, sau đó cho HS đọc các từ đã cho sẵn
một lượt rồi lần lượt chọn và điền từ ngữ cho sẵn vào từng chỗ trống. Xem từ
nào có khả năng kết hợp với những từ trong câu phù hợp với nghĩa của câu thì
điền từ đó.
Phân môn luyện từ và câu đối với lớp 2 nói riêng và với các lớp khác nói
chung hệ thống bài tập, kiến thức kỹ năng được hình thành từ thấp đến cao vì
vậy trong quá trình giảng dạy phải chỉ đạo giáo viên vận dụng các phương pháp
dạy học, hình thức, phương tiện dạy học một cách linh hoạt, phù hợp với đặc
trưng từng dạng bài theo từng lớp.
* Nhiệm vụ của phân môn luyện từ và câu là :
- Rèn học sinh dùng từ đúng, nói viết thành câu.
+ Cần khai thác triệt để thế mạnh của PPDH luyện tập theo mẫu, phân tích
ngôn ngữ, phương pháp thực hành giao tiếp.
1- PP Luyện tập theo mẫu
GV đưa các mẫu cụ thể về lời nói hoặc mô hình lời nói có chứa các hiện
tượng từ ngữ - ngữ pháp là nội dung của giờ học. qua đó hướng dẫn HS nhận xét
phân tích rút ra kiến thức kĩ năng mà yêu cầu vừa học đặt ra.
2- PP phân tích ngôn ngữ : Thường dùng trong dạy TLV câu.
Dưới sự hướng dẫn tổ chức của GV , HS tiến hành tìm hiểu các hiện tượng
ngôn ngữ, quan sát và phân tích các hiện tượng đó theo định hướng của bài học
làm cơ sở rút ra những nội dung, lý thuyết hoặc thực hành cần ghi nhớ.
3 - PP thực hành giao tiếp : là phương pháp đặc thù bởi vì mọi hiện tượng
ngôn ngữ, ngữ pháp trong sách giáo khoa không nằm ngoài môi trường giao tiếp
của lứa tuổi học sinh. PP này không chỉ là phương pháp hướng dẫn HS vận dụng
lý thuyết được học và thực hiện các nhiện vụ trong quá trình giao tiếp, mà còn là
PP cung cấo lý thuyết cho HS trong quá trình giao tiếp. Việc sử dụng PP thực
hành giao tiếp trong dạy học phân môn luyện từ và câu là rất cần thiết, giúp HS
có cơ hội vận dụng và tích lũy kinh nghiệm trong việc sử dụng ngôn ngữ trong
các quá trình tình huống giao tiếp cụ thể.
Ngoài các PPDH nói trên trong giờ Luyện từ và câu tùy từng nội dung dạy
học, điều kiện lớp học và đối tượng HS từng vùng miền, GV có thể vận dụng
nhiều PPDH khác để giờ học gây được hứng thộhc tập của các em như PP trò
chơi học tập, PP thảo luận nhóm, PP đóng vai.........
2 - Phân môn Tập đọc
a. Những biện pháp hướng dẫn HS biết cách nghĩ hơi đúng khi đọc
Để đọc được lưu loát, người đọc phải có cấch nghỉ hơi đúng nhất là khi đọc
những câu dài:
- Trước hết, cần nghỉ hơi ở những chỗ có dấu kết thúc câu hoặc dấu ngăn
cách các bộ phận với câu (các dấu chấm, chấn hỏi, chấm lửng ..... hoặc các dấu
phẩy, chấm phẩy........) người đọc cần nghỉ một khoảng bằng khoảng thời gian
phát âm một tiếng. Trong từng trường hợp dấu kết thúc câu đồng thời cũng kết
thúc đoạn để xuống dòng, quãng nghỉ sẽ dài gấp đôi khoảng nghỉ phát âm một
tiếng.
- Bên cạnh những dấu kết thúc câu hoặc ngăn cách các bộ phận câu còn có
một số dấu câu có cách dùng đặc biệt, cụ thể là:
* Dấu chấm lửng thể hiện lời nói ngắt quãng:
- Ngắt quảng giữa một tiếng. Ví dụ: Bỗng một tiếng " kít .....ít" làm cậu sững
lại (Tiếng Việt 3, tập 1, trang 54) trong trường hợp này, người đọc không nghỉ
hơi mà phải phát âm kéo dài chỗ có dấu chấm lửng.
- Ngắt quảng giữa các tiếng hoặc từ . Ví dụ: Ông ơi ...... cụ ơi....! Cháu xin
lỗi cụ.(Tiếng Việt 3, tập 1, trang 55) ; chúng cháu đánh giặc Mỹ đến một trăm
năm cũng không sợ, chỉ sợ một điều là Bác ..... trăm tuổi ( Tiếng việt 3, tập 1,
trang100). Trong trường hợp này người đọc chỉ cần nghỉ hơi ở chổ có dấu chấm
lững một quảng bằng khoảng thời gian phát âm một tiếng.
* Dấu chấm lững làm giãn cách lời nói để chờ đợi một thông tin bất ngờ,
VD : Mặt trời mọc ở đằng ..... Tây! (Tiếng việt 3, tập 2, trang 52). Trong trường
hợp này người đọc cần nghỉ ở chỗ có dấu chấm lửng một quãng bằng thời gian
phát âm một tiếng.
* Dấu ngoặc kép đánh dấu một số từ ngữ được dẫn nguyên văn từ lời nói
khác hay những từ ngữ có cách hiểu đặc biệt . VD : Nghe tiếng " chui", viên
tướng thấy chối tai (Tiếng việt 3, tập 1, trang 38) ; Bãi cát ở đây từng ngợi ca là
" Bà chúa của bãi tắm" (Tiếng việt 3, tập 1, trang 109). Trong trường hợp này
người đọc không nghỉ hơi mà nhấn giọng những từ ngữ được đánh dấu.
* Sự nghỉ hơi diễn ra giữa những cụm từ dài để lời nói được mạch lạc rõ
ràng. VD: Khi dạy học sinh đọc bài Chú sẽ và bông hoa bằng lăng, có câu " mùa
hoa này, bằng lăng mở hoa mà không vui vì bé thơ, bạn của cây phải nằm viện "
Nếu HS đọc liền một mạch không nghỉ hơi giữa hai vế câu " Bằng lăng nở hoa
mà không vui/ vì bé thơ...." thì sẽ làm cho người nghe không hiểu rõ ý. Vì vậy
giáo viên hướng dẫn để học sinh nghỉ hơi đúng.
Khi hướng dẫn học sinh cách nghỉ hơi giữa những cụm từ dài, giáo viên cần
lưu ý các em đọc tự nhiên, tránh cường điệu, đọc nhát gừng vì hiểu ngắt giọng
một cách máy móc hoặc quá to những tiếng cần nhấn giọng. Bằng cảm nhận của
người đọc bản ngữ học sinh có thể tự phân tách các vế câu và cụm từ đơn giản.
b. Một số biện pháp hướng dẫn HS tìm hiểu bài trong giờ dạy Tập
đọc lớp 5
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhằm mục đích trau dồi kỹ năng đọc - hiểu
nắm bắt thông tin, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho
học sinh luyện đọc diễn cảm.
Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đạt hiệu quả tốt, ngay từ khi yêu cấu HS
tiếp cận văn bản nhằm mục đích đọc đúng (luyện đọc) , GV cần giúp các em
hiểu nghĩa của một số từ ngữ có tác dụng góp phần nâng cao kỹ năng đọc - hiểu
(từ ngữ được chú trọng trong SGK, từ ngữ phổ thông mà HS địa phương chưa
quen, từ ngữ quan trọng giúp hiểu nội dung bài). Dựa vào các câu hỏi, bài tập
trong SGK ( biên soạn theo trình độ kiến thức và kĩ năng cần đạt đối với HS lớp
5), GV hướng dẫn HS tìm hiểu bài theo một số yêu cầu sau:
- Nêu rõ câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm ( đoạn, bài) và trả lời
đúng nội dung. Có thể kết hợp cho 1 học sinh đọc thành tiếng, những học sinh
khác đọc thầm, sau đó trao đổi, thảo luận theo vấn đề GV nêu ra. Ví dụ:
+ GV yêu cầu HS cả lớp đọc thầm khổ thơ thứ nhất trong bài “Hạt gạo làng
ta” ( tuần 4) trả lời câu hỏi:
*Hạt gạo được làm nên từ những gì?
+ Giáo viên mời một HS đọc thành tiếng, lớp đọc thầm khổ thơ cuối (bài hạt
gạo làng ta) sau đó nêu ý kiến trao đổi câu hỏi:
* Vì sao tác giả gọi hạt gạo là " Hạt vàng" ?
- Tùy theo trình độ học sinh trong lớp, GV có thể dùng nguyên văn câu hỏi,
bài tập trong SGK hoặc chia tách nội dung câu hỏi thành 1- 2 ý nhỏ để HS dễ
thực hiện, hoặc bổ sung thêm câu hỏi phụ có tác dụng gợi ý, dẫn dắt HS trả lời
câu hỏi hoặc thực hiện tốt hơn bài tập trong SGK. Ví dụ:
+ Câu hỏi 2 trong bài “Cái gì quý nhất”? (tuần 9) - Mỗi bạn đưa ra lý lẽ
như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình? nêu tách thành 3 ý nhỏ để HS dễ trả
lời : Hùng đưa ra lý lẽ thế nào để bảo vệ ý kiến của mình? (Quý nhất là hạt
gạo ). Quý đưa ra lý lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình? (quý nhất phải là
vàng ). Nam đưa ra lý lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình? (quý nhất là thì
giờ)
+ Trước khi trả lời câu hỏi 2 trong bài “ Chuyện một khu vườn nhỏ
”(tuần 11) - Mỗi loài cây trên ban công nhà bé Thu có những đặc điểm gì nổi
bật? giáo viên yêu cầu học sinhđọc thầmđoạn 2( có thể kết hợp cho học sinh đọc
thành tiếng) và trả lời câu hỏi phụ: Ban công nhà bé Thu trồng những cây gì?
Sau khi HS nêu được tên 4 loài cây (cây quỳnh, cây hoa ti gôn, cây hoa giấy, cây
đa Ấn Độ ). GV cho các em đọc thầm lại đoạn 2 để trả lời toàn bộ câu hỏi trên
hoặc tách thành nhiều ý cho từng học sinh trả lời (nêu đặc diểm nổi bật của từng
loại cây).
Tuy nhiên GV cần thận trọng và cân nhắc kĩ để tránh đặt thêm những câu hỏi
khai thác nội dung vượt quá yêu cầu bài học, không phù hợp với trình độ lớp 5,
nhất là những câu hỏi về cảm thụ văn học.
- Bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau (làm việc cá nhân hoặc theo cặp,
theo nhóm....), GV tạo điều kiện cho HS luyện tập một cách tích cực: trả lời câu
hỏi, diễn đạt ý bằng câu văn gọn, rõ , dùng đúng từ. Sau khi HS nêu ý kiến, GV
sơ kết ngắn ngọn, nhấn mạnh ý chính và có thể ghi bảng (kết hợp cho HS ghi
vào vở để rèn kĩ năng ghi chép ở lớp 5 ).
c. Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm đối với HS lớp 5
- Sau khi HS đã tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa của bài đọc.
Muốn đọc diến cảm một bài văn, phải tìm được giọng điệu ngữ điệu phù hợp với
tình huống, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay thái độ
của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản . Dạy HS đọc
diễn cảm, giáo viên cần hướng dẫn các em luyện tập để từng bước đạt được yêu
cầu theo mức độ từ thấp đến cao như sau:
+ Biết đọc nhấn giọng những từ ngữ quan trọng trong câu (từ ngữ, gợi cảm,
gợi tả, từ ngữ " chìa khóa " làm nổi bật nội dung chính ......)
+ Biết thể hiện rõ ngữ điệu ( sự thay đổi về tốc độ, độ cao , cường độ, trường
độ) phù hợp với từng loại câu( câu kể, câu hỏi, câu cảm , câu khiến)
+ Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời của nhân vật.
+ Biết đọc phân biệt lời nhận vật phù hợp với lứa tuổi, tính cách của từng
nhân vật ( người già, trẻ em, người tôt, kẻ xấu....)
+ Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản hay
thái độ, cảm xúc của tác giả ( vui, buồn, trang nghiêm, giận giữ,....)
GV thường hướng dẫn HS đọc diễn cảm thông qua biện pháp đọc mẫu; biện
pháp tốt nhất là đọc cho HS thực hành luyện đọc để các em bộc lộ sự sáng tạo,
cảm thụ riêng trên cơ sở những điểm chung thống nhất về cách đọc một văn bản.
- Sau khi HS đã hiểu bài học, GV yêu cầu HS đọc thật tốt một đoạn để thăm
dò khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của HS.
- Qua kết quả dọc của HS, GV gợi ý để HS phát huy ưu điểm, khắc phục, hạn
chế, và tự tìm ra cách đọc hợp lý .
Ví dụ : GV hỏi: Đoạn văn vừa rồi được đọc với giọng vui hay buồn? để làm
rõ tính cách của nhân vật cần đọc với giọng cao ra sao?.....
- GV đọc mẫu minh họa, gợi ý hoặc tạo tình huống cho học sinh nhận xét,
giải thích , tự tìm ra cách đọc.
Ví dụ: "Các em lắng nghe và phát hiện cách đọc của cô( thầy): ngừng
nghỉ( ngắt nhịp) ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ
nào ?.... Vì sao cô ( thầy) đọc hai câu hỏi của bé Ê-mi-li: - Đi đâu cha? - Xem gì
cha?( bài Ê-mi-li, con..... Tiếng việt 5, tập 1, trang 49) với giọng nhẹ nhàng, tình
cảm , không cao giọng ở các từ dùng để hỏi?....
- Tạo điều kiện cho từng HS được thực hành luyện tập diễn cảm toàn bài
(theo cặp, theo nhóm) để các em rút kinh nghiệm; tổ chức cho HS đọc diễn cảm
trước lớp để các em học tập lẫn nhau và được cô(thầy) động viên, uốn nắn.
Trong giờ dạy tập đọc đọc mẫu của GV được xem như là một trực quan cực
kỳ quan trọng nhằm tạo hứng thú và thu hút sự chú ý của HS. Vì vậy GV phải
xác định được đọc mẫu cái gì? đọc mẫu bao giờ? đọc mẫu như thế nào cho đúng
với yêu cầu của bài dạy.
3. Phân môn Tập làm Văn
Ví dụ : Dạy bài Tập làm văn miêu tả ở lớp 4
* Mục đích : Rèn luyện kỹ năng cơ bản : quan sát đối tượng miêu tả, lựa
chọn sắp xếp ý, xây dựng đoạn bài, nhằm xây dựng kỹ năng, xây dựng văn bản
hoàn chỉnh.
* Biện pháp : GV cần thực hiện tuân theo các yâu cầu cơ bản sau đây:
1. Rèn kỹ năng quan sát đối tượng miêu tả (Quan sát tỉ mỉ các bộ phận
theo trình tự hợp lý)
2-Kỹ năng lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả: ( Chọn nét nổi bật, sắp xếp ý hợp
lý theo 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài)
3-Kỹ năng dựng đoạn, viết bài : mỗi đoạn văn miêu tả có một nội dung nhất
định, khi viết lời văn chân thực, giàu hình ảnh và cảm xúc, dùng các biện pháp
nghệ thuật nhân hóa, so sánh...
* Lưu ý về cách diễn đạt:
1- Tả đồ vật : Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm, có thể
so sánh nhân hóa làm cho đồ vật thêm sinh động( anh, chị, bác. cô .chú...)
2- Tả cây cối: Thường dùng những từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, hương
thơm, mùi vị, có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh, từ láy..........
3- Tả con vật: Thường dùng những từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, âm
thanh, từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật có thể sử dụng biện pháp liên
tưởng, so sánh hay nhân hóa để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ
gần gũi với con người.
Với cách làm như trên, tôi đã triển khai rút kinh nghiệm, định hướng được
nhiều tiết dạy.Trong thực tế đã mang lại hiệu quả thiết thực cho đội ngũ các dạng
bài khác nhau và tiếp tục nhân lên diện rộng trên thực tế ở trường. Tồng số tiết
thao giảng ở tổ chuyên môn, phó hiệu trưởng dự giờ, rút kinh nghiệm là 42 tiết/
các phân môn, trên các lớp.
Với cách làm đó giúp cho đội ngũ cơ bản nắm khá tốt về tinh thần đổi mới
PPDH môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu học nắm được kiến thức, kĩ năng, phương
pháp, hình thức, dạy các phân môn, biết vận dụng đổi mới kiểm tra đánh giá HS
theo công văn số 30/2005, phần nào đã khắc phục được những hạn chế đã nêu ở
phần thực trạng về đội ngũ. Do vậy chất lượng dạy học môn Tiếng việt cơ bản
ổn định và có những chuyển biến đáng kể.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
1. Kết luận
Qua thực tế chỉ đạo dạy học môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học số 2 Liên
Thủy, theo những định hướng đổi mới về giáo dục phổ thông thay sách giáo
khoa mới nói chung, bậc tiểu học nói riêng, tôi đã rút ra những kết luận sau:
- Vấn đề đổi mới PPDH nói chung, trong môn Tiếng Việt nói riêng có vị trí
đặc biệt quan trọng vì hoạt động dạy và học đang là hoạt động chủ yếu của nhà
trường và xét cho đến cùng thì khoa học giáo dục là khoa học về phương pháp
giáo dục trong đó có PPDH. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới đã chỉ ra rằng
:" Cuộc cách mạng sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục trong xã
hội hiện đại. Hơn nữa ở bậc học càng thấp, vai trò của phương pháp lại càng lại
càng quan trọng. Cần nhấn mạnh rằng, không có một phương pháp nào tồn tại
lại không có một ý nghĩa nào đó. Đổi mới PPDH là đổi mới các tiến hành các
PP, đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở
khai thác triệt để ưu điểm của phương pháp cũ và vận dụng nhuần nhuyễn linh
hoạt và sáng tạo tích cực một số PP mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực chủ
động, sáng tạo của người học, làm thế nào để mọi học sinh đều được tham gia
hoạt động học tập với tâm thế hứng thú, tự giác, biết phát hiện, , tìm tòi, suy
nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức vận dụng rèn kỹ năng thực
hành.Rõ ràng vai trò chủ thể của học sinh được đề cao hơn còn giáo viên thì
phải lao động công phu hơn, phải xác định rõ mục đích kiến thức, kỹ năng của
mỗi tiết học, dạng bài chuẩn bị kế hạch dạy cho chu đáo, tỉ mỉ sao cho tất cả HS
đều được làm việc. Khi diều khiển hoạt động của lớp học giáo viên phải khéo
léo linh hoạt dẫn dắt học sinh tìm hiểu, vận dụng...tạo được môi trường giao tiếp
tự nhiên, thân thiện, không áp đặt. Khi đánh giá học sinh ý kiến của giáo viên là
quan trọng song giáo viên không phải là người duy nhất đánh giá kết quả học
tập của học sinh mà phải tạo mọi điều kiện để các em tự đánh giá, đánh giá lẫn
nhau. Giáo viên luôn coi trọng năng lực, cá tính của học sinh.
-Để đảm bảo sự thành công của việc đổi mới PPDH môn Tiếng Việt, nhà
trường cần có sự đổi mới trong công tác quản lý chỉ đạo đảm bảo toàn diện. Đổi
mới PPDH không thể triền khai nếu không phát triển chuyên môn của đội ngũ
giáo viên.
2 - Kết quả đạt được năm học 2006 -2007
* Chất lượng về học lực môn Tiếng Việt
Năm học
2006-2007
Giỏi
SL
67
Khá
%
SL
21,2 199
Trung
Yếu
bình
%
SL
%
SL
63,0 40
12,7 10
TB
trở
Khá + Giỏi
lên
% SL %
SL %
3,1 306 96,8 266 82,4
* Chất lượng về đội ngũ
Số giờ
dạy
42
Tốt
SL
12
%
28,6
Khá
SL
20
%
47,6
chưa xếp loại(lớp
ĐYC
SL
2
5)
%
4,8
SL
08
%
\
- Xem thêm -