1. Mở đầu
1. 1. Lí do chọn đề tài
Trong chương trình môn Ngữ Văn ở trường THPT, bên cạnh việc cung cấp cho học
sinh những nội dung cơ bản về văn học, tiếng Việt còn có nội dung làm văn. Phân môn làm
văn có vị trí quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng viết các dạng văn bản khi học sinh làm
bài kiểm tra, học tập ở trường cũng như quá trình làm việc, sinh sống sau này.
Dù kiến thức văn học, tiếng Việt của học sinh có tốt đến đâu thì kết quả
cuối cùng cũng thể hiện trên bài làm văn. Và muốn bài làm văn có kết quả cao
tất yếu các em phải năm vững kiến thức lí thuyết trong các tiết làm văn. Tuy
nhiên trong thực tế, ý thức học tập của học sinh đối với các tiết học làm văn
chưa thật cao, nếu để trả lời cho câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó thì có rất
nhiều lý do khác nhau: nguyên nhân khách quan có, chủ quan có… Thứ nhất, vì
đặc thù các tiết học này bao giờ cũng khô khan hơn so với tiết đọc hiểu văn bản;
thứ hai, hầu hết kiến thức của tiết học đều đã thể hiện cụ thể, chi tiết trong sách
giáo khoa, vì vậy không chỉ học sinh mà đôi khi ngay cả giáo viên dễ rơi vào
tâm lí nhàm chán, chủ quan, tiếp cận tiết học một cách qua loa dẫn đến kết quả
là các em sẽ không thật sự hiểu, nắm vững về kiến thức phân môn, và như vậy,
khi làm bài thực hành các em sẽ không chủ động với một công thức có sẵn mà
rất mày mò… Nhưng điều mà tôi quan tâm ở đây là không phải đi sâu vào phân
tích, tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân của nó như một nhà xã hội học mà chỉ
nhìn nhận nó ở trên góc độ là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ Văn Trung
học Phổ thông với những suy tư, trăn trở, lo lắng và tâm huyết với bộ môn để
khắc phục phần nào tình trạng trên.
Dạy làm văn là dạy cho học sinh phương pháp, cách thức chung để tạo lập một
dạng văn bản phù hợp hoàn cảnh giao tiếp, đạt được những mục đích yêu cầu nhất định. Để
một giờ làm văn thật sự có hiệu quả, phương pháp dạy học thông qua thực hành, tìm hiểu
ngữ liệu thực tế để rút ra bài học lí thuyết sẽ giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức chứ
không tiếp nhận kiến thức một cách máy móc, hay tái hiện lại theo sách giáo
khoa, giúp các em thật sự hào hứng và sôi nổi trong mỗi tiết học. Và, điều quan
trọng hơn cả là nó sẽ giúp cho mỗi tiết học làm văn thực sự có hiệu quả, có chất
lượng cao. Vì thế lựa chọn ngữ liệu minh họa mẫu phù hợp hiệu quả là rất quan trọng.
Khi biên soạn các tiết làm văn trong sách giáo khoa, ban biên tập luôn cung cấp ít
nhất một ngữ liệu mẫu cho mỗi bài học. Đa số các ngữ liệu được cung cấp có thể khai thác
một hoặc tất cả các nội dung của bài học. Tuy nhiên trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy
có một số ngữ liệu mẫu trong sách giáo khoa chưa thực sự phát huy được hiệu quả tối ưu chưa tạo được hứng thú, sự tập trung, lượng thông tin có thể khai thác cho bài học còn ít....
Với mong muốn có được những giờ tập làm văn thật sự bổ ích, tôi đã suy nghĩ, sưu
tầm và ứng dụng có hiệu quả một số ngữ liệu bổ sung hoặc thay thế ngữ liệu mẫu trong
SGK. Trong đó có áp dụng thành công cho bài "Tiểu sử tóm tắt", là một bài học hướng dẫn
học sinh cách viết tiểu sử tóm tắt rất cần thiết cho cuộc sống của các em.
Từ những lí do trên tôi đã thực hiện giải pháp Mở rộng sử dụng ngữ liệu mẫu trong
tiết dạy " Tiểu sử tóm tắt" tiết 90 phân môn làm văn lớp 11. Nay tôi xin trình bày để đồng
nghiệp tham khảo và góp ý.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
- Đánh giá được cụ thể hạn chế của các Ngữ liệu mẫu trong Sgk ngữ văn 11 bài
"Tiểu sử tóm tắt"
- Cung cấp ngữ liệu bổ sung mở rộng ngữ liệu mẫu .
- Rút ra một số suy nghĩ có ý nghĩa như những gợi ý cho việc lựa chọn sử dụng ngữ
liệu trong dạy làm văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tiết 90: " Tiểu sử tóm tắt " thuộc chương trình ngữ văn 11 học kì 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu của phép biện chứng logic, phân tích, so sánh.
- Sử dụng phương pháp thực nghiệm thông qua việc dạy trên lớp, đối chiếu, rút
kinh nghiệm, lấy ý kiến học sinh.
1.5. Đóng góp mới của đề tài
Phân tích kĩ càng, cụ thể hơn quá trình thực hiện và hiệu quả của đề tài, tập trung
vào một tiết học cụ thể
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Lý luận dạy học đã chỉ ra "trong quá trình học tập, người
học sinh không những lĩnh hội những kiến thức do giáo viên
cung cấp, mà quan trọng hơn các em còn phải tự tìm ra tri thức
mới, kỹ năng mới từ những nguồn tài liệu khác nhau. Tuy nhiên,
sự tìm kiếm cái mới của học sinh không giống như hoạt động
hoàn toàn độc lập, sáng tạo của các nhà khoa học khi thực hiện
một đề tài nghiên cứu khoa học. Vì hoạt động của học sinh
được thực hiện với vai trò cố vấn, tổ chức, điều khiển thường
xuyên của người giáo viên" [2]. Do vậy, trong nhiều năm trở lại đây
việc cố gắng tìm ra một số giải pháp hữu hiệu để nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục nói chung và tạo sự hứng thú cho các em học sinh nói riêng là một vấn
đề đặt ra cho mỗi giáo viên cũng như toàn ngành giáo dục. Đến nay có rất nhiều
giải pháp hữu hiệu mà tôi cho rằng nó mang lại hiệu quả cao như việc cải cách
sách giáo khoa đến việc thay đổi phương pháp giáo dục theo hướng tích cực,
chủ động của học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong xu thế mới
hiện nay.
Đối với môn ngữ văn nói chung và phân môn làm văn nói
riêng, để dạy và học có hiệu quả theo chương trình sách giáo
khoa hiện hành cũng cần phải đổi mới phương pháp dạy học.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định
trong Nghị quyết Trung Ương khóa VII và được cụ thể hóa ở
luật giáo dục “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng
đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
2
động đến tư tưởng, tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho
học tập cho học sinh” [1].
Trong xu thế chung đó phương pháp áp dụng thực hành để
rút ra kiến thức trong dạy làm văn được thực hiện cụ thể bằng
giải pháp mở rộng ngữ liệu mẫu ở tiết Tiểu sử tóm tắt mà tôi đã
lựa chọn cũng là một hình thức phát huy tính tích cực, chủ động
cho học sinh. Đồng thời với giải pháp này tôi sẽ giúp học sinh
có thể loại bỏ thói quen học tái hiện, qua loa đối với phân môn.
Như vậy, việc mở rộng ngữ liệu minh họa trong dạy làm
văn phù hợp với quy luật nhận thức từ trực quan sinh động đến
tư duy trìu tượng vì vậy sẽ đem lại hiệu quả cao trong dạy học.
Để sử dụng có hiệu quả giải pháp này, giáo viên cần phải chú
trọng nghiên cứu bài học, chịu khó tìm hiểu sưu tầm hệ thống
ngữ liệu phù hợp từng tiết học cụ thể.
2.2. Thực trạng trước khi thực hiện giải pháp của
sáng kiến
a. Thuận lợi
* Về phía giáo viên:
- Hiện nay phương pháp dạy học phát huy vai trò chủ động, tích cực của
học sinh là một phương pháp dạy học mới phù hợp với xu hướng của thời đại,
được sự ủng hộ cao của xã hội, sự nhiệt tình hưởng ứng của phụ huynh và học
sinh. Và giải pháp mở rộng ngữ liệu tìm hiểu trong làm văn là một hình thức
giúp học sinh thông qua ngữ liệu thực hiện các yêu cầu của giáo viên hoặc làm
bài tập tự rút ra những kết luận then chốt là một hình thức đề cao vai trò của
người học, gây hứng thú cho người học cho nên tôi nhận được sự ủng hộ,
hưởng ứng nhiệt tình của học sinh.
- Cơ sở vật chất của nhà trường đã được đầu tư đầy đủ hơn, với trang bị
máy chiếu đa năng và trình độ công nghệ thông tin của bản thân tôi có thể thuận
tiện áp dụng phương pháp dạy học này vì không sợ mất thời gian với công đoạn
chép ngữ liệu và hệ thống câu hỏi, bài tập lên bảng.
* Về phía học sinh:
- Khi áp dụng phương pháp từ thực hành rút ra lí thuyết bằng giải pháp
mở rộng ngữ mẫu, học sinh có cơ hội để thể hiện sự hiểu biết của mình, phù
hợp với tâm lý, lứa tuổi. Do vậy các em sẽ hào hứng, nhiệt tình hơn trong khi
học, khắc phục được lối truyền thụ tri thức thụ động, một chiều trước kia.
- Đa phần học sinh của trường THPT Triệu Sơn1 đều theo khối A, các
em khá thông minh năng động và đặc thù khối học tạo cho các em thói quen
phải được làm việc trong mỗi tiết học, vì vậy được tiếp cận những ngữ liệu mới
ngoài sách giáo khoa sẽ khiến các em tham gia giờ học sôi nổi hơn rất nhiều,
không còn mang suy nghĩ học văn là chỉ ngồi nghe và chép không cần tư duy,
không cần làm việc.
3
* Về nội dung tiết học được trình bày trong sách giáo khoa:
Kiến thức cơ bản được trình bày rõ ràng, cụ thể; Đã có một ngữ liệu mẫu
là văn bản tiểu sử tóm tắt về Lương Thế Vinh và một hệ thống yêu cầu cho việc
khai thác ngữ liệu.
b. Khó khăn
* Về phía giáo viên:
- Đây là giải pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải tạo được ngữ liệu mới
và hệ thống câu hỏi, bài tập thật sự phù hợp và có sức thuyết phục, ngữ liệu
phải vừa quen thuộc lại vừa mới với học sinh để các em thấy dễ có thể tìm hiểu,
lại thấy khó cần phải chinh phục. Điều đáng nói là hệ thống ngữ liệu này không
có sẵn đòi hỏi người giáo viên phải tư duy, tìm tòi.
* Về phía học sinh:
- Kiến thức tiết làm văn thường khô khan, khác hẳn với những tiết đọc
hiểu văn bản, nhiều học sinh chưa học đã có tâm lí chán, ngại học. Hơn nữa
nhìn vào nhan đề tiết học là Tiểu sử tóm tắt sinh dễ phát sinh tâm lí đó là một
bài học không có gì mới vì các em đã nghe nói đến rất nhiều.
- Hầu hết học sinh trong trường đều theo khối A vì vậy niềm đam mê
tìm hiểu của các em trước các bài học là rất ít.
* Về nội dung tiết học được trình bày trong sách giáo khoa:
Còn tồn tại một số hạn chế như: Thứ nhất ở phần I - Mục đích, yêu cầu
của tiểu sử tóm tắt mới dừng lại ở việc cung cấp kiến thức mà chưa cung cấp
ngữ liệu để học sinh được làm việc rồi tự rút ra kiến thức; Thứ hai ở phần II Cách viết tiểu sử tóm tắt mặc dù người biên soạn đã cung cấp một ngữ liệu mẫu
nhưng vẫn chưa đủ thông tin để học sinh tiếp cận kiến thức bài học thấu đáo,
học sinh chưa phân biệt được tiểu sử tóm tắt với tiểu sử chi tiết bằng trực quan,
chưa nhận thức được sâu sắc sự tác động của mục đích, yêu cầu tóm tắt đến lựa
chọn thông tin tiêu biểu khi viết tiểu sử tóm tắt.
2.3. Giải pháp mở rộng ngữ liệu mẫu trong tiết làm
văn Tiểu sử tóm tắt
2.3.1. Nhận thức nội dung phần I- Mục đích, yêu cầu của tiểu sử tóm
tắt :
- Bài học Tiểu sử tóm tắt gồm có 2 tiết. Ở đây tôi chỉ áp dụng giải pháp
cho tiết 1 hướng vào mục đích giúp học sinh nắm được mục đích, yêu cầu của
tiểu sử tóm tắt và cách thức viết tiểu sử tóm tắt.
- Phần I bài học là mục đích yêu cầu của tiểu sử tóm tắt, khi đọc sách
giáo
khoa học sinh sẽ có ngay câu trả lời mục đích yêu cầu của tiểu sử tóm tắt là gì?
Như tôi đã trình bày trong phần đặt vấn đề thì hầu hết kiến thức của tiết học
được sách giáo khoa trình bày rất rõ ràng và cụ thể trong sách, học sinh chỉ cần
đọc có thể nhận biết ngay, cho nên nếu không lựa chọn một phương pháp tối ưu
nhất thì phần kiến thức đó sẽ đến với các em như kiểu học vẹt, không khắc sâu.
Vì thế ở phần I này tôi đã cung cấp cho các em một ngữ liệu mẫu là bản tiểu sử
chi tiết về trạng nguyên Lương Thế Vinh như sau:
4
LƯƠNG THẾ VINH
Trạng nguyên Lương Thế Vinh, tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên, sinh ngày 1 tháng 8
năm Nhâm tuất (1442) trong một gia đình nông dân có học ở làng Cao Hương, huyện Thiên
Bản, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Thời niên thiếu, Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là thần đồng, thông minh, nhanh trí.
Chưa đầy hai mươi tuổi, tài học của Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm
21 tuổi, đời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ tư (1463), Lương Thế Vinh đỗ trạng
nguyên khoa Quý Mùi.
Cuộc đời 32 năm làm quan, Lương Thế Vinh đều ở Viện hàn lâm, trải thăng đến
chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự, đứng đầu Viện hàn lâm.
Ông có biệt tài về ngoại giao, được nhà vua tin yêu, giao trọng trách soạn thảo văn
từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài. Nhiều bài biểu do Lương Thế Vinh soạn gửi
cho vua Minh để giải quyết mối quan hệ giữa hai nước, đều được vua Minh chấp thuận. Vua
Minh phải khen là “nước Nam có lắm người tài”.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh còn dạy học ở Quốc tử giám, Sùng văn quán và Tú
lâm cục là những trường cao cấp thời bấy giờ đào tạo nhân tài cho đất nước về văn chương
và toán học. Học trò của ông có nhiều người đỗ đạt cao như Nguyễn Tất Đại (người làng
Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình), đỗ tiến sĩ năm 1469; Lương Đắc Bằng (làng
Hội Triều, nay thuộc Hoằng Phong, Hoằng Hóa, Thanh Hóa), đỗ bảng nhãn năm 1499.
Lương Thế Vinh không những dạy toán học ở Tú lâm cục, ông còn giữ chức Cấp sự
trung khoa công, chuyên khảo sát việc tạo tác các công trình như cung điện, đền đài, thành
quách, đường sá, đê điều... cần đến toán học.
Ông đã biên soạn cuốn "Đại thành toán pháp "để tiện dùng, đó là cuốn sách giáo
khoa toán đầu tiên ở nước ta. Trong cuốn sách, ông đã tổng kết những kiến thức toán thời
đó và cả những phát minh của ông.Trong sách dạy các kiến thức về số học, phương pháp đo
lường bóng (phương pháp đồng dạng), hệ số đo lường, cách cân, đo, đong, đếm, định vị,
đơn vị, tiền vải..., dạy toán đạc điền...Điều đáng chú ý là cuốn sách soạn từ thế kỷ XV, mà
mãi đến thế kỷ XIX nó vẫn được dùng làm sách giáo khoa để dạy toán trong các trường học.
Thời Lương Thế Vinh, các công cụ tính toán thật là thô sơ nghèo nàn. Ở Việt Nam
lúc đó công cụ tính toán chủ yếu vẫn là hai bàn tay bằng cách “bấm đốt ngón tay”. Lương
Thế Vinh sáng chế ra một công cụ tính toán lợi hơn đó là bàn tính gẩy - chiếc bàn tính đầu
tiên của Việt Nam.
Lương Thế Vinh am hiểu sâu sắc về âm nhạc và hát chèo. Ông đã cùng Thân Nhân
Trung và Đỗ Nhuận soạn hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc dùng trong quốc lễ và triều hội. Ông
nghiên cứu hàng trăm phường chèo, biên soạn cuốn "Hý phường phả lục "ghi lại các khoán
ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa và
hát.Năm 1501, năm năm sau khi ông mất, bạn ông là tiến sĩ Quách Hữu Nghiên (người Thái
Bình) đã đề tựa và đưa in tác phẩm trên. Lịch sử Việt Nam - tập 1, xuất bản năm 1971 đã
ghi nhận: “Cuốn Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh xuất bản năm 1501 có thể coi đó là
tác phẩm lý luận đầu tiên về nghệ thuật kịch hát cổ truyền. Tác giả đã tổng kết kinh nghiệm
và nêu lên những nguyên tắc có tính chất lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát
và đánh trống”.
Về văn thơ, Lương Thế Vinh cũng có nhiều đóng góp. Ông giữ chức Sái phu trong
hội thơ Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông, là người chuyên phê bình, sửa chữa thơ trong hội,
nhiều lần đã ngâm họa với vua Lê như bài Tướng sĩ nhớ nhà và bài Động Lục Vân.Ông còn
cùng với Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Đào Cử soạn nhiều bài ký, văn bia ở Văn Miếu, ở
5
chùa Diên Hựu (Một Cột). Ông để lại hai bài phú ca ngợi cuộc sống thanh cao, không màng
danh hoa phú quý. Văn thơ của Lương Thế Vinh, nhìn chung thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu
nước, thương dân, căm ghét bọn quan lại tham nhũng, thích cuộc sống thanh cao, gần gũi
với dân quê.
Lương Thế Vinh là người trọng thực học, thích mở mang kinh tế. Ông đã dạy dân
làng Hương làm nghề thuốc bắc, thuốc nam chữa bệnh cứu người, khuyến khích mở nhiều
chợ búa để dân mua bán, trao đổi hàng hóa.
Cuối đời trạng nguyên Lương Thế Vinh về trí sĩ tại quê nhà. Ông rất yêu con trẻ,
thường bày cho chúng những trò chơi vui nhộn và bổ ích. Thấy trẻ rất thích nặn con rối, ông
đã nghĩ ra cách chơi rối nước.Trò múa rối nước trở thành một loại nghệ thuật sân khấu đặc
sắc trong nhân dân, truyền mãi đến ngày nay.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh mất tại quê nhà ngày 26/8 năm Bính Thìn (1496), thọ
55 tuổi.
Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) đã hết lời ca ngợi Lương Thế Vinh, đánh giá
ông là con người có tài kinh bang tế thế, một con người “tài hoa danh vọng vượt bậc”.[4]
Ngữ liệu sẽ được thể hiện trên máy chiếu đa năng trong mỗi tiết học để
học sinh dễ thực hiện các yêu cầu mà giáo viên đề ra.
- Trong SGK chỉ có một Ngữ liệu mẫu là văn bản Tiểu sử tóm tắt Lương Thế Vinh,
được bố trí ở phần II- Cách viết tiểu sử tóm tắt. Còn phần I không có ngữ liệu mẫu vì thế học
sinh không phân biệt được rõ ràng tiểu sử tóm tắt với tiểu sử chi tiết, không thấy được sự
tác động của mục đích, yêu cầu tóm tắt đến lựa chọn nội dung thông tin khi viết tiểu sử tóm
tắt. Do đó việc tôi chọn đưa thêm ngữ liệu mới này sẽ giúp học sinh nhận thức bài học tích
cực và dễ dàng hơn.
- Tôi trình chiếu và đọc ngữ liệu là văn bản tiểu sử chi tiết về trạng nguyên Lương Thế
Vinh (mà tôi đã sưu tầm), đồng thời yêu cầu HS theo dõi văn bản về Lương Thế Vinh trong
phần II SGK.
LƯƠNG THẾ VINH (1942-?)
Nhà thơ, nhà toán học Lương Thế Vinh tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên, quê gốc ở
làng Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay thuộc huyện Vụ Bản), tỉnh Nam Định.
Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng, thông minh, hoạt bát và nhanh trí. Chưa đầy
20 tuổi, tiếng tăm vàtài học của Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 21
tuổi (1463), Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên. Ông có tài ngoại giao nên được nhà vua giao
soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài. Ông đã biên soạn cuốn "Đại
thành toán pháp "để tiện dùng trong nhà trường, đó là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở
nước ta.
Về văn chương, nghệ thuật, Ông cũng có nhiều đóng góp. Ông được vua phong
chức Sái phu trong Hội Tao Đàn, chuyên phê bình, sửa chữa, nhuận sắc thơ trong hội. Cuốn
"Hý phường phả lục" của ông được Quách Hữu Nghiên đánh giá là "một tác phẩm lý luận
đầu tiên về nghệ thuật kịch hát cổ truyền".
Khác với các sĩ phu đường thời, ông tỏ ra là một người có thực học, không thích văn
chương phù phiếm, luôn nghĩ đến việc mở mang dân trí, phát triển kinh tế, dạy dân dùng
thuốc bắc, thuốc nam để chữa bệnh. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã đánh giá ông là con người
có tài kinh bang tế thế, con người “tài hoa danh vọng vượt bậc” (Theo từ điển văn học, NXB
Thế giới, 2004) [3]
- Tôi yêu cầu HS đối chiếu hai văn bản về nội dung, dung lượng và ngôn ngữ diễn
đạt từ đó học sinh tự rút ra kết luận
6
+ Giống nhau: Cùng cung cấp thông tin chính xác, khách quan về cuộc đời sự nghiệp
của trạng nguyên Lương Thế Vinh
+ Khác nhau: Văn bản trong Sách giáo khoa ngắn gọn hơn, cung cấp những nét
chính về cuộc đời và sự nghiệp của Lương Thế Vinh
- Tôi lại tiếp tục dẫn dắt, gợi ý: Văn bản cô đưa ra là một bản tiểu sử chi tiết về
Lương Thế Vinh. Vậy theo các em văn bản trong SGK có thể gọi là tiểu sử chi tiết được
không? Và chắc chắn tất cả các học sinh đều thống nhất gọi văn bản trong SGK là tiểu sử
tóm tắt. Tôi tiếp tục yêu cầu học sinh cho biết mục đích viết bản tiểu sử tóm tắt trong SGK là
gì? Câu hỏi này học sinh tinh ý sẽ nhận ra khi xem xuất xứ của văn bản (Theo Từ điển văn
học, NXB Thế giới, 2004)
- Ngay sau khi tìm hiểu xong ngữ liệu mẫu này học sinh đã có thể nhìn
thấy ngay thế nào là tiểu sử tóm tắt, những mục đích, yêu cầu của một tiểu sử
tóm tắt. Vì vậy khi tôi nêu ra một câu hỏi mang tính tổng kết về kiến thức lí
thuyết như sau : Vậy các em có thể xác định được như thế nào là tiểu sử tóm tắt?
Mục đích, yêu cầu của tiểu sử tóm tắt là gì? Học sinh dễ dàng kết luận:
+ Tiểu sử tóm tắt là văn bản thông tin một cách khách quan, trung thực những nét
cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của một cá nhân
+ Mục đích: Giới thiệu cho người đọc, người nghe về cuộc đời, sự nghiệp và cống
hiến của người được nói tới
+ Yêu cầu:
-> Thông tin một cách chính xác, khách quan về người được nói tới.
-> Nội dung và độ dài của văn bản cần phù hợp với mục đích viết tiểu sử tóm tắt.
-> Ngôn ngữ diễn đạt: Cần cô đọng, trong sáng, không sử dụng phép tu từ.
Như vậy, được làm việc với ngữ liệu mà tôi cung cấp các em có hứng
thú là tự mình rút ra được kiến thức sau khi thực hiện các yêu cầu tìm hiểu ngữ
liệu, các em sẽ có cảm giác rất dễ chịu vì hiểu ra vấn đề một cách cụ thể chứ
không phải đọc trên sách giáo khoa, khắc phục hoàn toàn với việc chiếm lĩnh
kiến thức một cách tái hiện, dễ dãi. Thực tế là trong sách giáo khoa ở mục này
chỉ trình bày nội dung về mục đích, yêu cầu của tiểu sử tóm tắt. Nếu không áp
dụng giải pháp mở rộng ngữ liệu mẫu, tôi chỉ cần cho học sinh đọc các nội dung
trong sách và sau đó hỏi mục đích, yêu cầu của tiểu sử tóm tắt là gì? Học sinh
có thể nhìn sách trả lời ngay một cách chính xác, tôi cho học sinh ghi lại và kết
thúc phần I. Học sinh không cần phải động não, thậm chí các em có thể phát
biểu - tiết học này để tự đọc sách giáo khoa, mà khi các em tự đọc không trãi
qua thực hành cụ thể thì phần đọng lại sẽ không có, theo thời gian các em sẽ
quên ngay vì đây là kiểu thuộc vẹt, không hiểu bản chất của vấn đề.
Các em sẽ rất dễ rơi vào nhàm chán, giờ học trôi qua một cách buồn tẻ, nhưng
với phần bài tập tôi đã nêu ra thì tiết học sẽ trở nên sôi nổi , hào hứng và có hiệu
quả hơn.
2.3.2. Nhận thức nội dung phần II- Cách viết tiểu sử tóm tắt
- Phần II của tiết học này gồm hai nội dung là chọn tài liệu để viết tiểu
sử tóm tắt và viết tiểu sử tóm tắt được sách giáo khoa trình bày như sau- Đọc
ngữ liệu là văn bản tiểu sử tóm tắt về Lương Thế Vinh và thực hiện các yêu
cầu: Kể lại vắn tắt cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học Lương Thế Vinh?
Phân tích tính cụ thể, chính xác, chân thực và tiêu biểu của các tài liệu được lựa
7
chọn? Để chuẩn bị cho bài viết tiểu sử tóm tắt, cần sưu tầm những tài liệu gì?;
Đọc lại văn bản Lương Thế Vinh và cho biết: Bài viết gồm những nội dung
nào? Chúng được sắp xếp ra sao? Những lưu ý khi viết phần đánh giá về người
được viết tiểu sử tóm tắt? Các tài liệu đó phải đáp ứng những yêu cầu nào?. Nếu
như theo phương pháp dạy học truyền thống tôi chỉ cần gọi học sinh trả lời từng
câu hỏi, phần II kết thúc nhanh chóng trong đơn điệu, học sinh khó đọng lại
kiến thức lí thuyết chứ chưa nói đến thực hành. Để khắc phục điều này, tôi
hướng dẫn học sinh đồng thời tìm hiểu cả hai ngữ liệu, ngữ liệu mở rộng được
cung cấp ở đầu tiết học và ngữ liệu trong sách giáo khoa.
- Để giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung kiến thức về những chuẩn bị khi viết tiểu sử
tóm tắt, tôi trình chiếu lại ngữ liệu mở rộng (văn bản tiểu sử chi tiết về Lương Thế Vinh) và
yêu cầu học sinh.
+ Kể lại những sự kiện, thành tựu chủ yếu trong cuộc đời và sự nghiệp của Lương
Thế Vinh?
+ Xác định mục đích viết tiểu sử tóm tắt về Lương Thế Vinh trong văn bản ở SGK?
( Tóm tắt những cuộc đời sự nghiệp nhà bác học Lương Thế Vinh để giới thiệu trong từ điển
văn học). Mục đích đó đã tác động như thế nào đến việc lựa chọn thông tin cho văn bản
tóm tắt?
- Vì học sinh đã được tìm hiểu các ngữ liệu mẫu nên dễ dàng phân tích được tính cụ
thể, chính xác, chân thực và tiêu biểu của các tài liệu được lựa chọn để đưa vào tiểu sử tóm
tắt
+ Lương Thế Vinh không chỉ có đóng góp về văn học, toán học mà còn có đóng góp
về văn hóa nghệ thuật và giáo dục. Nhưng trong văn bản tóm tắt chỉ chọn những thành tựu
về toán học và văn học, là hai lĩnh vực tiêu biểu cho năng lực khoa học tự nhiên và xã hội
của Lương Thế Vinh, phù hợp mục đích giới thiệu nhà thơ, nhà toán học (ở đó thành tựu về
văn học nghệ thuật được đề cập nhiều hơn phù hợp với việc giới thiệu trong Từ điển văn
học)
+ Trong lĩnh vực văn học và toán học, chỉ chọn thành tựu cụ thể nổi bật là 2 tác
phẩm "Đại thành toán pháp" và "Hí phường phả lục", những thông tin này vừa cụ thể vừa có
thể chứng thực được
- Như vậy là nhờ khai thác được những thông tin trong ngữ liệu mở rộng mà học
sinh chủ động trả lời được câu hỏi để chuẩn bị cho bài viết tiểu sử tóm tắt cần sưu tầm
những tài liệu gì? Các tài liệu đó phải đáp ứng được những yêu cầu nào?. Kiến thức mà học
sinh thông qua tìm hiểu ngữ liệu tự rút ra là: Thu thập được đầy đủ các thông tin về nhân
thân, sự nghiệp, thành tựu, ý kiến đánh giá dành cho người được viết tiểu sử tóm tắt từ
nguồn tài liệu chính xác, đáng tin cậy; Chọn đúng đủ nhưng thông tin phù hợp với mục đích
viết.
- Cũng từ sự đối chiếu giữa ngữ liệu mở rộng và ngữ liệu có sẵn mà học sinh cũng
dễ dàng nhận ra bố cục thông thường của một tiểu sử chi tiết và tiểu sử tóm tắt.
+ Viết theo bố cục thường gặp:
-> Phần một: Nhân thân (Niên đại, xuất thân…).
-> Phần hai: Các hoạt động chính (Lịch sử, quá trình công tác).
-> Phần ba: Những đóng góp chủ yếu (Thành tựu nổi bật phù hợp mục đích tóm
tắt).
-> Phần bốn: Đánh giá chung ( Người viết tự đánh giá hoặc lựa chọn trung thực ý
kiến đánh giá của những người có uy tín).
8
+ Diễn đạt cần ngắn gọn, cô đọng, trong sáng. Các thông
tin phải chính xác, khách quan.
- Để giúp học sinh có được những lưu ý cần thiêt khi viết
phần đánh giá về người được viết tiểu sử tóm tắt (nội dung,
mức độ và cách đánh giá), tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh làm
việc với ngữ liệu mở rộng. Tôi đặt câu hỏi: Trong văn bản tiểu
sử chi tiết về Lương Thế Vinh đã có những câu nào có thể xem
là ý kiến đánh giá về Lương Thế Vinh? Tại sao người viết tiểu sử
tóm tắt về Lương Thế Vinh lại chọn ý kiến của nhà bác học Lê
Quý Đôn?
Và như vậy với việc đồng thời cùng tìm hiểu cả ngữ liệu
mẫu và ngữ liệu mở rộng, học sinh sẽ có cơ sở đầy đủ và chắc
chắn để chiếm lĩnh kiến thức bài học
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
- Tóm lại ngữ liệu mở rộng được lựa chọn là một văn bản cung cấp lượng thông tin
rất chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp của Lương Thế Vinh đối với nhân dân,
đất nước. Lương Thế Vinh là nhân vật được giới thiệu trong tiểu sử tóm tắt ở SGK. Ngữ liệu
mở rộng phát huy được những ưu điểm là:
+ Học sinh sẽ so sánh tiểu sử chi tiết (ngữ liệu mở rộng) với tiểu sử tóm tắt (ngữ
liệu mẫu trong SGK) về dung lượng, nội dung thông tin và văn phong để biết thế nào là một
tiểu sử tóm tắt.
+ Trong bản tiểu sử chi tiết ta thấy Lương Thế Vinh là một trạng nguyên có rất
nhiều đóng góp nhưng không phải đóng góp nào của ông cũng được lựa chọn để đưa vào
tiểu sử tóm tắt. Nhờ vậy mà học sinh ghi nhớ sâu sắc yêu cầu khi lựa chọn thông tin để viết
tiểu sử tóm tắt chúng ta cần quan tâm đến mục đích viết tiểu sử tóm tắt và tính tiêu biểu
của thông tin.
+ Từ thông tin chi tiết về Lương Thế Vinh chúng ta thấy được yêu cầu trung thực,
khách quan của việc đưa ra ý kiến đánh gía khái quát về nhân vật được viết tiểu sử tóm tắt
+ Từ văn bản chi tiết và văn bản tiểu sử tóm tắt học sinh có những hiểu biết kĩ càng
về trạng nguyên Lương Thế Vinh một danh nhân đáng kính của dân tộc Việt Nam. Từ đó
cũng mở rông thêm khả năng giáo dục của ngữ liệu mẫu.
- Vì những lợi ích trên cho nên thực tế công đoạn soạn giáo án theo
phương pháp áp dụng thực hành rút ra lí thuyết thông đòi hỏi nhiều công sức và
thời gian. Nhưng tôi vẫn lựa chọn, tôi không muốn thụ động tuân thủ máy móc
quy trình và ngữ liệu có sẵn trong sách giáo khoa để giờ học sẽ trôi qua đơn
điệu và học sinh sẽ không có suy nghĩ bài dạy của cô chỉ là sự mô phỏng lại
sách giáo khoa, cho nên chỉ cần đọc sách giáo khoa.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Từ năm học 2013-2014 tôi thí điểm giải pháp mở rộng ngữ liệu mẫu
trong tiết "Tiểu sử tóm tắt" thực hiện đồng thời đối chứng ở hai lớp 11A5( áp
9
dụng đề tài) và 11A7 (không áp dụng đề tài). Sau tiết học tôi phát phiếu cho học
sinh làm bài kiểm tra đánh giá mức độ nhận thức và đạt được kết quả như sau:
Kết quả
Lớp 11 A5
Lớp 11 A7
(áp dụng đề tài)
(không áp dụng đề tài)
Giỏi (%)
18
9
Khá (%)
50
35
Trungbình (%)
32
56
Yếu (%)
0
0
Trong năm học 2015-2016, tôi tiếp tục ứng dụng đại trà ở cả hai lớp 11
(lớp 11C2 và 11C4). Kết quả kiểm tra đánh giá mức độ nhận thức bài học như
sau:
Kết quả
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình (%)
Yếu (%)
Lớp 11 C2
20
45
35
0
Lớp 11C4
15
47
38
0
Trong năm học 2016-2017, tôi tiếp tục ứng dụng ở cả hai lớp 11 (lớp
11A2 và 11A3). Kết quả kiểm tra đánh giá mức độ nhận thức bài học như sau:
Kết quả
Lớp 11 A2
Lớp 11A3
Giỏi (%)
24
21
Khá (%)
44
46
Trung bình (%)
32
33
Yếu (%)
0
0
Như vậy từ những thành công của bản thân trong việc mở rộng ngữ liệu
mẫu trong SGK ở một số giờ làm văn lớp 11, tôi thiết nghĩ rằng GV cần chủ
động tích cực phát huy vai trò của mình trong việc sử dung ngữ liệu ở các giờ
làm văn để kiến thức đến được với học sinh một cách dễ dàng, hữu ích nhất.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Để sử dụng có hiệu quả ngữ liệu mở rộng nhằm nâng cao chất lượng
trong giờ dạy làm văn, tôi xin có một số đề xuất với giáo viên bộ môn như sau:
3.2.1. Trong việc sưu tầm, lựa chọn, sử dụng ngữ
liệu khi dạy phân môn làm văn:
Một tiết dạy làm văn có rất nhiều ngữ liệu có thể sử dụng
làm minh họa nhưng không phải ngữ liệu nào cũng phù hợp
mục đích yêu cầu bài học, thời lượng tiết học, đối tượng học
sinh, tính giáo dục trong nhà trường. Do đó khi sưu tầm, lựa
chọn, sử dụng ngữ liệu giáo viên phải rất cẩn trọng.
- Trong một tiết học không nên sử dụng quá nhiều ngữ
liệu, nên tập trung vào một hoặc hai ngữ liệu cho tất cả các nội
dung trong bài.
10
- Phù hợp nội dung, đảm bảo mức độ cần đạt của bài học.
- Phát huy tối đa ngữ liệu mẫu trong SGK.
- Trong trường hợp ngữ liệu mẫu chưa phát huy được hiệu
quả như mong muốn, giáo viên nên tìm ngữ liệu bổ sung, thay
thế. khi lựa chọn cần lưu ý:
+ Ngữ liệu mới gần gũi với ngữ liệu mẫu, có thể hỗ trợ
được cho ngữ liệu mẫu.
+ Ngữ liệu mới nên khai thác theo hướng tích hợp tức là
liên quan đến kiến thức bài trước hoặc các môn học liên quan.
Tuy nhiên nên chon những bài mới học, cùng kì để HS dễ theo
dõi.
+ Ngữ liệu mới liên quan đến những văn bản có tính nhật
dụng, những vấn đề xã hội đang được quan tâm.
+ Ngữ liệu mới phù hợp đối tượng học sinh, có tính giáo
dục tích cực.
3.2.2. Đối với việc chuẩn bị của giáo viên:
- Cần trau dồi kiến thức phong phú của nhiều lĩnh vực có liên quan, tìm
tòi, sưu tầm, tích lũy các tư liệu có thể sử dụng làm ngữ liệu minh họa trong các
giờ dạy làm văn.
- Các bước thực hiện
+ Bước 1: Xác định mục tiêu và nội dung cơ bản của bài
học để có cơ sở sưu tầm và lựa chọn ngữ liệu cho phù hợp.
+ Bước 2 : Sưu tầm các ngữ liệu làm văn trên báo chí ,
trong các bài làm văn của học sinh, ....
+ Bước 3: Đưa ra các biện pháp sử dụng ngữ liệu làm văn
một cách hợp lí, hiệu quả và thể hiện trong thiết kế bài dạy,
giáo án. (Giáo viên nên pô-tô ngữ liệu mẫu hoặc soạn trình
chiếu bằng máy chiếu)
3.3.3. Đối với việc giảng bài trên lớp:
- Có ba quy trình thường được áp dụng.
+ Một là dựa vào SGK nêu kiến thức bài học rồi giáo viên
cung cấp ngữ liệu cho học sinh nhận dạng.
+ Hai là cung cấp ngữ liệu trước, giáo viên phân tích ngữ
liệu để học sinh tự rút ra kiến thức bài học, giáo viên bổ sung
hoàn chỉnh.
+ Ba là giáo viên cung cấp ngữ liệu, hướng dẫn học sinh
phân tích ngữ liệu thông qua hệ thống câu hỏi vấn đáp, dẫn dắt
học sinh rút ra kiến thức bài học.
3.3.4. Trong sinh hoạt tổ chuyên môn:
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ nên trao đổi học tập kinh
nghiệm của nhau để có được những gợi ý về phương pháp và có được những
ngữ liệu phù hợp nhất cho mỗi tiết dạy phân môn làm văn.
11
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Triệu Sơn, ngày 15/5/2017
Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết
Nguyễn Thị Quỳnh
12
- Xem thêm -