Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Ly hôn trong các gia đình người việt theo công giáo (qua nghiên cứu giáo xứ chợ ...

Tài liệu Ly hôn trong các gia đình người việt theo công giáo (qua nghiên cứu giáo xứ chợ mới, nha trang, khánh hòa)

.PDF
201
408
110

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO KỲ HƢƠNG LY HÔN TRONG CÁC GIA ĐÌNH NGƢỜI VIỆT THEO CÔNG GIÁO (QUA NGHIÊN CỨU GIÁO XỨ CHỢ MỚI NHA TRANG, KHÁNH HOÀ) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA DÂN GIAN MÃ SỐ : 62 22 01 30 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. LÊ HỒNG LÝ HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình sưu tầm và nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, hình ảnh và kết quả nêu trong luận án là trung thực. Những đóng góp khoa học mới được đề cập trong luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả Cao Kỳ Hƣơng MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU MỞ ĐẦU....................................................................................................................1 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN....................................................11 1.1. Tình hình nghiên cứu.........................................................................................11 1.2. Một số vấn đề lý luận.........................................................................................35 1.3. Một số khái niệm được sử dụng trong luận án...................................................38 Tiểu kết chương 1.....................................................................................................42 Chương 2 BỐI CẢNH ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ QUAN NIỆM CỦA GIÁO DÂN CHỢ MỚI, CỦA GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ...........................................................43 2.1. Tổng quan giáo xứ Chợ Mới............................................................................. 35 2.2. Sự chuyển đổi của địa bàn trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.............50 2.3. Quan niệm của giáo dân Chợ Mới và của giáo lý Công giáo về hôn nhân và gia đình.................................................................................62 Tiểu kết chương 2.....................................................................................................76 Chương 3 THỰC TRẠNG LY HÔN Ở GIÁO XỨ CHỢ MỚI ...............................77 3.1. Khái quát tình hình ly hôn ở giáo xứ Chợ Mới..................................................77 3.2. Các tham số ly hôn ở giáo xứ Chợ Mới.............................................................82 3.3. Hậu quả việc ly hôn của người Công giáo.......................................................104 Tiểu kết chương 3...................................................................................................110 Chương 4 MỘT VÀI VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ BÀN LUẬN TỪ CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN CỦA GIÁO DÂN CHỢ MỚI................................................111 4.1. Những nhân tố tác động đến ly hôn của người Công giáo...............................111 4.2. Tương đồng và khác biệt giữa các trường hợp ly hôn của người Công giáo và người không Công giáo...........................................136 4.3. Hiện tượng thế tục hoá các giá trị tôn giáo......................................................143 Tiểu kết chương 4...................................................................................................149 KẾT LUẬN.............................................................................................................151 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ.............................................................................154 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................155 PHỤ LỤC................................................................................................................177 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Gđ gia đình GH Giáo hội Gl Giáo luật GLHTCG Giáo lý Hội thánh Công giáo HĐGMVN Hội đồng Giám mục Việt Nam HNVGĐ Hôn nhân và Gia đình Nxb Nhà xuất bản TCN trước Công nguyên TpHCM Thành phố Hồ Chí Minh tr. trang VN Việt Nam VNCH Việt Nam Cộng Hòa VNDCCH Việt Nam Dân chủ Cộng hòa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Trang Bảng 2.1. Số liệu thống kê gia đình của giáo xứ Chợ Mới trong 5 năm.........59 Bảng 2.2. Tổng hợp phỏng vấn về quan niệm hôn nhân của 16 đối tượng nam nữ ở giáo xứ Chợ Mới..........................................................63 Bảng 2.3. Tổng hợp phỏng vấn về quan niệm gia đình của 16 đối tượng nam nữ ở giáo xứ Chợ Mới.........................................................68 Bảng 3.1. Thống kê hôn nhân và gia đình giáo xứ Chợ Mới trong 5 năm......78 Bảng 3.2. Thống kê tổng hợp các tiêu chí cá nhân người ly hôn theo khía cạnh xã hội...................................................................83 Bảng 3.3. Thống kê tổng hợp lý do ly hôn, khía cạnh xã hội..........................87 Bảng 3.4. Thống kê tổng hợp tiêu chí cá nhân người ly hôn, khía cạnh tôn giáo.........................................................................91 Bảng 3.5. Thống kê tổng hợp số liệu liên quan đến con cái các đôi ly hôn....96 Bảng 3.6. Thống kê tổng hợp tiêu chí gia đình người ly hôn, khía cạnh xã hội ...........................................................................98 Bảng 3.7. Thống kê tổng hợp tiêu chí về gia đình các đôi ly hôn, khía cạnh tôn giáo ......................................................................100 Bảng 4.1. Các tương đồng và khác biệt giữa các trường hợp ly hôn của người Công giáo và người không Công giáo............................142 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Luật Hôn nhân và Gia đình (HNVGĐ) năm 2000, đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2010, khẳng định ngay trong Lời nói đầu: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dƣỡng con ngƣời, là môi trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.” [80, tr. 9; tr. 74]. Thế nhƣng trong xã hội Việt Nam hiện nay, hiện tƣợng gia đình tan rã hoặc biến thể đang gia tăng. Theo thống kê quốc gia, tình hình ly hôn tăng nhanh mỗi năm: năm 2005 có 65.929 vụ, thì đến năm 2010 có 126.325 vụ [197]. Công giáo vốn đƣợc biết đến là tôn giáo chủ trƣơng gia đình chỉ một vợ một chồng (đơn hôn) và không ly hôn (vĩnh hôn). Cho nên từ trƣớc đến nay, khi viết về gia đình ngƣời Công giáo, đặc biệt là giá trị hôn nhân Công giáo, không ít các nhà nghiên cứu cho rằng đó là hôn nhân có truyền thống bền vững, đảm bảo sự yên ổn trong gia đình và thƣờng lấy đó làm thƣớc đo khi đề cập đến hôn nhân của những thành phần xã hội khác. Thế nhƣng, trải qua thời gian, đặc biệt từ thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, ly hôn trong các gia đình Công giáo đang có chiều hƣớng gia tăng. Nếu trƣớc năm 1990, tức là cách đây khoảng 20-25 năm, ly hôn trong Công giáo là hiện tƣợng hết sức hiếm, hầu nhƣ không có, hoặc nếu có, chỉ vài ngƣời lén lút, thì hiện nay, giáo dân có thể biết rõ ràng những ai ly hôn trong giáo xứ mình. Điều này cho thấy giá trị hôn nhân của Công giáo đang bị tổn thƣơng, giáo lý về hôn nhân “bất khả phân ly” và bí tích hôn phối đang trở nên bất khả toàn. Nếu ly hôn giải phóng các cặp vợ chồng không đạt đƣợc mục đích của hôn nhân, và nhờ đó ly hôn đem lại hạnh phúc cho một số ngƣời thì cũng đem 1 đến cho xã hội nhiều bất ổn về các mặt an ninh, an sinh, kinh tế, tâm lý, giáo dục...đặc biệt là những tổn thƣơng tình cảm, kinh tế cho trẻ em. Mặc dù luật pháp không cấm ly hôn, song việc cha mẹ ly hôn đã ảnh hƣởng lớn đến con cái. Ở cộng đồng giáo dân, khi ngƣời Công giáo đem nhau ra toà ly hôn, họ sẽ còn phải chịu thêm trách nhiệm do giáo lý và giáo luật quy định. Vì thế, việc nghiên cứu ly hôn trong các gia đình Công giáo là hết sức cần thiết, bởi vì tuy đã có một số công trình nghiên cứu ly hôn về các khía cạnh qui mô và đặc điểm của ly hôn, độ dài của hôn nhân, ngƣời đứng đơn ly hôn, các nguyên nhân ly hôn, luật pháp và chính sách về hôn nhân và ly hôn, các hậu quả của ly hôn…dƣới các góc độ tâm lý, pháp luật, thống kê, xã hội, kinh tế, giới…nhƣng vẫn còn khoảng trống về nghiên cứu ly hôn trong các cộng đồng tôn giáo, đặc biệt là hiện tƣợng ly hôn trong Công giáo ở khu vực Nam Trung Bộ. Trong bối cảnh đó, đề tài Ly hôn trong các gia đình ngƣời Việt theo Công giáo có tính cần thiết, góp phần làm hoàn chỉnh tổng thể các nghiên cứu khoa học về thực trạng ly hôn ở nƣớc ta. Các nghiên cứu về ly hôn càng có tầm quan trọng và có ý nghĩa sâu rộng hơn khi chúng đƣợc đặt trong một khung cảnh xã hội Việt Nam, văn hoá Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ của sự chuyển đổi từ cơ chế của nền kinh tế tiểu nông, bao cấp sang cơ chế thị trƣờng nhiều thành phần, và đang tăng tốc trên con đƣờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghiên cứu ly hôn của ngƣời Việt Công giáo trong giai đoạn này, bối cảnh này giúp thấu hiểu thêm tác động đó, hoàn thiện bức tranh văn hoá xã hội của thời đại. Mặt khác, bởi vì chúng ta đang sống trong thế giới phẳng, mọi hành vi của ngƣời này tƣơng tác đến ngƣời khác, đến cả cộng đồng, và ngƣợc lại, cho nên nghiên cứu trƣờng hợp ly hôn trong một cộng đồng ngƣời Việt theo tôn giáo để tìm thấy ảnh hƣởng của xã hội, của văn hóa, tác động đến cả tôn giáo 2 vốn nghiêm khắc với ly hôn nhƣ Công giáo. Ngƣợc lại, các trƣờng hợp ly hôn của ngƣời Việt Công giáo cũng phản ánh tình trạng gia đình trong xã hội hiện nay. Vì những lý do trên, việc chọn nghiên cứu ly hôn ở cộng đồng ngƣời Việt Công giáo trong khung cảnh văn hoá, xã hội đất nƣớc ta hiện nay, là một đóng góp cần thiết và hữu ích cho nghiên cứu chung về vấn đề đƣơng đại. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Câu hỏi nghiên cứu Nghiên cứu sinh đặt hai câu hỏi nghiên cứu 1) “Thực trạng ly hôn ở giáo xứ Chợ Mới, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà trong bối cảnh xã hội chuyển đổi hiện nay nhƣ thế nào?” và 2) “Thực trạng đó hiện nay nói lên điều gì về quan niệm và lối sống của giáo dân ở đó trên phƣơng diện hôn nhân và ly hôn?”. 2.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở lý luận và thực ti n ly hôn của ngƣời Công giáo tại một địa phƣơng cụ thể ở vùng đất Nam Trung Bộ, nhìn nhận thực trạng của nó đã di n ra nhƣ thế nào và lý giải toàn diện về hiện tƣợng xã hội này. 2.3. Nhiệm vụ của luận án Từ đó nhiệm vụ của luận án là 1) Làm rõ bối cảnh xã hội tác động đến vấn đề ly hôn của ngƣời Công giáo ở giáo xứ Chợ Mới, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà; 2) Làm rõ quan niệm của ngƣời Việt Công giáo tại địa phƣơng đó về hôn nhân và gia đình và vấn đề ly hôn; 3) Làm rõ thực trạng ly hôn của ngƣời Việt Công giáo qua khảo sát tại địa phƣơng đó; và 4) Từ đó, luận án sẽ hƣớng tới việc lý giải tại sao lại di n ra thực trạng đó và những hệ lụy mà nó đem lại nhƣ thế nào? 3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là thực trạng ly hôn của ngƣời Công giáo. Đối tƣợng khảo sát là các trƣờng hợp ly hôn ở địa bàn nghiên cứu. Có những trƣờng hợp ly hôn, sau đó một hoặc cả hai bên tái hôn với ngƣời mới. Những trƣờng hợp này trong đạo gọi là “rối không thể gỡ đƣợc”. Cụm từ này đƣợc hiểu cách tƣơng đối, vì nếu ngƣời vợ hoặc chồng tái hôn với ngƣời chồng mới, vợ mới, nhƣng lại ly hôn với ngƣời mới đó và sống độc thân trở lại, thì tự bản thân ngƣời ấy đã gỡ rối đƣợc. Tuy nhiên, bình thƣờng thì hiếm khi xảy ra trƣờng hợp này, nên mới có cụm từ “rối không thể gỡ” với hàm ý ngƣời ngoài cuộc không thể gỡ đƣợc. Trong luận án, chúng tôi không đề cập đến các trƣờng hợp: - hôn nhân đồng giới, - các trƣờng hợp ly thân tạm thời hay vĩnh vi n, - các trƣờng hợp sống chung, sống thử mà không kết hôn theo luật Hôn nhân và gia đình, hoặc theo luật lệ Công giáo, - các trƣờng hợp kết hôn giả, Thời gian khảo sát gồm các trƣờng hợp ly hôn từ 1990 đến 2014. Bởi vì sau khi Nhà nƣớc chủ trƣơng Đổi mới năm 1986, xã hội chuyển biến mạnh mẽ, nhất là các mặt văn hoá và kinh tế, đồng thời trong Công giáo Roma, việc đổi mới bộ luật cũ 1917 sang bộ Giáo luật (Gl) mới 1983, đem lại những cách nhìn ly hôn khác trƣớc. Phạm vi khảo sát đƣợc thu hẹp ở giáo xứ Chợ Mới thuộc xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Việc chúng tôi chọn lựa địa phƣơng này là vì các lý do sau: Thứ nhất, đây là địa phƣơng nghiên cứu sinh đã đi thực địa từ những năm 2000 nên khá quen với nhiều cƣ dân ở đây. 4 Thứ hai, đây là một trong số rất ít giáo xứ cổ xƣa nhất của giáo phận Nha Trang, đã đƣợc hình thành từ trƣớc năm 1671, tức là đã tồn tại gần 350 năm. Thứ ba, đây là một giáo xứ thôn quê nhƣng lại nằm ở ngoại ô thành phố, đang trong tiến trình chuyển hoá từ nông nghiệp sang phi nông, cung cấp dịch vụ cho thành phố du lịch Nha Trang. Thứ tƣ, giáo xứ này đã có nhiều vị tử đạo nổi tiếng nhƣ nữ tu Anê Dần, chủng sinh Giuse Hữu, đã cung cấp cho đạo mƣời linh mục, vài chục tu sĩ nam nữ và hàng trăm ơn gọi tu trì, tức là có nếp sống “Công giáo nòi”. Và cuối cùng, giáo xứ này tham gia tích cực vào các hoạt động, chủ trƣơng của Nhà nƣớc, biểu hiện rõ nhất là linh mục quản xứ hiện nay đang là thành viên của Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Khánh Hòa. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Để thực hiện đề tài này, nghiên cứu sinh sử dụng phƣơng pháp liên ngành văn hoá học-xã hội học. Đó là quan sát, tham dự và chủ yếu là phỏng vấn để tìm hiểu động cơ và ý nghĩa phía sau các hành động của chủ thể văn hoá, cũng nhƣ sử dụng phƣơng pháp thống kê của xã hội học để xem xét các số liệu nhƣ những dữ kiện gợi mở, hỗ trợ cho vấn đề đang nghiên cứu. Đồng thời nghiên cứu sinh còn quan tâm phân tích-tổng hợp các tài liệu thứ cấp, internet và thực địa, nhằm kế thừa những thành quả của các nghiên cứu có sẵn và bổ sung những mặt khác của các nghiên cứu đó. Nếu đối tƣợng quan sát là thực trạng ly hôn ở giáo xứ Chợ Mới, thì đối tƣợng phỏng vấn sâu bao gồm trƣớc hết các bên ly hôn nhiều ngƣời hết sức có thể, rồi đến ngƣời thân của họ là cha mẹ, anh chị em, họ hàng, và những ngƣời có quan hệ là bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, trƣởng hoặc phó giáo khu. Trên thực tế không phải tất cả các đôi ly hôn đều đƣợc phỏng vấn đầy đủ 5 hai bên và thân thuộc hai bên, do có một số ngƣời đã chuyển địa bàn sinh sống đến chỗ khác, nên việc tìm gặp họ đối với chúng tôi là rất khó khăn… Ngoài những đối tƣợng cần phỏng vấn sâu vừa kể trên, tôi còn phỏng vấn ngẫu nhiên khoảng 30 đối tƣợng gồm những ngƣời quen, những ngƣời có mối liên hệ với tôi nhƣ bạn bè, phụ huynh học sinh, trong những lần trò chuyện bên bàn cà phê, hoặc thăm nhà họ, để nghe ý kiến của họ về hôn nhân và ly hôn hiện nay. Họ khác nhau về độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa phƣơng, tôn giáo, tình trạng gia đình còn độc thân hoặc đã kết hôn, nên ý kiến họ khá phong phú, đa dạng. Để đối tƣợng đƣợc phỏng vấn cảm thấy thoải mái, tôi dành cho họ chủ động về thời gian lẫn địa điểm phỏng vấn. Thông thƣờng thì vào các sáng Chủ nhật, là thời gian họ nghỉ ngơi, và bên bàn cà phê góc quán ít ngƣời. Thời gian và không gian này tạo bầu không khí thuận lợi nhất để nói “chuyện đời” thay cho từ phỏng vấn khiến ngƣời nghe e ngại. Cách phỏng vấn gồm phỏng vấn mở (để ngƣời đƣợc phỏng vấn thoải mái bộc lộ suy nghĩ) và phỏng vấn hồi cố. Các câu hỏi đƣợc lồng vào câu chuyện nhƣ gợi ý, thông cảm, hơn là điều tra. Tôi tự ghi chép vào khung điều tra thay vì để ngƣời đƣợc phỏng vấn đọc bảng câu hỏi và trả lời vì nhƣ vậy họ sẽ đỡ dè dặt hơn và tránh đƣợc trƣờng hợp đôi khi họ không trả lời, hoặc trả lời không đúng sự thật. Việc phỏng vấn không thể đƣờng đột, mà phải tiến hành cách chậm rãi theo kiểu vết dầu loang, từ vấn đề này sang vấn đề khác, từ ngƣời này giới thiệu sang ngƣời khác. Theo nguyên tắc đạo đức khoa học cũng nhƣ để ngƣời đƣợc phỏng vấn yên tâm, tôi phải cam kết giữ bí mật nhân thân của họ bằng cách ẩn các thông tin nhạy cảm khiến họ có thể bị nhận diện khi công bố kết quả nghiên cứu. Vì thế, tất cả nhân vật nêu trong luận án này đều đã đƣợc thay đổi tên họ. 6 Tuy vậy, tôi không hề quên là trong vấn đề d gây tổn thƣơng nhƣ ly hôn, những ngƣời trong cuộc và cả ngƣời thân của họ luôn đổ lỗi cho phía bên kia. Vì thế, xác minh sự thật là việc cần thiết, bằng cách kiểm tra chéo qua những ngƣời khác, một công việc không hề d dàng khi ngƣời cùng giáo xứ thƣờng bênh vực nhau, nhất là khi một bên vợ hoặc chồng từ nơi khác kết hôn với ngƣời trong xứ. Việc kiểm tra chéo đƣợc thực hiện thông qua các chức việc giáo xứ, một vài tổ trƣởng của thôn xã và linh mục quản xứ, cũng nhƣ qua đơn từ, xác minh của toà án, trong khả năng có thể đƣợc. Về nguồn tƣ liệu, để có những thông tin đáng tin cậy nhất, tôi tìm số liệu nơi linh mục quản xứ và các linh mục có thẩm quyền là chánh án và các thẩm phán của Toà án hôn phối giáo phận Nha Trang với một số án quyết tiêu hôn (có chọn lọc và đã đƣợc thay đổi họ tên, địa điểm), một số báo cáo tổng kết hàng năm của giáo xứ gửi về Toà giám mục, hoặc của Toà giám mục gửi về Toà thánh Roma. Bên cạnh đó, trên cƣơng vị giảng viên trƣờng Cao đẳng, tôi còn xin đƣợc số liệu ly hôn chính thức, các thông tin mà toà án xử ly hôn, từ những phụ huynh công tác ở Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, và ở Toà án thành phố Nha Trang. Việc nghiên cứu với tƣ cách ngƣời trong đạo đem lại cho tôi thuận lợi lẫn khó khăn. Thuận lợi là có sự cởi mở, d trao đổi khi ngƣời phỏng vấn và ngƣời đƣợc phỏng vấn cùng tôn giáo, mặc nhiên cùng “phe”, cùng quan điểm. Các chức sắc tôn giáo tuy dè dặt, thận trọng nhƣng tin tƣởng vào thiện ý của tôi, đã góp ý để làm rõ một số vấn đề về giáo luật hôn nhân và ly hôn, và cả thực ti n các vị đã giải quyết. Đó là những lợi thế mà ngƣời nghiên cứu ngoại đạo khó có đƣợc, dẫu đầu tƣ nhiều thời gian, công sức thâm nhập thực địa đến đâu. Một cơ may khác là trong thời gian tôi thực địa, linh mục quản xứ địa bàn tôi nghiên cứu vốn từng học chung trƣờng trung học cơ sở và trung học 7 phổ thông với tôi nhƣng lớp dƣới, đồng thời là em ruột của một ngƣời bạn cùng lớp với tôi, cho nên việc xin tài liệu, hoặc tham khảo tình hình lại thêm phần d dàng hơn những ngƣời đồng đạo khác. Nhờ uy tín của linh mục quản xứ, việc tiếp xúc với ngƣời ly hôn cũng thuận lợi hơn. Còn khó khăn cũng không ít, trƣớc hết vì vấn đề nghiên cứu vô cùng tế nhị với ngƣời Công giáo, lại thuộc lĩnh vực cấm kỵ (tabou). Ngƣời ta tránh né bàn đến ngƣời ly hôn vì cho rằng việc bàn luận đó đụng chạm đến ngƣời khác, nói xấu ngƣời khác. Trƣớc đây, khi tôi nghiên cứu đề tài Hiếu kính tổ tiên của người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Chợ Mới, ngƣời dân sẵn lòng cho chụp ảnh, ghi âm. Nhƣng với đề tài ly hôn đƣợc thực hiện tại cùng địa phƣơng, giáo dân lại dè chừng, không nhiệt tình hợp tác, tuy họ biết tôi là ngƣời đồng đạo, không có ý định bêu xấu địa phƣơng. Có lẽ họ vẫn còn tâm lý cho rằng ly hôn tái hôn không phải là chuyện đáng đƣợc nêu lên, dù là đƣợc ẩn danh. Vì thế, việc ghi hình, ghi âm hầu nhƣ không thể đƣợc với hầu hết các cuộc phỏng vấn, vì ngƣời đƣợc phỏng vấn không đồng ý. Một khó khăn khác là việc phỏng vấn khơi gợi lại nỗi đau buồn, bực tức hoặc nhục nhã của ngƣời bị “chồng bỏ”, “vợ bỏ”, trong khi tình hình gia đình của họ vào lúc này đã tạm lắng, tình trạng đã ổn định. Cho nên việc nhập vai ngƣời giúp họ giải quyết gỡ rối -và đã thành công với một trƣờng hợp - khiến họ d dàng thổ lộ chuyện cũ hơn. Thêm vào số các khó khăn đó, là những lần tôi gặp phải các đối tƣợng phỏng vấn từ chối trả lời. Tôi chỉ còn cách kiểm tra họ gián tiếp thông qua bè bạn, hàng xóm và ngƣời thân của họ, dĩ nhiên sau đó tôi trừ đi phần trăm mức độ khả tín.  Đó là trƣờng hợp vợ anh Phạm Văn Thái (chi tiết ly hôn sẽ đƣợc trình bày trong chƣơng 3) sau khi ly hôn, đã sinh bé trai và bán ngay cho ngƣời khác. Gia đình anh Thái hay tin đã tìm gặp ngƣời mua, chuộc lại đƣợc cháu bé. Nhờ nghiên cứu, tôi biết trƣờng hợp này có thể tiêu hôn nên đã hƣớng dẫn anh gặp linh mục thẩm phán Toà án hôn phối Giáo phận, làm đơn xin tiêu hôn. Tin vui là anh đã đƣợc xử hôn nhân vô hiệu vào ngày 9-6-2015 căn cứ trên giáo luật số 1101§2: Ngƣời vợ khi kết hôn đã loại bỏ một phần chính yếu của hôn nhân. Từ nay, anh Thái có thể kết hôn với ngƣời mới cách hợp pháp. 8 Trong những lần đƣợc phỏng vấn, ai cũng lãng tránh việc không hoà hợp tình dục dẫn đến ly hôn, vì sợ bị đánh giá là ngƣời ham mê dâm dục. Ngƣời hỏi cũng tránh đi sâu vào vấn đề tế nhị đó. Vì thế, vấn đề này còn bỏ ngỏ. Ngoài ra, vì là ngƣời trong đạo, cái nhìn của ngƣời viết thiếu tính mới mẻ của ngƣời ngoài đạo, tức là thiếu sự ngạc nhiên để dừng lại đặt câu hỏi, đặt vấn đề. Góc nhìn vấn đề của ngƣời viết d mang tính chủ quan, có quan điểm nhân sinh của tôn giáo đã thành nếp trong ngƣời tín hữu. Tóm lại, có cả khó khăn và thuận lợi, nhƣng nhìn chung thuận lợi là chính, vì sự chia sẻ của các chức sắc tôn giáo, của giáo dân và những ngƣời trong cuộc vẫn nhiều, mối thiện cảm và sự tin tƣởng của họ dành cho ngƣời nghiên cứu vẫn vƣợt trội. Hơn thế, vị trí đồng đạo nhƣng không ở trong cùng giáo xứ của ngƣời viết đem lại cái nhìn bức tranh toàn cảnh mà ngƣời trong giáo xứ hoặc ngƣời ngoài Công giáo khó thấy đƣợc. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào nhận thức tốt hơn về vấn đề hôn nhân và ly hôn hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt đối với cộng đồng Công giáo ở Việt Nam. Luận án bổ sung, hoàn thiện bức tranh nghiên cứu về tình hình ly hôn ở nƣớc ta, đóng góp tƣ liệu cho nghiên cứu về văn hoá Công giáo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận, luận án dùng những dữ liệu mới tại một địa phƣơng để thảo luận với lý thuyết về ly hôn của tác giả ngƣời Anh là Mary Nicolette Hart, và từ đó xem xét mức độ phù hợp của lý thuyết đó, hoặc bổ sung, kế thừa các luận điểm. Về mặt thực ti n, luận án góp thêm một nghiên cứu trƣờng hợp vào trong các tranh luận về chủ đề đã và đang ngày càng đƣợc quan tâm trong các ngành khoa học xã hội. Nó đồng thời cũng sẽ là cơ sở khoa học cho các nhà 9 quản lý văn hoá và xã hội ở địa phƣơng tham khảo để xây dựng và hoạch định các chính sách quản lý và phát triển. Luận án còn là cứ liệu khoa học giúp các nhà nghiên cứu xã hội hiểu thêm về một bộ phận ngƣời Việt theo tôn giáo trong vấn đề ly hôn, đóng góp phần nhỏ vào tổng thể văn hóa xã hội Việt Nam hiện nay. Kết quả của luận án góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu về gia đình và cũng là một nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sinh, học viên cao học khi nghiên cứu về hôn nhân và gia đình. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài lời cam đoan, mục lục, bảng chữ viết tắt, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án kết cấu gồm 4 chƣơng, 12 tiết và tiểu kết mỗi chƣơng với nội dung nhƣ sau: Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý luận Chƣơng 2. Bối cảnh địa bàn nghiên cứu và quan niệm về hôn nhân và gia đình của giáo dân Chợ Mới. Chƣơng 3. Thực trạng ly hôn ở giáo xứ Chợ Mới. Chƣơng 4. Một số vấn đề đặt ra và bàn luận từ các trƣờng hợp ly hôn của giáo dân Chợ Mới. 10 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1.Tình hình nghiên cứu Vào thập niên 1990-2000, tác giả Mai Huy Bích nhận định là ở Việt Nam các nghiên cứu về ly hôn còn ít [16, tr. 122], điều này có thể thấy qua một số nghiên cứu về gia đình nhƣng không đề cập sâu đến ly hôn, nhƣ tác giả Nguy n Thị Thọ trong cuốn Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay, các tác giả Nguy n Hữu Minh và Trần Thị Vân Anh trong cuốn Nghiên cứu gia đình và giới thời kỳ đổi mới, và Lê Ngọc Văn trong cuốn Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam. Hoặc tác giả Nguy n Thế Long trong cuốn Gia đình, những giá trị truyền thống đã nêu 4 truyền thống chính là hiếu học với đạo lý tôn sƣ trọng đạo, đạo đức, tâm linh và thẩm mỹ. Vì không đề cập đến những giá trị hôn nhân nhƣ l nghĩa, chung thủy...nên tác giả chỉ nói đến một chút về tình yêu nam nữ trong tiểu mục văn hóa và hôn nhân [78, tr. 406-412] mà phần lớn nói về văn hóa hơn là về hôn nhân. Tuy nhiên trong những năm gần đây đã có khá nhiều nghiên cứu hoặc cận nghiên cứu bàn về ly hôn dƣới nhiều góc độ. Dựa vào các tài liệu khai thác đƣợc, luận án tạm chia chúng thành hai nhóm theo hƣớng nghiên cứu sau đây: 1.1.1.Những nghiên cứu về ly hôn nói chung Trong cuốn Xã hội học gia đình, tác giả Mai Huy Bích đã dành 16 trang, (từ trang 121-136) để đƣa ra các lý thuyết xã hội về ly hôn. Tác giả còn trình bày việc ly hôn là một quá trình, tác động của ly hôn đến con cái về các mặt tình cảm, kinh tế, nhân cách, di truyền…Đây là một nghiên cứu nghiêm túc, 11 cơ bản và có tính lý thuyết cao [16, tr. 121]. Luận án tiếp thu lý thuyết ba nhân tố trong cuốn Xã hội học gia đình này để làm cơ sở lý luận cũng nhƣ để đối chiếu với thực tế nghiên cứu. Giáo trình Gia đình nhìn từ góc độ Xã hội học của Nguy n Thị Oanh giảng dạy tại Khoa Phụ nữ, Đại học Mở-Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, đã dành chƣơng 7 [86, tr. 165] để đề cập đến các vấn đề của ly hôn nhƣ nguyên nhân, quá trình, ảnh hƣởng, các vấn đề pháp lý của ly hôn, các vấn đề của tái hôn...thông qua các bài báo, các thống kê tòa án vào thời điểm 1995. Vì là giáo trình nên tác giả chỉ điểm sơ các mục chính nhƣ những gợi ý mà không đi chuyên sâu vào vấn đề nào. Luận án sử dụng các gợi mở đó nhƣ những đối chứng với thực tế nghiên cứu. Trong cuốn Sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm về Hôn nhân gia đình giữa các thế hệ người Việt Nam hiện nay, tác giả Lê Thi đã dành 6 trang (từ trang 263-268) để nêu lên những lý do ly hôn của những ngƣời đƣợc phỏng vấn nhƣ ngoại tình, bạo lực gia đình, không quan tâm đến nhau, chênh lệch (tuổi, địa vị xã hội, trình độ…). Tác giả nhận xét rằng có những yếu tố văn hóa xã hội tác động làm gia tăng tỉ lệ ly hôn, chẳng hạn thế hệ trẻ kết hôn không hẳn vì tiền tài, địa vị, sinh con, mà để hạnh phúc lứa đôi về các mặt tâm sinh lý, cho nên khi hết thỏa mãn về nhau, họ d ly hôn [110, tr. 273]. Ly hôn đƣợc đề cập nhƣ một phần nhỏ trong toàn bộ, cho nên cần một nghiên cứu chuyên sâu mới đề cập vấn đề rộng hơn. Cuốn Xã hội học do Nguy n Mậu Dựng chủ biên, là tài liệu lƣu hành nội bộ cho Đại học Đà Nẵng, trong phần Xã hội học gia đình [28, tr. 155], có trình bày quan điểm của tác giả: “ly hôn là hiện tƣợng xã hội bất bình thƣờng nhƣng nhiều khi là cần thiết để đảm bảo quyền tự do trong hôn nhân và nó nhƣ một biện pháp nhằm củng cố chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Song 12 nó cũng đem đến sự bất hạnh cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt là con cái”. Tác giả cũng nêu một số nguyên nhân ly hôn nhƣ không tìm hiểu nhau kỹ, mâu thuẫn sống chung, khó khăn kinh tế…[28, tr. 166]. Vì là một phần trong giáo trình Xã hội học, ly hôn đƣợc đề cập sơ lƣợc dƣới góc nhìn xã hội hơn là văn hoá, cho nên nghiên cứu ly hôn dƣới góc độ tôn giáo vẫn còn bỏ trống. Cuốn Model of Divorce in Contemporary Vietnam: A socio-economic and structural analysis of divorce in the Red River Delta in 2000s (Mô hình ly hôn ở Việt Nam đƣơng đại: Một phân tích kinh tế-xã hội và cấu trúc của ly hôn ở đồng bằng sông Hồng trong những năm 2000) của Trần Thị Minh Thi là một công trình công phu, nghiêm túc, mẫu mực cho các nghiên cứu về ly hôn, đã đề cập đầy đủ chi tiết về ly hôn trong 8 chƣơng: quy mô và đặc điểm của ly hôn, độ dài hôn nhân của những ngƣời ly hôn, ngƣời đứng đơn ly hôn và các yếu tố tác động, các nguyên nhân ly hôn truyền thống và hiện đại và các yếu tố tác động, phân chia tài sản và con cái sau ly hôn…Tuy nghiên cứu chỉ khoanh vùng ở tỉnh Hà Nam và ở hai quận huyện đồng bằng sông Hồng, nhƣng nó cũng đại diện đƣợc cho hầu hết các cuộc ly hôn ở nhiều địa phƣơng khác về tính chất ly hôn. Nói hầu hết là vì vẫn còn khoảng trống cho các cuộc ly hôn Công giáo, vốn vừa có nét chung với các cuộc ly hôn ngƣời Việt, lại có nét riêng của ngƣời Việt theo tôn giáo, mà luận án khai thác. Bài viết Ly hôn ở Đà Nẵng: Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống thiết chế xã hội của tác giả Trần Văn Thạch nêu ra 8 loại nguyên nhân ly hôn và 2 thiết chế xã hội là luật pháp và dƣ luận [105, tr. 76]. Các số liệu và nguyên nhân ly hôn cũng nhƣ thiết chế xã hội tác giả đƣa ra ở Đà Nẵng có công dụng nhƣ một tham khảo cho luận án, vì luận án 13 đƣợc thực hiện ở một địa phƣơng khác, và ở vùng quê ven thị chứ không hẳn ở thành phố. Ngày 6 tháng 5 năm 2015 tại Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, nghiên cứu sinh Phan Thị Luyện đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ cấp Học viện, chuyên ngành Xã hội học với đề tài “Nguyên nhân ly hôn của phụ nữ qua nghiên cứu hồ sơ Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội”. Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ dân sự sơ thẩm về các vụ việc ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội từ năm 2005 đến năm 2010 cho thấy, trong xã hội hiện đại, xu hƣớng ly hôn có chiều hƣớng gia tăng, trong đó, phụ nữ là nguyên đơn ly hôn chiếm tỷ lệ cao. Luận án đi sâu phân tích các nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống hôn nhân thúc đẩy ngƣời phụ nữ quyết định ly hôn, và các yếu tố tác động đến vấn đề ly hôn của phụ nữ. Từ nghiên cứu thực ti n, luận án đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến ly hôn bao gồm: Tính tình không phù hợp là nguyên nhân chủ yếu (chiếm tỷ lệ 51,5%); Ngoại tình (chiếm 12,2%) và các nguyên nhân khác nhƣ: Ghen tuông, Bạo lực gia đình, Phạm tội và mắc các tệ nạn xã hội; Nguyên nhân kinh tế… Luận án không đề cập đến ly hôn trong các cộng đồng Công giáo, nhƣng các thông số của luận án này có thể dùng để tham khảo, đối chiếu với các trƣờng hợp ở địa bàn tôn giáo nghiên cứu. Bài nghiên cứu Tình hình ly hôn hiện nay và nguyên nhân của nó của Lê Phƣợng không thấy đề cập tình hình ly hôn mà chỉ đƣa ra hai loại nguyên nhân ly hôn: nguyên nhân gián tiếp có nguồn gốc trƣớc ly hôn bao gồm quan niệm tình yêu, thời gian tìm hiểu, động cơ kết hôn và sự chuẩn bị kiến thức cần thiết về cuộc sống vợ chồng; nguyên nhân trực tiếp đƣợc hình thành sau thời gian kết hôn nhƣ quan niệm sai lầm về tình yêu và hôn nhân, thiếu bình đẳng giữa vợ chồng, mâu thuẫn giữa các thế 14 hệ, ngoại tình, quan niệm d dãi về ly hôn. Tác giả cũng lƣu ý mối quan hệ qua lại giữa hai loại nguyên nhân này. Đây là một cách phân loại mới lạ, đem lại kiến thức mới về nguyên nhân ly hôn [95, tr. 39]. Giới hạn của bài viết tạp chí không cho phép tác giả triển khai sâu rộng hơn các ý tƣởng đó, cho nên luận án này nhƣ một nghiên cứu dài hơi hơn để tiếp tục vấn đề tác giả đã nêu. Còn một số bài viết khác tuy có đề cập đến ly hôn, nhƣng chỉ đi lƣớt qua vấn đề nhƣ một bộ phận nhỏ trong tổng thể, chứ không phải là nghiên cứu về ly hôn thực sự, chẳng hạn bài Cẩm nang về nghiên cứu gia đình trên thế giới (Handbook of world families) do Bert N. Adam và Jan Trost chủ biên, đƣợc Trần Thị Cẩm Nhung giới thiệu [15, tr. 78] bao gồm 30 quốc gia trên các châu lục bao gồm nhiều vấn đề nhƣ giới, dòng họ, hình thành gia đình, bạo lực, già.... Hoặc bài Hôn nhân trong quá trình đô thị hoá ở thành phố Đà nẵng của Trƣơng Diệu Hải An có nêu số liệu ly hôn, lý do, trình độ học vấn, ngƣời đứng đơn xin ly hôn, số năm sống trung bình trƣớc ly hôn...[1, tr. 15]; bài Nghiên cứu gia đình trong bối cảnh mới của Lê Ngọc Văn nêu tình trạng và nguyên nhân ly hôn trong nhiều vấn đề khác liên quan đến gia đình [135, tr. 3] Và còn nhiều bài viết khác nói về ly hôn, tựu trung giống nhau về bản chất (tình hình ly hôn, nguyên nhân ly hôn...) chỉ khác số liệu tuỳ từng thời kỳ và địa phƣơng. Nghiên cứu ly hôn ở nƣớc ngoài, có bài Một số vấn đề gia đình ở Nhật Bản của Hoàng Hoa đã nêu nguyên nhân xa của ly hôn ở Nhật Bản là do quá trình hiện đại hoá, pháp luật hợp pháp hoá thủ tục ly hôn, còn lý do gần là do vợ chồng không phù hợp trong tính cách, hai ngƣời không còn tình yêu và một phần khá lớn là lý do kinh tế [44, tr. 63]. Luận án sử 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan