Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở ...

Tài liệu Luận văn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở việt nam hiện nay

.PDF
94
1538
95

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- PHẠM THỊ MAI LINH TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- PHẠM THỊ MAI LINH TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ANH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Ngọc Anh, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được đề cập trong luận văn. Các tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình. Hà Nội, tháng 05 năm 2017 Tác giả Phạm Thị Mai Linh LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau đại học và các phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu tại quý trường. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Triết học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Ngọc Anh, cán bộ giảng dạy khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình. Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan tâm giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn Hà Nội, tháng 05 năm 2017 Tác giả Phạm Thị Mai Linh MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 7 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ........................................................ 7 5. Giả thuyết khoa học ................................................................................ 7 6. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 7 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .................................................................. 8 8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8 9. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 8 10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ..................... 8 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.................. 9 1.1. Cách tiếp cận triết học đối với vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ........................................................................................... 9 1.1.1. Hoạt động kinh doanh và tính tất yếu của vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội .......................................................................... 9 1.1.2. Một số quan điểm về vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lịch sử ..................................................... 18 1.2. Khái niệm, vai trò trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp .................. 21 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm xã hội và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ............................................................... 21 1.2.2. Vai trò trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ............................... 29 1.3. Khái niệm môi trường, bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ................... 31 1.3.1. Khái niệm môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường .................. 31 1.3.2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường .............................................................................. 34 Chương 2: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ......................................... 43 2.1. Thực trạng vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay ........ 43 2.1.1. Khái quát chung tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay ...................................................... 43 2.1.2. Kết quả thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay ....................................... 49 2.1.3. Đánh giá việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay....................... 59 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay ........ 63 2.2.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước ................................................ 63 2.2.2. Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp .......................................... 73 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 83 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BVMT : Bảo vệ môi trường DN : Doanh nghiệp KTTT : Kinh tế thị trường ÔNMT : Ô nhiễm môi trường TNXH : Trách nhiệm xã hội 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Với vai trò trụ cột trong sự phát triển của đất nước, DN không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hóa các hoạt động xã hội. Hiện nay, ngày càng nhiều DN chú ý tới việc củng cố hình ảnh, nâng cao uy tín, phát triển thương hiệu thông qua việc xây dựng văn hóa DN, thực hành đạo đức kinh doanh, thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội. Trên thế giới, nhiều DN đã đưa vấn đề TNXH vào chương trình hoạt động của mình một cách nghiêm túc. Có nhiều chương trình thể hiện TNXH của DN như: tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải cac-bon, sử dụng năng lượng mặt trời… Người tiêu dùng hiện nay không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty làm ra sản phẩm đó. Họ luôn muốn biết sản phẩm đó có thân thiện với môi trường, có tính nhân đạo, có lành mạnh hay không. Ở Việt Nam, vấn đề TNXH của DN tuy còn khá mới mẻ nhưng cũng đã manh nha xuất hiện ở thời kì bao cấp. Thời điểm đó người ta đã nói nhiều về TNXH của xí nghiệp đối với nhà nước và người lao động, cũng như đối với cộng đồng nói chung. Hiện nay, vấn đề TNXH đã dần trở nên quen thuộc với nhiều DN, đi kèm là sự cam kết của DN đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững của quốc gia. Trong xu hướng hội nhập quốc tế, Việt Nam đề ra mục tiêu chiến lược của quốc gia là hướng đến sự phát triển bền vững. Bên cạnh các vấn đề về tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội thì vấn đề BVMT được coi là một trong ba tiêu chí rất quan trọng để đánh giá sự phát triển bền vững. Trong những năm gần đây, mặc dù TNXH đã được các DN nhận thức nhưng vẫn chưa được quan tâm đúng mức và còn bỏ ngỏ ở nhiều mảng, đặc biệt là lĩnh vực bảo vệ môi trường. 2 Thực tế hiện nay tình trạng ÔNMT ở Việt Nam đang ở mức báo động. ÔNMT đang có xu hướng gia tăng, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước, mà phần nhiều sự ô nhiễm này là do các DN gây ra từ công việc sản xuất kinh doanh. Điển hình có thể kể đến một số DN gây ÔNMT nghiêm trọng, bị các cơ quan chức năng xử lý như: Công ty Vedan Việt Nam xả chất thải ra sông Thị Vải gây ÔNMT, bị phát hiện ngày 13/9/2008 tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; vụ Công Ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ô nhiễm biển, cá chết hàng loạt tại nhiều tỉnh miền Trung vào tháng 4/2016… Vấn đề trách nhiệm đối với môi trường của toàn xã hội nói chung và việc thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói riêng phải được thực hiện nghiêm túc quyết liệt để môi trường ở nước ta thêm trong sạch và bền vững. Chính vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu TNXH của DN hiện đang là lĩnh vực nhận được sự quan tâm của xã hội và nhiều nhà nghiên cứu. Vấn đề thực hiện TNXH trong lĩnh vực BVMT cũng ngày càng được quan tâm nhiều hơn trong bối cảnh nền KTTT hiện nay. Nhiều DN vì chạy theo lợi nhuận mà quên đi trách nhiệm của mình trong lĩnh vực BVMT, gây nguy hại đến môi trường làm việc của người lao động và môi trường sống của nhiều người dân xung quanh. Về khái niệm trách nhiệm xã hội của DN Tác giả Phạm Văn Đức trong bài “Trách nhiệm xã hội của DN ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách” giới thiệu quá trình ra đời của khái niệm này khi mới xuất hiện và được mở rộng về sau [26, tr.132]. Tác giả Lê Thanh Hà trong sách “Trách nhiệm xã hội của DN trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế” đưa ra các khái 3 niệm TNXH của DN phổ biến hiện nay như: định nghĩa của Hội đồng thương mại thế giới, của Ngân hàng thế giới, của Liên hợp quốc, của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OEDC), của một số tổ chức phi chính phủ (NGO), của một số công ty đa quốc gia như Adidas…[29, tr.7-10]. Về nguồn gốc trách nhiệm xã hội của DN Tác giả Vũ Kiều Phương trong bài viết “Một vài suy nghĩ về mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và trách nhiệm xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” đề cập đến vấn đề lợi ích chi phối nghĩa vụ và quyền của con người dẫn đến TNXH nói chung và TNXH của DN nói riêng [45, tr.247-248]. Tác giả Đỗ Hoài Nam trong bài viết “Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường” nhấn mạnh: Cơ sở của trách nhiệm chính là lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế giữa các chủ thể (cá nhân, cộng đồng và xã hội) không chỉ tạo nên động lực thúc đẩy các chủ thể trong quá trình thực hiện lợi ích của mình mà còn là sự ủng hộ, quan tâm của họ đến lợi ích của người khác, của xã hội, nghĩa vụ gia tăng TNXH của các chủ thể. Nói cách khác, TNXH được coi là chìa khóa của sự phát triển xã hội trong bối cảnh hiện nay [43, tr.21]. Tác giả Đặng Hữu Toàn trong bài viết “Trách nhiệm xã hội trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường” đã đưa ra quan điểm của C.Mác để chứng minh cho quan điểm của mình về lợi ích và đạo đức khi nói đến nguồn gốc TNXH của DN như sau: Phát triển KTTT với tư tưởng làm giàu bằng mọi giá. Khi lợi nhuận và tiền bạc có sức hấp dẫn như C.Mác nói không có tội ác nào mà con người không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ thì chính lợi nhuận, tiền bạc đó đã trở thành chất kích thích mạnh mẽ, không gì cưỡng nổi khiến cho những thói hư, tật xấu, vô đạo đức, vô trách nhiệm, vô cảm trước đồng loại ngày càng nảy nở, phát sinh và phát triển. Do vậy, trong phát triển KTTT, khi mọi người đều lấy người khác làm phương tiện để lợi dụng cho mục đích cá nhân, vị kỷ như C.Mác đã nói, lợi ích cá nhân đó đã khiến cho lương tâm 4 con người trở nên lu mờ, trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức bị che khuất, nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội bị lãng quên. Và mỗi khi con người trở nên vô cảm, vô tâm, vô đạo đức, vô trách nhiệm trước những hiểm họa đang đe dọa trực tiếp đến sự sống, sự an nguy tính mạng con người, họ sẵn sàng sản xuất, kinh doanh những sản phẩm, những hàng hóa không chỉ bất chấp sự hủy hoại môi trường sống mà còn bất chấp cả tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, dẫu vẫn biết đó là cái cần thiết cho sưc khỏe con người [51, tr.37-38]. Về vai trò của trách nhiệm xã hội của DN Tác giả Lê Thanh Hà (2006), “Trách nhiệm xã hội DN trong vấn đề tiền lương”, Báo Lao động xã hội, số 290, ngày 15/05/2006 đề cập tới vai trò của tiền lương như: các mức lương vừa thể hiện vị trí công việc vừa thể hiện sự chia sẻ lợi ích giữa các tổ chức, các DN và người lao động, vừa thể hiện sự phát triển nghề nghiệp của mỗi cá nhân người lao động. Tác giả Hoàng Long (2007), “Trách nhiệm xã hội DN - Động lực cho sự phát triển”, Báo Thương mại, số 26/2007, chứng minh tầm quan trọng việc thực hiện TNXH của DN tới sự phát triển xã hội. Tác giả Hồng Minh (2007), “Trách nhiệm xã hội và đạo đức DN”, Báo Văn hóa và đời sống xã hội, số 2/2007, cho rằng đạo đức và TNXH rõ ràng là những vấn đề không thể thiếu trong kinh doanh. Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết “Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội” đưa ra nhận định: Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay đã tạo cho nhân loại một lực lượng sản xuất khổng lồ mà các thế kỷ trước người ta chưa thể mường tượng được. Những luật lệ của kinh tế toàn cầu được nhiều nước chấp nhận, tuân thủ và do vậy chúng hạn chế bớt được phần nào mặt trái do KTTT gây ra. Tuy nhiên, không thể vì thế mà coi KTTT và các luật lệ của nó là chiếc đũa thần vạn năng có thể loại bỏ được tất cả những gì tiêu cực ẩn chứa trong nó. Cho nên, cùng với trách nhiệm về mặt luật pháp 5 thì trách nhiệm đạo đức hay nói rõ hơn là TNXH của những người tham gia KTTT có vai trò không nhỏ. Chính tinh thần, TNXH của các chủ thể sản xuất, kinh doanh và nói chung là của những người tham gia thị trường sẽ góp phần hạn chế và giảm bớt những tác động tiêu cực, hay mặt trái của KTTT, qua đó thúc đẩy sự phát triển và làm lành mạnh các quan hệ xã hội [16, tr.43]. Trong bài viết này, tác giả còn cho rằng: “Ý thức về trách nhiệm xã hội sẽ giúp những người sản xuất, kinh doanh tự điều chỉnh các hoạt động của mình sao cho phù hợp với những đòi hỏi của chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực đạo đức để hướng tới cái lợi, cái thiện và cái đẹp” [16, tr.44]. Về nội dung trách nhiệm xã hội của DN Tác giả Nguyễn Văn Thức trong bài viết “Vai trò của nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội” cho rằng TNXH bao gồm ba nội dung cơ bản là: Thứ nhất, quan hệ giữa người với người cùng chung sống, hợp tác khoan dung với nhau trong xã hội; thứ hai, sự gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng xã hội; thứ ba, trách nhiệm phải đóng góp vào sự bảo vệ và phát triển của cộng đồng xã hội. Sự đóng góp này thể hiện ở ba mức độ: Tự nhiên, tự nguyện và nghĩa vụ [49, tr.71]. Tác giả Đỗ Hoài Nam trong bài viết “Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường” cho rằng TNXH của DN được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt như: (1) Bảo vệ môi trường, (2) Đóng góp cho cộng đồng xã hội, (3) Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp, (4) Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng, (5) Quan hệ tốt với người lao động, (6) Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong DN. Bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài của DN, hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của DN [43, tr.22]. Vấn đề TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT Tác giả Nguyễn Thị Lan Hương (2009), “Trách nhiệm môi trường Một phương diện của trách nhiệm xã hội”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế TNXH 6 trong điều kiện KTTT đề cập đến một trong những vấn đề cấp bách hiện nay, đó là trách nhiệm của con người đối với môi trường sống của mình từ góc nhìn trách nhiệm xã hội [35, tr.268.273]. Tác giả Nguyễn Thị Huyền (2009), “Đạo đức môi trường - Một khía cạnh trách nhiệm xã hội”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế TNXH trong điều kiện KTTT đưa ra một trong những vấn đề cấp bách hiện nay là phải cân bằng giữa lợi ích kinh tế và vấn đề đảm bảo môi trường. Tuy nhiên, khái niệm trách nhiệm được tác giả đề cập tới bao hàm cả trách nhiệm pháp lý lẫn trách nhiệm đạo đức. Vì vậy, nếu chỉ đơn thuần dựa vào pháp luật hay các quy tắc mang tính cưỡng chế thì không thể giải quyết được bài toán cân bằng lợi ích. Tác giả Vũ Dũng (2011), “Đạo đức môi trường ở nước ta - Lý luận và thực tiễn”, Nxb Từ điển Bách Khoa, đây là cuốn sách đầu tiên phân tích về đạo đức môi trường ở nước ta một cách hệ thống từ lý luận đến thực tiễn [28]. Tác giả Trần Nguyên Việt trong bài viết “Trách nhiệm xã hội của DN về vấn đề sinh thái và ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay” cho rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, song việc thực hiện nó như thế nào đòi hỏi các cấp các ngành phải hướng tới sự đồng bộ và hài hòa của ba mục tiêu: tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững gắn với BVMT và giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với trách nhiệm của DN, bất kể đó là DN lớn, nhỏ hay vừa [56]. Ở Việt Nam, dù đã có nhiều DN áp dụng TNXH của DN nhưng đây vẫn là vấn đề khá mới mẻ. Vì thế những công trình viết về thực trạng việc thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT không nhiều. Các công trình này đưa ra xu thế tất yếu việc thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam, phân tích thực trạng và từ đó đưa ra giải pháp tăng cường TNXH của DN trong điều kiện nước ta hiện nay. Tuy nhiên thực trạng và giải pháp cho vấn đề TNXH 7 của DN trong lĩnh vực BVMT thường được trình bày dưới góc độ đạo đức, kinh tế, môi trường chứ chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này dưới góc độ triết học. Vì thế tác giả xin kế thừa và vận dụng vào công trình nghiên cứu của mình, trên cơ sở đó nghiên cứu vấn đề thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT dưới góc độ triết học. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ tính tất yếu của việc thực hiện TNXH của DN, trình bày khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về TNXH của DN đồng thời khảo sát thực trạng vấn đề thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT những năm gần đây, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam . 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể: Doanh nghiệp Việt Nam. Đối tượng: Trách nhiệm xã hội của DN trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay. 5. Giả thuyết khoa học Nếu các DN thực hiện tốt TNXH trong việc BVMT thì sẽ góp phần đưa Việt Nam nhanh chóng đạt đến mục tiêu phát triển bền vững, từ đó đóng góp vào sự phát triển bền vững của nhân loại. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đi đến được mục đích nói ở trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: Lập luận về tính tất yếu phải thực hiện TNXH của các DN (cách tiếp cận triết học đối với vấn đề TNXH của DN); Phân tích một số quan điểm về TNXH của DN trong lịch sử. - Trình bày khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về TNXH của DN; - Khảo sát và đánh giá thực trạng thực hiện TNXH của DN đối với việc BVMT ở Việt Nam những năm gần đây. - Đề xuất một số phương hướng nâng cao TNXH của DN ở Việt Nam thời gian tới. 8 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2006 - 2016 - Phạm vi về không gian: Ở Việt Nam - Phạm vi về nội dung: Từ cách tiếp cận TNXH của DN dưới góc độ triết học, đề tài khái quát thực trạng thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao việc thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam trong thời gian tới. 8. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, hệ thống hóa thống kê, so sánh, quan sát… để tổng hợp đánh giá thực tiễn. 9. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 2 chương 5 tiết. 10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn Những luận điểm cơ bản: - Thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay là yêu cầu cấp thiết. - Thực hiện nghiêm túc TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT là một trong những yếu tố đưa Việt Nam tiến gần đến mục tiêu phát triển bền vững. Đóng góp mới của luận văn: - Về mặt lý luận: Đề tài góp phần bổ sung thêm lý luận về TNXH của DN và việc thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam. - Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các chủ thể quản lý DN nhận thức và tăng cường thực hiện TNXH của DN trong lĩnh vực BVMT nói riêng và phát triển DN Việt Nam nói chung vì mục tiêu phát triển bền vững. Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập các học phần đạo đức học, quản lý xã hội… 9 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của thị trường và thu về cho mình một khoản lợi nhuận nhất định. Tất cả các DN, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế thị trường dù là hình thức sở hữu nào thì đều có các mục tiêu hoạt động sản xuất khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn, các DN cũng theo đuổi những mục tiêu khác nhau, nhưng nhìn chung mọi DN trong cơ chế thị trường đều hướng đến mục tiêu lâu dài đó là tối đa hóa lợi nhuận. Để đạt được các mục tiêu đó, thì các DN phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn. Trong đó, việc thực hiện TNXH là một trong những chiến lược kinh doanh giúp cho DN không chỉ đạt lợi nhuận tối đa mà còn đứng vững trên thị trường, hướng đến sự phát triển bền vững lâu dài. 1.1. Cách tiếp cận triết học đối với vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Vấn đề TNXH của DN có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chúng ta có thể tiếp cận vấn đề TNXH của DN dưới góc độ kinh tế, pháp lý, môi trường hay dưới góc độ đạo đức xã hội. Việc nhìn nhận TNXH của DN dưới bất kỳ góc độ riêng lẻ nào cũng đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Trong bài luận văn của mình, tác giả nhìn nhận vấn đề TNXH của DN dưới góc độ triết học để có thể thấy bản chất và tính tất yếu của nó trong quá trình vận động, từ đó tìm ra hướng đi thích hợp cho vấn đề TNXH của DN hiện nay. 1.1.1. Hoạt động kinh doanh và tính tất yếu của vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội Xã hội loài người được phát triển mạnh mẽ cũng chính từ nhu cầu trao đổi, mua bán, kinh doanh. Theo Adam Smith, tác giả của cuốn sách “Của cải 10 của các dân tộc” (The Wealth of Nations) thì thông qua ký kết giao kèo, trao đổi, mua bán mà người này nhận được từ người kia phần lớn những sự giúp đỡ đôi bên cùng có lợi, và “cũng do sự buôn bán trao đổi như vậy mà con người mở đầu cho sự phân công lao động” [2, tr.65]. Phần lớn những thứ cần thiết của con người đều được cung cấp thông qua việc trao đổi, mua bán, ký kết giao kèo. “Nếu như không có thiên hướng buôn bán, trao đổi hàng hóa sản phẩm thì tất nhiên mỗi người chắc đã phải tự mình cung cấp cho chính mình mọi đồ dùng cần thiết cho đời sống” [2, tr.65]. Khi mà nhu cầu kinh doanh phát triển, con người đẩy mạnh các phát kiến vĩ đại của mình. Khoảng 4000 năm trước công nguyên, xuất phát từ nhu cầu vận chuyển hàng hóa mà người Ai Cập đã phát minh ra thuyền buồm đi lại trên sông. Văn minh Ai Cập dọc theo thung lũng sông Nile ra đời từ đó. Ai cập cũng chính là nền văn minh lớn thời cổ đại chứa đựng nhiều kho tàng tri thức và phát kiến quan trọng của nhân loại. Vùng Địa Trung Hải từ thời cổ đại cũng được biết đến là nơi giao thương nhộn nhịp với các quốc gia giàu có như Syria, Lenbanon và Israel. Người dân ở đây sản xuất dầu olive, rượu nho, vải rồi buôn bán với Ai cập, Crete, Cyprus, thậm chí với cả Tơroa (Troy) ở phía đông Thổ Nhĩ Kỳ. Họ thành lập ra thành phố Ugarit năm 4000 TCN, Byblos năm 3000 TCN. Thành phố này đã trở thành trung tâm buôn bán, thương mại quốc tế nhiều thế kỷ sau đó. Một số thị trấn nằm sâu trong đất liền cũng ăn theo chuyên về buôn bán được lập ra như Ebla (năm 3000 TCN). Tới năm 1500 TCN, miền đông của khu vực Địa Trung Hải gọi là Phonenicia, nơi giao các con đường buôn bán từ Thổ Nhĩ Kỳ, Crete tới Mesopotania thuộc Iraq đã trở thành vùng nổi tiếng về buôn bán thương mại, Người Phonenicia giàu có nhờ buôn bán. Họ bán các hàng tinh xảo tự chế tạo và nhập nguyên liệu thô: nô lệ, gỗ mun, v.v.. Các thương gia rất nhanh nhẹn và khôn ngoan. Thủy thủ Phonenicia thì tài giỏi, chính họ đã tìm cách xem sao Bắc Đẩu để đi biển và vẽ hải đồ [34, tr.331-333]. 11 Adam Smith cho rằng nguyên nhân chính tạo nên của cải của các dân tộc gồm hai yếu tố, đó là sự phân công lao động và hoạt động thị trường. Theo ông, một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự tăng trưởng kinh tế là nằm trong sự phát triển buôn bán không những giữa các nước mà cả giữa các tư nhân và giữa các nhóm thương nhân trong một nước. Xuất phát đầu tiên từ sự đổi chác thô sơ, việc buôn bán muốn được phát triển thì cần phải có thị trường và các hoạt động thị trường. Những hoạt động phức tạp của các lực lượng thị trường, cũng giống như sự phân công lao động xã hội mang lại lợi ích lớn cho xã hội và nâng cao mức sống. Ở đây, lợi ích không do một kế hoạch nào định đoạt mà người mua kẻ bán trên thị trường đều chịu sự tác động của lợi ích riêng của chính họ mà thôi, nhưng họ phục vụ lợi ích chung của xã hội mà không hề nghĩ gì về việc làm này cả. Theo cách phân tích của Adam Smith, thì “không phải vì lòng nhân từ, rộng lượng của người hàng thịt, người làm rượu bia hay người làm bánh mì mà chúng ta có một bữa ăn, mà vì sự quan tâm của họ tới lợi ích của riêng họ. Khi chúng ta nói chuyện với họ, không phải kêu gọi tình nhân loại của họ mà đánh vào lòng vị kỷ của họ…” [2, tr.65]. Lợi ích cá nhân chính là động lực để con người tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách mạnh mẽ. Các phát minh khoa học kỹ thuật cũng được con người ứng dụng để phát triển sản xuất với mục đích sâu xa là thu về ngày càng nhiều lợi nhuận. Điều đó cho thấy, sự phát triển của khoa học với việc sản xuất kinh doanh có mối quan hệ biện chứng với nhau. Khoa học phát triển nhằm thúc đẩy sản xuất và lợi nhuận từ việc sản xuất kinh doanh lại là động lực để thúc đẩy sự phát triển khoa học, thúc đẩy sự phát triển của nền văn minh vật chất của con người. Nói về điều này, Hêghen cũng đã khẳng định: “lợi ích thúc đẩy lịch sử các dân tộc và các cá nhân”. Xã hội ngày càng phát triển kéo theo nhu cầu kinh doanh và trao đổi hàng hóa ngày càng được đẩy mạnh. Sự đa dạng của các hoạt động kinh 12 doanh đã đặt ra các yêu cầu đối với sự phát triển của khoa học. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật từ cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra những nhà máy công nghiệp khổng lồ, những thương trường sôi động, chợ búa, cửa hàng, cửa hiệu,… đồng thời kéo theo sự tập trung dân cư tại những trung tâm công nghiệp, thương nghiệp. Hàng loạt những ngành công nghiệp mới ra đời tạo ra hàng triệu chủng loại những sản phẩm mới với khối lượng hàng triệu đơn vị sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Con người đã được hưởng thụ “những đống khổng lồ của cải” mà trước đó nó chưa hề biết đến. Cuộc sống của con người ở tất cả các lĩnh vực đều được cải thiện, các năng lực và khả năng của con người được gia tăng nhờ vào sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn, phương tiện giao thông,... Có thể thấy rằng kinh doanh chính là yếu tố rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế thịnh vượng, đời sống ấm no và đưa xã hội tới văn minh. Các quốc gia giàu có thịnh vượng và kinh tế hùng mạnh đều có hệ thống kinh doanh bền vững, cạnh tranh. Môi trường kinh doanh sôi động chính là biểu hiện của nền kinh tế năng động. Quá trình cạnh tranh trong kinh doanh cũng chính là nguồn sức ép để cải thiện dân trí nhằm có công việc hấp dẫn, doanh nghiệp tăng năng suất lao động, chỉnh đốn chiến lược và phương pháp kinh doanh, khoa học kỹ thuật phát triển phục vụ dân sinh, v.v.. Thực tiễn kinh doanh trong lịch sử đã cho thấy những cuộc cạnh tranh tàn khốc, các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau cũng chỉ vì những mục đích thương mại. Trong thời cận đại, các cuộc chiến tranh nhằm tranh giành quyền lợi kinh tế cũng đã diễn ra khốc liệt. Nhất là vào khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, thời học thuyết kinh tế trọng thương thịnh hành, các quốc gia phương Tây cũng làm đủ cách để tích trữ nhiều nhất vàng và các kim loại quý. Không đơn thuần là việc khai thác các sản vật từ những vùng thuộc địa liên tục được mở rộng, mà hoạt động chiến tranh và cướp phá cũng 13 được tiến hành để bảo vệ quyền thương mại và chiếm đoạt tài sản. Của cải trong giai đoạn trọng thương được thu thập và tích lũy một cách “kém văn minh”. Khoáng sản và cả nhân lực tại thuộc địa bị vơ vét. Các cường quốc tổ chức cướp phá lẫn nhau. Sự giành giật lợi ích không chỉ diễn ra ở cấp quốc gia mà ngay từ những cá nhân khi kinh doanh buôn bán cũng ít người chế ngự được bản năng hám lợi của mình. Một bộ phận không nhỏ đã dùng mọi thủ đoạn để trục lợi bất chính. Đó cũng là nguyên nhân vì sao trong các xã hội phương Đông truyền thống, người ta đã kỳ thị, lên án thậm chí là tẩy chay những người làm nghề buôn bán, kinh doanh bởi nhiều người trong số họ đã “buôn gian, bán lận” để trục lợi và như vậy là họ đã đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức và đạo lý của dân tộc. Động cơ mạnh mẽ nhất của con người trong hoạt động kinh doanh chính là kiếm được nhiều lợi, nhiều tiền. C.Mác đã dẫn lại lời của T.J. Dunning, khi đề cập đến bản chất hám lợi của nhà tư bản: “Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Được đảm bảo 10 phần trăm lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được; được 20 phần trăm lợi nhuận thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50 phần trăm thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần trăm thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ” [42, tr.23, tr.1056]. Không chỉ trong quá khứ mà ngày nay, ngay trong xã hội hiện đại, trên phạm vi toàn thế giới nói chung và đặc biệt là ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam nói riêng, vụ việc các cá nhân, các công ty, DN chỉ vì chạy theo lợi nhuận mà cạnh tranh không lành mạnh, dùng mọi thủ đoạn tiêu diệt, thôn tính, chèn ép lẫn nhau, làm ăn gian dối, làm hàng giả, hàng kém chất lượng, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, đầu cơ,... vẫn còn là những hiện tượng không phải là hiếm thấy.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan