Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trườn...

Tài liệu Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

.PDF
75
342
124

Mô tả:

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1 Mục lục PHầN 1 ............................................. 3 1.1.2/ Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp ......... 4 Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nghiệp. ..................................... 4 Sơ đồ 14: Chiến lược vốn cần áp dụng tại công ty ................. 60 2 PHầN 1 Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1. Vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1. Khái niệm vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp. 1.1.1/Khái niệm vốn Phạm trù vốn là phạm trù hết sức quan trọng không chỉ được các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lí quan tâm mà ngay cả các nhà kinh tế học , các nhà lí luận cũng đã dày công nhiên cứu, tìm hiểu để có thể đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vốn Trong tác phẩm “Quản trị vốn’,TS. Đàm văn Huệ nói rằng:Vốn bằng tiền nhưng không chỉ bằng tiền; Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung, khi nói đến vốn thì đồng nghĩa với phạm trù tiền vốn(vốn bằng tiền , vốn tài chính), tức là nó đại diện cho loại hàng hoá nhất định. Trong điều kiện một nền kinh tế hiện vật là chủ yếu, phạm trù hàng hoá bị thu hẹp với cơ chế cấp phát giao nộp sản phẩm, nên có quan niệm như trên là khó tránh khỏi. Ngay bản thân quan niệm vốn được biểu hiện bằng tiền thì tiền ở đây phải vận động với mục đích sinh lời chứ không phải dạng tích trữ.Có thể hiểu đơn giản để phân biệt vốn và tiền tệ như sau: Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được sử dụng cho sản xuất kinh doanh, ngược lại nó hkông được coi là vốn khi đem vào tích trữ hay mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân hay xã hội. Trong tác phẩm của mình,Các Mác đã phân biệt rõ phạm trù tiền tệ và phạm trù tư bản. Ông cho rằng nếu tiền không tham gia vào quá trình sản xuất của xă hội thì tiền đó chỉ ở dạng tư bản tiềm năng mà thôi Trong nền kinh tế thị trường, những quan niệm về vốn như trên là lạc hậu bởi: Vốn là một phạm trù rộng lớn hơn bao gồm tiền tệ, vật tư, tài sản, đất đai, 3 nguồn nhân lực, với nhiều loại: vốn hữu hình( tiền mặt,máy móc, thiết bị...)hay vốn vô hình( bản quyền kinh doanh, tay nghề nhân công, phát minh sáng chế...)( Trong bài viết: “Vốn và việc huy động vốn trong nước” của TĐ Cao Sĩ Kiêm- Báo Kinh tế phát triển; Số 2-1999). Đặc trưng của vốn là dùng để đưa vào đầu tư với mục đích tạo ra lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu Từ những phân tích như trên,ta có khái niệm đúng về vốn như sau: Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, tham gia liên tục vào quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư ( Tác phẩm “ Quản trị vốn” của T.S Đàm văn Huê.) Xác định một khái niệm đúng về vốn có một ý nghĩa quan trọng. Một phạm trù vốn bị thu hẹp sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nguồn lực bị sử dụng lãng phí. Có một quan niệm đúng về vốn sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện được những tiềm năng về vốn, từ đó có biện pháp khai thác và sử dụng chúng đem lại hiệu quả 1.1.2/ Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nghiệp. -Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp. Để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần mua sắm máy móc, trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thuê công sở, mướn nhân công. Vì vậy trong giai đoạn này, doanh nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động vốn. – Vốn là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án mang lại lợi nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh doanh, các cơ hội kinh doanh mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và sẽ chỉ là dự định, kế 4 hoạch. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược duy trì và phát triển trên thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. – Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp có khả năng đầu tư , đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng cáo..., nhằm tăng cường cạnh tranh trước các đối thủ. Bởi vì vốn có vai trò quan trọng to lớn như vậy nên bảo tồn và tăng trưởng vốn là một nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp.Chính vì vậy mà một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp luôn trăn trở là:Doanh nghiệp nên tạo vốn bằng cách nào?,Làm thế nàodoanh nghiệp có thể huy động vốn tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và một cơ cấu tối ưu?. 1.2. Phân loai vốn Để có thể trả lời những câu hỏi nêu trên bước đầu tiên mà người quản lí doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn. Đây là công việc được các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm vì nó ảnh hưởng rất nhiều tới chi phí vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nươc đang phát triển, các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên việc phân loại vốn chưa được mọi người quan tâm. 1.2.1/ Phân loại căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh, người ta phân thành hai loại:Vốn sản xuất và vốn đầu tư. Sự khác nhau của hai loại vốn này dựa vào mục đích và thời gian sử dùng vốn. - Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện tại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.Đó là số tiền, tài sản hữu hình, vô hình...dùng trong việc hình thành công việc sản xuất, duy trì và phát triển. Hiệu quả của nó được đánh giá thông qua sự phát triển của doanh nghiệp và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường 5 - Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh doanh trong tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế hoạch , các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các đối thủ cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng.Viêc huy động đủ số lượng , kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề mà mọi doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc sức để hoàn thiện công việc đó 1.2.2/ Căn cứ vào nguồn hình thành vốn Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh nghiệp được chia thành nợ vay và vốn cuả chủ sở hữu. Đây là cách phân loại cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc biệt với nhau khi chúng ta xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp. - Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp tài trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối.Đối với các loại vốn này doanh nghiệpkhông phải hoàn trả những khoản tiền đã huy động được trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Tuy nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách giảm vốn ngân sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú...Chi phí vốn chủ sở hữu là chi phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động vốn cổ phần, chi phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do tính dài hạn và gần như không hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an toàn rất cao - Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này không phải là chủ sở hữu doanh nghiệp.Đặc trưng của loại vốn này là doanh nghiệp phải tiến hành hoàn trả vốn vay trong một thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi phải trả cho các khoản nợ vay.Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay thường ổn định và được thoả thuận trước khi vay.Huy động nợ vay rủi ro hơn huy động vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích sử dụng nợ vay do một đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ vay được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp .Trong khi, lợi tức dành cho chủ 6 sở hữu được trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ như nợ vay.Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc hình thành cơ cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường.Nó giúp cho người sử dụng có thể thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp khi xem xét về măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử dụng có thể thấy đươc trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí kinh doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng...Còn nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu động, phân chia theo khoản mục.Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ những mục đích nhất định. 2. Các phương thức tạo lập vốn của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các phương thức tạo lập vốn cho doanh nghiệp được đa dạng hóa. Vì thế, cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp từ các nguồn khác nhau là rất lớn. Về cơ bản doanh nghiệp có thể huy động vốn theo các phương thức sau đây: 2.1. Huy động vốn chủ sở hữu. Có thể thấy rằng vốn chủ sở hữu là nguồn vốn quan trọng hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Nó có yếu tố để đánh giá sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp. Và nó cũng là căn cứ quan trọng để quyết định khả năng huy động các nguồn vốn khác của doanh nghiệp. 2.1.1/ Ngân sách Nhà nước cấp. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn chủ sở hữu sẽ do Ngân sách Nhà nước cấp. Đây là số vốn do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng trên cơ sở bảo toàn và phát triển vốn. Mức vốn Nhà nước cấp phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ Nhà nước giao cho các doanh nghiệp. Nhà nước có thể cấp vốn ban đầu khi doanh nghiệp mới thành lập hoặc cấp vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. Tùy thuộc vảo khả năng ngân sách nhà nước và mức độ kiểm tra vốn của doanh nghiệp mà cơ chế cấp vốn cho doanh nghiệp ở mỗi nước là khác nhau. Ví dụ như ở Pháp, các doanh nghiệp loại 1, hoạt động theo yêu cầu của Nhà nước, thì Nhà nước cấp vốn 100%. Các doanh nghiệp do Nhà nước quản lý, nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh 7 với các doanh nghiệp khác (loại 2) thì Nhà nước không cấp vốn. Nhưng trên thực tế thì vốn Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp loại 1 cũng không đủ. Vì vậy, từ năm 1986, trở về trước Nhà nước nắm toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước thuộc loại này. Từ 1986 trở lại đây, Nhà nước cho tư nhân tham gia, do đó, hiện nay ở Pháp, vốn Nhà nước và tư nhân kết hợp với nhau rất đa dạng. ở Malaisia, các công ty thuộc sở hữu Nhà nước được cấp 100% vốn cố định ban đầu. Hàng năm, công ty phải trả lãi (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của Nhà nước. Trong các doanh nghiệp này, Nhà nước quản lý trực tiếp, toàn diện, doanh nghiệp phải sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Nhưng nếu Nhà nước chỉ muốn nắm một phần hoạt động của doanh nghiệp thì Nhà nước thường thông qua việc nắm cổ phần khống chế của doanh nghiệp. 2.1.2/ Phát hành cổ phiếu. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Đây là cách thức tạo lập vốn rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Bằng cách phát hành một số lượng các cổ phiếu lớn với mệnh giá thấp ra công chúng, doanh nghiệp đã tích tụ những luồng vốn nhỏ, rải rác thành một lượng vốn khổng lồ đầu tư vào doanh nghiệp. Những người mua các cổ phiếu này trở thành các cổ đông, chủ sở hữu của doanh nghiệp, tức là công ty cổ phần. Có thể xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến việc phát hành và kiểm soát các loại cổ phiếu khác nhau. 2.1.2.1. Phát hành cổ phiếu thường. Cổ phiếu thường là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một cách thực sự của cổ đông đối với công ty cổ phần. Đây là loại cổ phiếu mà thu nhập của nó lên xuống phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được hưởng những quyền lợi nhất định: - Quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các hoạt động của Công ty - Quyền yêu cầu về thu nhập, được chi trả lợi tức cổ phần từ lợi nhuận sau thuế. Cổ phiếu thường không bị giới hạn trong chi trả cổ tức. Lợi tức cổ phiếu thường chi trả cho cổ đông tương đương với mức rủi ro mà cổ đông chấp nhận. - Quyền yêu cầu về tài sản (quyền yêu cầu được chi trả sau cùng khi công ty phá sản). - Quyền mua trước (quyền được mua cổ phiếu khi công ty phát hành chứng khoán mới). Trong khi đó mỗi cổ đông chỉ phải chịu một mức trách nhiệm 8 hữu hạn chính là phần vốn mà họ đã đầu tư vào công ty. Về phía Công ty phát hành: Với phương thức huy động này, công ty tạo được luồng vốn chủ sở hữu khổng lồ làm tấm lá chắn chống đỡ mọi rủi ro trong quá trình hoạt động. Vì thế, chi phí huy động vốn cao hơn so với chi phí huy động bằng các chứng khoán khác. Chi phí này chính là lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư. Huy động vốn bằng cổ phiếu thường có những ưu điểm nhất định. Trước hết, nó tạo ra một lượng vốn lớn an toàn. Công ty còn có thể linh hoạt thay đổi lượng vốn chủ sở hữu này sao cho thích hợp. Mới thành lập, công ty có thể chỉ phát hành một lượng cổ phiếu nhất định. Khi muốn giảm vốn cổ phần, công ty có thể mua lại các cổ phiếu đang lưu hành, giữ nó cho đến khi bán lại hoặc hủy bỏ. Muốn tăng vốn cổ phần, công ty có thể tiến hành phát hành cổ phiếu mới. Ngoài ra, xem xét sự biến động của thị giá cổ phiếu trên thị trường có thể thấy được phần nào hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của công ty. Từ đó làm cơ sở cho công ty ra quyết định tài chính nhằm khuyếch đại giá trị vốn chủ sở hữu. Khi huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu mới phải lưu ý tới nhiều vấn đề. Do cổ phiếu tăng nên trong tương lai lợi tức cổ phần có thể sẽ giảm ảnh hưởng tới thị giá của công ty trên thị trường. Mặc dù các cổ đông cũ có quyền mua trước nhằm tránh hiệu ứng pha loãng quyền kiểm soát song công ty cần đề phòng nguy cơ bị thôn tính. Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ công ty trước sự thôn tính bằng cổ phiếu của các công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Do đó phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu mà mỗi cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu công ty. 2.1.2.2. Phát hành cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu ưu đãi thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Nó có đặc điểm là thường có tỷ lệ cổ tức cố định, không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Hội đồng quản trị của công ty có thể thay đổi cách thức và tỷ lệ trả cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi theo từng năm để phù hợp với tình hình cụ thể. Rất hiếm khi cổ đông ưu đãi có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ. Trong một số công ty của Mỹ, đôi khi có quy định những trường hợp ngoại lệ về quyền bỏ phiếu của cổ đông ưu đãi. Tuy nhiên, nếu có ít nhất 2/3 cổ đông ưu tiên nhất trí về một vấn đề nào đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của họ. Nếu các cổ đông ưu đãi không được trả cổ tức tới một giới hạn nào đó, chẳng hạn sáu quý cổ tức của cổ 9 phiếu ưu tiên bị nợ, thì các cổ đông của những cổ phiếu đó có thể được quyền bỏ phiếu. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức dành cho cổ đông ưu đãi được lấy từ lợi nhuận sau thuế, tức là không được tính vào chi phí để giảm thuế. Đây chính là hạn chế của việc phát hành cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù vậy, như đã đề cập cổ phiếu ưu đãi vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty phát hành và nhà đầu tư. Những điều kiện ưu đãi làm giảm rủi ro cho loại cổ phiếu này và như vậy có thể tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư và giảm chi phí huy động cho nhà phát hành. Tóm lại, mặc dù chi phí cao song huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu cho phép tạo được một luồng vốn lớn, an toàn. Tuy nhiên việc huy động này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị về thời gian và điều quan trọng là doanh nghiệp phải có được uy tín trên thị trường vì doanh nghiệp có làm ăn tốt, tình hình tài chính vững vàng mới có khả năng thắng lợi trong huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu. 2.1.3/ Tài trợ nội bộ. Tài trợ nội bộ là phương thức huy động vốn quan trọng đối với doanh nghiệp. Có hai hình thức để thực hiện tài trợ nội bộ: Tái đầu tư thông qua chính sách phân phối cổ tức và phát hành cổ phiếu nội bộ. Điểm chung của cả hai hình thức này đó là cổ đông chấp nhận hưởng một mức lợi tức cổ phần thấp hơn hoặc không nhận lợi tức cổ phần mà đầu tư toàn bộ lợi nhuận sau thuế để mở rộng quy mô của công ty. Như vậy, cổ đông không bị chia sẻ quyền kiểm soát công ty và họ có thể hưởng toàn bộ giá trị thặng dư thu được từ đầu tư bao gồm cổ tức tăng thêm và chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường. Theo hình thức thứ nhất, việc tái đầu tư được thực hiện bằng cách ghi tăng giá trị sổ sách của cổ phiếu. Giá trị danh nghĩa của cổ phiếu tăng sẽ làm tăng thị giá cổ phiếu. Theo hình thức thứ hai, công ty sẽ phát hành thêm cổ phiếu thông thường cho các cổ đông của công ty. Cổ đông sẽ nhận cổ phiếu thay vì nhận thu nhập của họ dưới dạng cổ tức. Việc phát hành cổ phiếu thêm sẽ ảnh hưởng tới thị giá cổ phiếu. Vì vậy, để đảm bảo cho quyền lợi của cổ đông, cổ đông sẽ được hưởng chính sách ưu đãi về giá. Huy động vốn theo phương thức này có nhiều lợi điểm: - Tránh việc pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông, - Không dẫn đến việc giảm lợi tức trên mỗi cổ phần trong tương lai như việc phát hành cổ phiếu mới, 10 - Tránh được nguy cơ bị thôn tính sáp nhập. Tuy nhiên chi phí cho huy động vốn cao. Các cổ đông kỳ vọng vào một mức lợi tức cao hơn mới chấp nhận chính sách tái đầu tư này. Vì vậy huy động vốn phải chú ý đến hiệu quả của việc tái đầu tư. Một hạn chế nữa của phương thức huy động vốn này đó là đôi khi lợi nhuận để lại không đủ đáp ứng nhu cầu về vốn cho mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, đôi khi các công ty không thực hiện biện pháp này hoặc chỉ coi đó như là giải pháp bổ sung cho những hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên có thực hiện được cách thức tạo lập vốn này hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nói chung, ở những nước đang phát triển, yếu tố lợi tức là quan trọng, vì thế các cổ đông thích nhận thu nhập dưới dạng cổ tức. Trong khi đó, đối với các nước phát triển, các cổ đông quan tâm nhiều hơn tới yếu tố tăng giá cổ phiếu và do đó, trong chính sách phân phối cổ tức, công ty sẽ chú trọng nhiều hơn tới vấn đề tái đầu tư từ lợi nhuận để lại. Nhiều công ty đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Chẳng hạn ở Pháp, tài trợ nội bộ của các công ty chiếm 54% tổng nguồn vốn, ở Đức là 65,5%, Anh là 68,3%, ở Nhật, con số này lên tới 71,3%. Còn các công ty Mỹ thì rất coi trọng huy động vốn theo phương thức này. Lợi nhuận để lại bổ sung vào vốn chiếm tới 82,8% tổng nguồn vốn. 2.2. Phát hành trái phiếu. Phát hành trái phiếu công ty là một hình thức tạo lập vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng hình thức này khi huy động vốn chủ sở hữu không đủ đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, hoặc không thích hợp, hiệu quả bằng hình thức này và nhiều lý do khác. Cũng như hình thức phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp muốn thắng trong việc phát hành trái phiếu thì doanh nghiệp cần phải có uy tín, tình hình tài chính lành mạnh và xu thế phát triển tốt... Tuy nhiên ở đây, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với số vốn có được từ phát hành trái phiếu như một khoản nợ và có trách nhiệm trả nợ cho khoản vốn đó bởi trái phiếu là một chứng chỉ vay nợ chứng nhận trái chủ đã cho doanh nghiệp vay một số vốn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định với lãi suất xác định. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. 11 Trước khi quyết định phát hành, nhà phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. 2.2.1/Trái phiếu có lãi suất cố định. Đây là loại trái phiếu công ty phổ biến nhất được các doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn trung dài hạn. Đặc điểm của loại trái phiếu này là lãi suất danh nghĩa được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp lẫn người giữ trái phiếu đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn) của trái phiếu. Cách thức trả gốc và trả lãi cũng thường được quy định rõ khi phát hành trái phiếu, chẳng hạn trả gốc cuối kỳ trả lãi hai lần trong năm,... Với loại trái phiếu này, doanh nghiệp có thể chủ động trong việc tính toán chi phí lãi vay để xác định hiệu quả của việc đi vay, trong thiết lập ngân quỹ để trả lãi cũng như kế hoạch trả gốc và thay thế bằng các nguồn tài chính khác khi trái phiếu đáo hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần lưu tâm tới mức độ hấp dẫn của trái phiếu khi phát hành. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào một số yếu tố sau: - Lãi suất của trái phiếu: Lãi suất của trái phiếu phải đặt trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, với lãi suất kho bạc Nhà nước, với lãi suất cùng loại của các doanh nghiệp cạnh tranh khác. - Kỳ hạn của trái phiếu: Công ty phải tính đến sự ưa thích và lựa chọn của công chúng khi định ra kỳ hạn của trái phiếu. - Uy tín tài chính của công ty và mức độ rủi ro: Công ty càng vững chắc về mặt tài chính và có khả năng phát triển thì mức độ rủi ro nói chung càng thấp và càng thu hút được công chúng mua trái phiếu của công ty. Ngoài ra, khi phát hành cần chú ý tới mệnh giá để có thể tạo ra sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường. 2.2.2/ Trái phiếu có lãi suất thả nổi. Đây là loại trái phiếu có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng như lãi suất LIBOR hoặc lãi suất cơ bản. Phát hành loại trái phiếu này thích hợp trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định. Tuy nhiên, có một vài nhược điểm khi công ty tiến hành huy động vốn bằng hình thức này: - Công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu. Điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. - Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. 2.2.3/ Trái phiếu có thể thu hồi. 12 Một số doanh nghiệp lựa chọn phát hành trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó (chuộc lại trái phiếu). Loại trái phiếu như vậy phải được quy định công khai ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Phải quy định rõ về thời gian và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi. Loại trái phiếu này có ưu điểm là được dùng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi cần thiết, công ty có thể mua lại các trái phiếu tức là giảm số vốn vay và thay trái phiếu loại này bằng nguồn tài chính khác. 2.3. Đi vay từ các tổ chức tài chính trung gian. Trong nền kinh tế thị trường, huy động vốn thông qua hệ thống các tổ chức tài chính trung gian là một hình thức huy động vốn khá phổ biến và rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. ở những nước phát triển, mặc dù thị trường chứng khoán là một kênh tạo vốn rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nhưng vẫn có gần 70% lượng vốn của nền kinh tế được luân chuyển thông qua kênh dẫn vốn gián tiếp này. Đối với những nước có thị trường chứng khoán chưa phát triển, nguồn vốn từ các tổ chức tài chính trung gian đặc biệt các ngân hàng thương mại càng trở nên quan trọng hơn. Hình thức tạo lập vốn này cho phép doanh nghiệp có cơ hội, khả năng tiếp cận với một lượng vốn đủ lớn để doanh nghiệp có thể sử dụng vào mục đích chiến lược, dài hạn. Nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại còn tạo cho doanh nghiệp một luồng vốn ngắn hạn thích hợp đáp ứng nhu cầu vốn lưu động tránh sử dụng các nguồn dài hạn một cách lãng phí. Nói chung đây là nguồn vốn vay tương đối linh hoạt. Các điều khoản như khối lượng vay, phương thức giải ngân, lãi suất, lịch trình hoàn trả... đều được thỏa thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp và được phản ánh trên hợp đồng tín dụng. Doanh nghiệp có thể vay dài hạn hoặc vay ngắn hạn từ các tổ chức tài chính trung gian tùy theo nhu cầu về vốn vay: 2.3.1/ Vay dài hạn: Là hình thức doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính với thời gian đáo hạn trên 1 năm. Khi cho vay các tổ chức tài chính trung gian thường xem xét rất kỹ lưỡng về tình hình tài chính doanh nghiệp, về tính khả thi của dự án xin vay... để đánh giá khả năng trả lãi và gốc nợ vay. Doanh nghiệp có thể vay theo nhiều hình thức: vay thế chấp, vay tín chấp hay vay có bảo lãnh. Song thông thường, đặc biệt là với những khoản vay có khối lượng lớn và dài hạn, vay có thế chấp hay có tài sản bảo đảm là phổ biến, các hình thức khác chỉ là bổ sung. Ngân hàng dựa trên giá trị của tài sản bảo đảm, đặc tính cũng 13 như tính dễ hoán chuyển của nó trên thị trường để xác định khối lượng cho vay. Ngoài ra còn căn cứ vào nhu cầu xin vay và các điều kiện khác. Tài sản bảo đảm là một vấn đề khó khăn của doanh nghiệp khi vay dài hạn ở các ngân hàng. Một số doanh nghiệp không có đủ tài sản thế chấp để đảm bảo xin vay một lượng vốn lớn. Một số doanh nghiệp khác nếu đem thế chấp dây chuyền công nghệ sẽ không thể tiến hành đổi mới công nghệ bắt kịp nhu cầu thị trường. Một điểm cần nhấn mạnh nữa đối với các khoản nợ vay dài hạn từ ngân hàng là thông thường các khoản nợ vay sẽ được trả dần dần theo định kỳ trong suốt thời hạn cho vay thay vì đợi đến ngày đáo hạn thì trả hết một lần. Như vậy có nghĩa là thời hạn thực tế của khoản vay bị thu ngắn và chi phí nợ vay lúc này hay lãi suất thực của vốn vay là cao hơn lãi suất danh nghĩa đã được thỏa thuận. Về phí tổn vay vốn dài hạn từ ngân hàng thì có thể thay đổi theo giá trị tiền vay, tình hình tài chính và cả phẩm chất của người đi vay cùng nhiều yếu tố khác. Lãi suất có thể cố định hoặc linh hoạt thay đổi trong suốt thời hạn vay tuỳ theo thỏa thuận của hai bên. Những điểm lợi chính của vay dài hạn từ các tổ chức tài chính trung gian đó là khi đồng ý cho vay, người cho vay bảo đảm trước một thời hạn khá lâu là sẽ có vốn cho người vay lúc cần sử dụng đến, khác với các hình thức huy động vốn trung dài hạn khác như phát hành cổ phiếu, trái phiếu cần phải thắng lợi trong phát hành thì mới có vốn. Ngân hàng có thể là nguời rất sành sỏi trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp hoặc dự án xin vay và sẽ trở thành người tư vấn đắc lực đưa doanh nghiệp đến chỗ thành công. Đây là mối lợi vô hình mà nhiều khi là rất đáng kể. 2.3.2/ Vay ngắn hạn: Trong các tổ chức tài chính trung gian thì dường như chỉ có ngân hàng là đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp. Đây là phương thức tạo lập vốn ngắn hạn chủ yếu. Một doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn từ các ngân hàng bằng nhiều hình thức. Có thể kể ra sau đây một số hình thức cơ bản: - Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu là chứng từ biểu thị một quan hệ tín dụng, một nghĩa vụ trả tiền, được lập ra trên cơ sở các giao dịch thương mại. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng trước thời hạn một khoản tiền của thương phiếu sau khi đã trừ đi khoản lãi phải thu tức tiền chiết khấu và các khoản chi phí chiết khấu. Đây là hình thức tạo vốn ngắn hạn nhằm bổ sung nhu cầu vốn một cách tức thời khi doanh nghiệp cần đến. Khoản chênh lệch giữa số tiền của thương phiếu và số tiền nhận được từ việc chiết khấu thương phiếu chính là chi phí cho hình thức huy động này. Chi phí này chủ yếu dựa trên lãi suất chiết khấu của ngân hàng Trung ương song 14 phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng thương phiếu.Chất lượng thương phiếu tốt thì chi phí thấp và ngược lại ngân hàng cảm thấy khả năng thu hồi vốn từ thương phiếu kém thì chi phí cao bù đắp cho rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu. Tuy nhiên, nếu chất lượng thương phiếu quá tồi ngân hàng sẽ không tiến hành nghiệp vụ cho doanh nghiệp. - Vay theo hợp đồng: Hình thức cho vay này được áp dụng khi một công ty có những hợp đồng về sản xuất, gia công cho khách hàng thì ngân hàng có thể cho vay căn cứ vào các hợp đồng đã được ký kết. Hình thức cho vay theo hợp đồng tỏ ra tương đối phù hợp với những doanh nghiệp nhỏ. - Tạo vốn bằng cách bán nợ: Một công ty nào đó có thể gia tăng nguồn vốn ngắn hạn bằng các khoản nợ của mình. Các tổ chức mua nợ thường là một ngân hàng, một công ty tài chính hay một công ty mua nợ. Những khoản nợ được mua cao hay thấp tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ khó đòi. Sự chênh lệch giữa giá trị khoản nợ và giá mua bán nợ chính là chi phí cho việc tạo vốn bằng cách bán nợ. Đối với những khoản nợ khó đòi thì chi phí này rất cao tuy nhiên nó làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn bằng cách thế chấp các khoản phải thu, thế chấp bằng hàng hóa... - Vay theo hạn mức tín dụng: Khi phát sinh nhu cầu bổ sung vốn một lượng nhất định và thời hạn xác định, doanh nghiệp sẽ làm đơn xin vay và vay một trong các hình thức nói trên. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ sung thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thực hiện vay theo hạn mức tín dụng và phải đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra. Theo hình thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thỏa thuận một hạn mức tín dụng cho một thời gian nhất định (ví dụ một năm). Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thỏa thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay bất cứ lúc nào mà ngân hàng không cần thẩm định lại, nhưng tổng các món nợ sẽ không vượt quá hạn mức đã xác định. Hạn mức tín dụng được ngân hàng tạo sẵn cho công ty là do mối quan hệ kinh tế giữa họ. Nhưng thông thường, hạn mức này mỗi năm được thỏa thuận lại một lần tùy thuộc vào tình hình cụ thể. Đây là hình thức tạo lập vốn có chi phí rất thấp nhưng đôi khi cũng có một số trục trặc ví dụ khi ngân hàng gặp khó khăn về tài chính hay thanh toán thì công ty phải hoàn trả hoặc không được vay. 15 2.4. Tín dụng thuê mua. Tín dụng thuê mua là một lĩnh vực tín dụng tài trợ bằng tài sản cho thuê, theo đó, người chủ sở hữu tài sản (người cho thuê) chuyển quyền sử dụng cho người thuê để nhận tiền thuê trong một thời gian thỏa thuận gọi là thời hạn cho thuê. Loại hình cho thuê này ra đời đã từ lâu nhằm thỏa mãn nhu cầu đổi mới công nghệ song nó hoạt động mạnh mẽ vào thập kỷ 50 ở Mỹ lan rộng sang Châu Âu, Nhật Bản và các nước khác và tới nay đã được quốc tế hóa. Tính ưu việt của nó đã tạo cho các doanh nghiệp một kênh dẫn vốn quan trọng. Tín dụng thuê mua bao gồm nhiều hình thức và có thể trở thành một phương thức tạo vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho doanh nghiệp. 2.4.1/ Thuê vận hành: Thuê vận hành đã có lịch sử rất lâu đời nên còn được gọi là thuê mua theo kiểu truyền thống. Đặc trưng của thuê vận hành là thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản. Do đó đây thường là hình thức tạo vốn ngắn và trung hạn cho doanh nghiệp và hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính chất thời vụ. Khi hết thời hạn đi thuê, bên thuê sẽ trả lại tài sản cho người cho thuê. Do thời hạn thuê thường là ngắn nên tổng số tiền người thuê phải trả nhỏ hơn nhiều so với giá gốc của tài sản. Người cho thuê phải tái thuê hoặc bán lại tài sản để thu hồi vốn. Một lợi thế đối với doanh nghiệp khi đi thuê vận hành là doanh nghiệp có thể huỷ ngang hợp đồng, trả lại tài sản thiết bị trước khi hết hợp đồng mà chỉ cần báo trước trong một thời gian ngắn. Đặc điểm này khiến doanh nghiệp có thể hoàn trả thiết bị nếu sự phát triển kỹ thuật cao làm cho thiết bị trở nên lạc hậu. Khi đi thuê vận hành, doanh nghiệp chỉ phải trả tiền thuê theo thỏa thuận, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản. Vì vậy, tiền thuê thường là cao hơn so với các thỏa thuận thuê mua khác. 2.4.2/ Thuê tài chính. Cho thuê tài chính là một hoạt động tạo vốn phổ biến cho mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại. Doanh số của nền công nghiệp cho thuê tài chính trên thế giới trong những năm gần đây đã đạt tới con số kỷ lục 520 tỷ USD trong năm 2000 và vẫn đang tiếp tục tăng trưởng với tốc độ trung bình 7% hàng năm. Thuê mua tài chính thực chất là một phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn, thay vì cấp tín dụng bằng tiền cho người nhận, người cho thuê cấp tín dụng thông qua tài sản thiết bị. Tuy nhiên, hình thức tín dụng này có những ưu điểm hơn hẳn 16 với người cho thuê. Đây là hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao do người cho thuê luôn giữ được quyền sở hữu trong suốt thời gian cho thuê. Vì vậy, người cho thuê có thể nhanh chóng thu hồi lại tài sản nếu người thuê không tuân thủ hợp đồng. Hơn nữa, việc thu hồi lại tài sản thường thuận lợi và ít tốn kém hơn so với việc thu hồi tài sản mà doanh nghiệp thế chấp cho ngân hàng khi vay vốn. Hình thức này còn đảm bảo việc sử dụng đúng mục đích của người đi thuê. Người cho thuê cung cấp tài sản theo đúng yêu cầu của người đi thuê. Người đi thuê trả tiền thuê bằng hiệu quả thu được từ việc sử dụng tài sản đó, vì vậy họ không có cơ hội sử dụng sai mục đích. Do hình thức tài trợ này đem lại những lợi ích như vậy cho người cho thuê nên đây cũng trở thành một hình thức tạo lập vốn thuận lợi mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp là người đi thuê. Doanh nghiệp có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn. Thuê tài chính có thể giúp doanh nghiệp từ tay không mà vẫn có thể được máy móc thiết bị phục vụ nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Thuê tài chính giúp doanh nghiệp vẫn có thể nhận được vốn mà không cần tài sản bảo đảm. Các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới thành lập, chưa có uy tín, những doanh nghiệp có tình hình tài chính không tốt dễ bị ngân hàng từ chối khi đi vay vốn. Với hình thức thuê tài chính, các công ty cho thuê, các ngân hàng chủ yếu quan tâm tới lợi ích thu được từ việc sử dụng tài sản cho thuê của doanh nghiệp nên rất sẵn sàng thỏa mãn nhu cầu của các khách hàng ngay cả khi tài chính, uy tín của họ còn có hạn chế. Thuê tài chính còn giúp cho doanh nghiệp có thể nhận được tài sản thuê chất lượng cao, nhất là trong những lĩnh vực đặc thù vì người cho thuê hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực hẹp. Cho thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp không bị đọng vốn đầu tư vào tài sản cố định. Nó còn là phương thức tài trợ thuận lợi cho những khoản đầu tư nhanh chóng đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. Để quyết định thực hiện tạo vốn thông qua hình thức thuê tài chính hay vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp cần so sánh phí tổn của thuê mua với phí tổn vay vốn. Ngoài ra doanh nghiệp phải xem xét hiệu quả, lợi nhuận đem lại cho chủ sở hữu từ dự án thuê mua. Thuê mua tài chính có điểm lợi là tiền thuê được tính vào chi phí hợp lý hợp lệ, do đó doanh nghiệp được hưởng một khoản tiết kiệm nhờ thuế. Song cũng có những bất lợi nhất định khi thực hiện theo phương thức này. Nếu tài sản được chuyển lại cho bên cho thuê vào thời điểm kết thúc hợp đồng thì doanh nghiệp không được hưởng giá trị còn lại của tài sản đã được tính cả trong phí thuê. Nói 17 chung doanh nghiệp sẽ phải phân tích tất cả những yếu tố trên để có thể quyết định huy động vốn theo hình thức này. Song, cần nhấn mạnh thuê tài chính là một phương thức mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. 2.5. Liên doanh liên kết. Ngày nay, hình thức liên doanh liên kết khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Đây là hình thức doanh nghiệp thường sử dụng để tạo vốn trung, dài hạn khi doanh nghiệp chuẩn bị thực hiện một dự án sản xuất kinh doanh mà không đủ vốn hoặc với mục đích chia sẻ rủi ro, doanh nghiệp có thể kêu gọi góp vốn từ bên ngoài. Các bên góp vốn có thể là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài với nhiều hình thức công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước hay một công ty liên doanh khác. Để thu hút vốn liên doanh thì dự án liên doanh phải có hiệu quả và điều kiện góp vốn là các bên cùng có lợi. Khi nhận thấy huy động vốn này có lợi hơn các hình thức huy động vốn khác doanh nghiệp sẽ thực hiện liên kết liên doanh. Có thể lựa chọn một trong hai hình thức liên doanh sau đây: - Cùng phía đối tác thành lập một pháp nhân kinh doanh mà vốn là do các bên cùng đóng góp. - Ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các bên nhằm thực hiện một dự án nào đó mà không cần hình thành một pháp nhân nào. Trách nhiệm, quyền hạn của các bên chỉ giới hạn trong hợp đồng đã ký kết. Đối với cả hai hình thức liên doanh, quyền lợi mỗi bên phụ thuộc chủ yếu vào phần vốn góp mà mỗi bên đóng góp. Phí tổn của tạo lập vốn của hình thức liên doanh liên kết chính là lợi tức trả cho phía đối tác. Do đó, phí tổn này phụ thuộc chủ yếu vào kết quả của dự án liên doanh liên kết. Huy động vốn bằng hình thức liên kết kinh doanh cũng tương tự như hình thức các cổ đông mua cổ phiếu. Cổ đông nào có tỷ lệ cổ phần nhiều hơn thì tỷ lệ hưởng lãi cũng như chịu lỗ cũng lớn hơn. Tuy nhiên, một khi đã trở thành cổ đông thì người góp vốn không có quyền rút vốn khỏi công ty. Còn đối với hình thức liên doanh liên kết, phía đối tác trong những trường hợp nhất định vẫn có thể rút lại vốn góp. Nếu điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của dự án liên doanh, thậm chí có thể làm dự án đổ vỡ không thực hiện được và gây ảnh hưởng tới những hoạt động khác của doanh nghiệp. Thực hiện liên doanh có thể đem lại những lợi ích như thu hút vốn công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm của phía đối tác đồng thời chia sẻ rủi ro. Song huy động vốn bằng hình thức này cũng tiềm ẩn nguy 18 cơ bị đối tác thâu tóm quyền lực và xảy ra hiện tượng lũng đoạn. Chính vì thế khi ký kết hợp đồng liên kết kinh doanh, các doanh nghiệp cần chú ý đến các điều khoản nhằm hạn chế sự đổ vỡ không cần thiết của dự án cũng như sự lũng đoạn của một bên nào đó. 2.6. Tạo vốn thông qua tín dụng thương mại. Các doanh nghiệp cũng thường khai thác vốn tín dụng ngắn hạn trong việc mua bán chịu giữa các doanh nghiệp còn gọi là tín dụng thương mại. Thông thường, một doanh nghiệp mua chịu nguyên vật liệu của doanh nghiệp khác và ghi nhận món nợ ở tài khoản: Các khoản phải trả. Đây là một loại tín dụng ngắn hạn quan trọng vì nó thường chiếm tới 40% tài sản lưu động đối với các doanh nghiệp không có các hoạt động về nghiệp vụ tài chính tín dụng. Tỷ lệ này càng lớn hơn đối với một doanh nghiệp có quy mô nhỏ vì doanh nghiệp nhỏ thường khó tìm nguồn tài trợ ở nơi khác nên dựa nhiều vào việc mua chịu. Hình thức này là hình thức tạo vốn được khai thác một cách tự nhiên trong hoạt động kinh doanh. Chi phí của việc sử dụng tín dụng thương mại như một nguồn tài trợ thể hiện qua lãi suất của khoản vay. Đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm dịch vụ khi mua bán hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể "ẩn" dưới hình thức thay đổi mức giá (nâng đơn giá cao hơn để bao hàm luôn lãi suất tín dụng đó). Như vậy, mua chịu có phí tổn cao hay thấp hơn các hình thức tài trợ khác? Đôi khi, mua chịu rất đắt đối với người mua, nhưng họ phải chấp nhận vì không thể có hình thức tài trợ nào khác và phí tổn mua chịu có lẽ cũng tương ứng với mức độ rủi ro mỗi người bán phải gánh chịu. Nhưng trong nhiều trường hợp, mua chịu được chấp nhận vì người mua không thể hiện được phí tổn mua chịu là bao nhiêu. Quy mô của vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vào thời hạn mua chịu. Nếu thời hạn mua chịu càng lớn thì nguồn vốn tín dụng thương mại càng lớn. Có 4 yếu tố ảnh hưởng tới thời hạn mua chịu: - Tính chất kinh tế của sản phẩm: sản phẩm có thời gian luân chuyển cao được bán ra với thời hạn mua chịu ngắn, người mua sẽ bán lại sản phẩm một cách nhanh chóng, thu được tiền mặt giúp họ có tiền trả nợ cho nhà cung cấp. - Tình trạng tài chính của người bán. Nếu người bán không có tài chính dồi dào sẽ đòi hỏi người mua phải trả tiền ngay hoặc chỉ chấp nhận thời hạn mua chịu rất ngắn. - Tình trạng của người mua. Thông thường các nhà bán lẻ có tài chính khá 19 mạnh và muốn mua chịu của các nhà cung cấp với thời hạn lâu hơn. Vài loại bán lẻ trong các lĩnh vực được xem là nhiều rủi ro được chấp nhận một thời gian mua chịu rất lâu nhưng họ được khuyến khích trả nhanh bằng các khoản giảm giá hàng lớn - Giảm giá hàng. Giảm giá hàng được thực hiện, nếu người mua thanh toán trong một thời hạn nào đó. Phí tổn không nhận giảm giá thường cao hơn lãi suất mà người mua đi vay nợ. Do đó, doanh nghiệp phải cẩn thận trong việc sử dụng mua chịu như là nguồn tài trợ vì phí tổn tài chính rất cao. Nếu doanh nghiệp vay tiền để nhận giảm giá hàng mua, thời gian các khoản phải trả còn ghi ở sổ sách sẽ giảm đi. Công cụ để thực hiện huy động vốn bằng hình thức này phổ biến là thương phiếu. Vì thế, đây là hình thức tài trợ ngắn hạn rất ưa chuộng của các doanh nghiệp do thời hạn linh động và với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp có thể dễ dàng chiết khấu các thương phiếu lấy tiền phục vụ nhu cầu tài chính khi thương phiếu chưa đến hạn thanh toán. Ngoài ra đây là hình thức tạo vốn rất tiện lợi và thông thường của hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp thiếu tiêu chuẩn được vay của ngân hàng có thể mua chịu được. Nhờ quá trình liên lạc kinh doanh, nhà cung cấp ở vị trí thuận lợi để xét đoán khả năng của khách hàng và đo lường độ rủi ro trong việc bán chịu và cung cấp tín dụng thương mại cho doanh nghiệp. Trên đây là các phương thức huy động vốn phổ biến của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các phương thức này đã làm cho doanh nghiệp có thể tạo ra cho mình nhiều kênh dẫn vốn mới cung cấp vốn kịp thời cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song vấn đề cũng rất đáng quan tâm đối với một doanh nghiệp là các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tạo vốn của doanh nghiệp. Nó sẽ ảnh hưởng tới tính hiệu quả của quá trình huy động vốn. 3 . Các yếu tố ảnh hưởng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. 3.1. Chi phí vốn. Chi phí vốn là yếu tố đầu tiên có tác động quan trọng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố cần thiết cho sản xuất. Cũng như bất kỳ một yếu tố nào khác để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần bỏ ra một chi phí nhất định. Để tạo vốn, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Với mỗi một loại vốn cụ thể thì chi phí vốn chính là chi phí trả cho nguồn vốn huy động. Nó được tính bằng số lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Với mỗi nguồn huy động khác nhau lại có cách tính chi 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan