Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp thực trạng về kế toán huy động vốn tại ngân hàng thương mại...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp thực trạng về kế toán huy động vốn tại ngân hàng thương mại

.DOC
58
252
83

Mô tả:

Chuyên đề tốt nghiệp 1 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THỰC TRẠNG VỀ KẾ TOÁN HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI -------------------------------------------------------CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM 1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM 1.1.1Khái niệm NHTM Ngân hàng được xem là một ngành dịch vụ có từ lâu dài trên thế giới, khi nền sản xuất phát triển chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá, đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế, theo đó hệ thống ngân hàng đã được hình thành. Hoạt động của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá một mặt phục vụ cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế, mặt khác cũng chính là do mục đích sinh lời của Ngân hàng cho nên ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện và phát triển. Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế, ngân hàng có thể được định nghĩa qua nhiều khái niệm khác nhau, tuỳ thuộc vào các chức năng, dịch vụ, vai trò mà chúng thực hiện qua nền kinh tế. Vấn đề được đặt ra là các yếu tố này ngày càng thay đổi và không ngừng hoàn thiện, hiện nay có rất nhiều các tổ chức tài chính như: các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, bưu điện….đều có khuynh hướng kinh doanh như một ngân hàng, từ đó có rất nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng. Xu hướng hiện nay người ta quan niệm về NHTM đó là Ngân hàng thường xuyên nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán. Dù được xem xét dưới nhiều định nghĩa khác nhau nhưng tựu chung lại có thể nói “NHTM là thuật ngữ chỉ các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh thoán và thực hiện nhiều chức năng chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào đó trong nền kinh tế”. 1.1.2 Vai trò của NTHM Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng, là bộ máy tuần hoàn của cả nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 2 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== cao nếu hệ thống ngân hàng mạnh. Như vậy đòi hỏi ngân hàng phải phát triển tương xứng và hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá tiền tệ hạch toán kinh doanh, tất cả mọi giao dịch kinh doanh của các tổ chức kinh tế đều thông qua thị trường: Lao động, công nghệ, hàng hoá, dịch vụ và thị trường tiền tệ tài chính. Vốn tiền tệ là sự khởi đầu của mọi loại hình doanh nghiệp đồng thời là kết quả sản xuât kinh doanh , vì vậy NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nó được ví như huyết mạch của nền kinh tế. NHTM Việt Nam đã huy động nguồn vốn đáng kể cả nội tệ và ngoại tệ, tăng trưởng đầu tư cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Với vai trò là trung tâm thanh toán của nền kinh tế, NHTM Việt Nam góp phần quan trọng đẩy nhanh tốc độ chu chuyển thanh toán, chu chuyển vốn. Nền kinh tế càng phát triển, chu chuyển thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng tăng thì vai trò của NHTM trong thanh toán ngày càng mạnh hơn, với việc áp dụng công nghệ kỹ thuật, tốc độ thanh toán qua ngân hàng đã tăng nhanh. Hiện NHTM đang từng bước mở rộng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại phục vụ nhu cầu của nền kinh tế, đời sống như nghiệp vụ dịch vụ tại nhà, internetbanking, hệ thống thanh toán thẻ, ATM…Và NHTM Việt Nam đã thiết lập được mạng lưới chi nhánh lan rộng khắp các tỉnh thành trên cả nước cùng với đội ngũ cán bộ ngân hàng đông đảo và chuyên nghiệp. Chính vì vậy NHTM có vai trò hết sức to lớn, đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đối với tiết kiệm của dân cư, đối với tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Để mở rộng và củng cố vị thế trên thị trường, đảm bảo an toàn và nâng cao khả năng sinh lời, hiệu quả kinh doanh của các NHTM phải không ngừng đổi mới, hiện đại hoá, tiến bộ khoa học và thực tiễn hoạt động kinh doanh của mình. 1.1.3 Chức năng của NHTM trong nền kinh tế thị trường 1.1.3.1 Ngân hàng là loại hình trung gian tài chính làm nhiệm vụ thu hút tiền gửi và tiết kiệm trong nền kinh tế Trong nền kinh tế hiện đại có nhiều loại định chế tài chính khác nhau ra đời. Song chức năng thu hút tiền gửi và đặc biệt là thu hút tiền gửi không kỳ hạn luôn là chức năng đặc trưng của các ngân hàng. Trong hầu hết hệ thống tài chính dường như chỉ có các ngân hàng mới được thực hiện việc mở các tài khoản tiền ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 3 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== gửi không kỳ hạn và thực hiện các dịch vụ thanh toán bằng tiền gửi cho khách hàng. Các cá nhân có các khoản tiền giành giụm mà chưa sử dụng, các doanh nghiệp có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi có thể gửi vào ngân hàng dưới hình thức mở các tài khoản như: tiền gửi thanh toán, tài khoản tiết kiệm…Mục đích gửi tiền có thể là khác nhau nhưng tựu chung lại là để an toàn và hưởng lãi suất đối với các khoản tiền gửi, hay hưởng một số dịch vụ khác… 1.1.3.2 NHTM cấp tín dụng cho các tác nhân trong nền kinh tế Có thể nói tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng truyền thống và là chức năng quan trọng nhất của các ngân hàng hiện đại ngày nay. Nhờ thế mạnh huy động được một lượng vốn nhàn rỗi khổng lồ từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế qua việc nhận tiền gửi hay tiền vay, các ngân hàng sử dụng số tiền ấy để cho vay các cá nhân, các tổ chức kinh tế cần vốn để đầu tư các nhu cầu như: mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm tài sản cố định, đầu tư nhu cầu vốn lưu động, nhu cầu tiêu dùng…và đa dạng các nhu cầu khác. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng ngày càng phát triển muôn hình muôn vẻ: tín dụng thấu chi, tín dụng trung dài hạn, tín dụng chiết khấu, tín dụng thuê mua…Vốn tín dụng của các ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất trong ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại…góp phần đẩy mạnh đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống dân cư. 1.1.3.3 NHTM cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng Chức năng này xuất phát từ chính chức năng đầu tiên của ngân hàng là nhận tiền gửi. Các cá nhân, tổ chức kinh tế trên cơ sở mở các tài khoản tiền gửi thanh toán hay các tài khoản tiền gửi phục vụ giao dịch khi có nhu cầu thanh toán có thể uỷ quyền cho Ngân hàng thực hiện thay mình… Theo quan điểm luật pháp ở hầu hết các nước thì chỉ có các ngân hàng mới được phép mở tài khoản thanh toán hay các tài khoản giao dịch cho khách hàng mà không một định chế nào được phép làm điều này. 1.1.3.4 Chức năng tạo tiền của NHTM Thông qua chức năng về tín dụng và chức năng thanh toán giúp cho các NHTM có khả năng tạo tiền. Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào NHTM, thông qua quá trình cho vay bằng chuyển khoản trong một hệ thống NHTM, số tiền gửi ban đầu có thể được nhân lên gấp nhiều lần so với số tiền ban đầu. Điều này chỉ ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 4 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== có thể thực hiện ở một hệ thống ngân hàng chứ không thực hiện được ở một ngân hàng. Số lượng tiền được nhân lên bao nhiêu lần là phụ thuộc vào số nhân tiền, mà số nhân tiền lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ rút tiền mặt của khách hàng, tỷ lệ dự trữ dư thừa… Hệ số mở rộng tiền tệ của NHTM được thể hiện như sau: H 1 R Trong đó: H: hệ số tạo tiền; r: tỷ lệ dự trữ bắt buộc Như vậy việc mở rộng tiền của NHTM phải được thực hiện trên cơ sở sự kết hợp giữa nghiệp vụ cho vay và thanh toán không dùng tiền mặt. Từ đây đòi hỏi các ngân hàng luôn phải cố gắng làm tốt công việc hiện đại hoá hệ thông thanh toán và giúp khách hàng có thói quen sử dụng dịch vụ này một cách thường xuyên hơn. Chức năng tạo tiền của NHTM có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng, việc số tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên nhiều lần sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện các khoản cho vay trên tài khoản của khách hàng. Việc tăng doanh số cho vay này sẽ giúp cho ngân hàng tăng doanh thu một cách đáng kể, tăng hiệu quả của công việc sử dụng đồng vốn của Ngân hàng. Mỗi chức năng tạo ra cho NHTM một ưu thế nhất định trong hoạt động kinh doanh của nó, tuy nhiên như ta đã biết hoạt động của ngân hàng luôn đi kèm với những rủi ro cho nên song song với việc thực hiện các chức năng đó NHTM luôn phải tìm cách để hạn chế những nhược điểm của nó để thu lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho Ngân hàng mình. 1.1.4 Những đặc thù hoạt động kinh doanh của NHTM 1.1.4.1 Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hàm chứa nhiều rủi ro Là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, hoạt động của các NHTM hàm chứa nhiều rủi ro, cụ thể là: - Rủi ro tín dụng: rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp Ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi cho khoản vay hoặc là việc thanh toán gốc và lãi không đúng hạn. Trong thực tế, việc khách hàng không trả được nợ có thể xảy ra bất cứ lúc nào và với bất cứ ai vì rất nhiều nguyên nhân ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 5 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== khác nhau. Do vậy, rủi ro tín dụng là một rủi ro cố hữu mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đối mặt - Rủi ro lãi suất: rủi ro lãi suất là khoản lỗ tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi lãi suất thị trường có sự biến động. Nguyên nhân của rủi ro lãi suất là ngân hàng không có sự cân xứng giữa kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ hay sự mất cân xứng giữa khối lượng tài sản có nhạy cảm với lãi suất và tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất. Có hai loại rủi ro lãi suất là rủi ro tái tài trợ tài sản nợ và tái đầu tư tài sản có. - Rủi ro thanh khoản: rủi ro thanh khoản là nguy cơ mất khả năng chi trả của ngân hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền. Đối với các tổ chức tài chính nói chung, các NHTM nói tiêng thì có rủi ro thanh khoản là xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn cả. Bởi rủi ro thanh khoản có tính chất lan truyền, nếu người gửi tiền nhận thấy ngân hàng gặp rắc rối về thanh khoản thì sẽ đồng loạt rút tiền ra khỏi ngân hàng. - Rủi ro ngoại hối: rủi ro ngoại hối là khoản lỗ tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi duy trì các tài sản nợ và tài sản có bằng ngoại tệ ở trạng thái trường hay đoản về loại ngoại tệ mà ngân hàng nắm giữ. - Rủi ro hoạt động ngoại bảng: rủi ro hoạt động ngoại bảng là các loại hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Xuất phát từ tính chất hoạt động này là các Ngân hàng thu được phí trong khi không phải sử dụng ngay đến vốn kinh doanh nên đã khuyến khích các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, điều này có thể đưa đến rủi ro cho ngân hàng khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình. - Rủi ro công nghệ và hoạt động: rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo được khoản tiết kiệm trong chi phí đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ lúc nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ công nghệ bên trong ngừng hoạt động. 1.1.4.2 Ngân hàng lấy đối tượng kinh doanh chính là tiền tệ Có thể nói, ngân hàng đã kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ với đặc tính xã hội hoá cao, tính cảm ứng và tính nhạy cảm với mọi thay đổi trong nền kinh tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản phân biệt lĩnh vực ngân hàng với các lĩnh vực kinh doanh khác.Giá cả trong kinh doanh ngân hàng chính là lãi ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 6 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== suất. Sự vận động lên hoặc xuống của lãi suất bao hàm, ảnh hưởng đến rất nhiều mối quan hệ kinh tế - xã hội khác nhau. Sự biến động của lãi suất có tác dụng điều tiết cân bằng thị trường và tín hiệu thông báo, hướng dẫn và người tiêu dùng trong các hành vi kinh tế của họ. Lãi suất cũng là một trong các yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng hiệu quả nhất. Do vậy, tất cả các NHTM trong thực tiễn hoạt động hàng ngày đều xây dựng cho mình biểu lãi suất hợp lý để tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường. 1.1.4.3 Nguồn vốn chủ yếu để các NHTM hoạt động kinh doanh chính là nguồn vốn huy động Vốn huy động là nguồn vốn dài hạn và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Đặc điểm của nguồn vốn này là ngân hàng không có quyền sở hữu và đáp ứng những điều kiện đã thoả thuận với khách hàng mà ngân hàng được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định để cho vay hoặc đầu tư vào lĩnh vực khác. 1.1.4.4 Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh mang tính hệ thống cao và phải chịu sự quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước Tình hình phát hành, lưu thông và giá trị của tiền tệ có ảnh hưởng sâu rộng đến tổng thể nền kinh tế, hơn nữa đặc điểm của loại hình kinh doanh ngân hàng mang tính lan truyền, tính hệ thống cao hơn hẳn những lĩnh vực kinh doanh khác.Do đó, một mặt đòi hỏi phải có sự quản lý nghiêm ngặt của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và người đầu tư. Mặt khác, để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như để có thể tạo ra các dịch vụ toàn diện cho ngân hàng, luôn đòi hỏi phải duy trì tính ràng buộc về mặt kỹ thuật và về mặt tổ chức, có thể cho các ngân hàng tự thiết lập hay do các yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước. Tính hệ thống không chỉ đơn thuần là do yêu cầu có sự thống nhất về kỹ thuật nghiệp vụ trên phạm vi ngày càng rộng mà nó còn được bổ sung bởi nhu cầu phải hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngân hàng về thanh khoản vốn khả dụng, về chia sẻ rủi ro để đảm bảo sự an toàn của cả hệ thống và nền kinh tế. 1.2 VỐN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HUY ĐỘNG VỐN 1.2.1 Vốn của NHTM 1.2.1.1Vốn tự có (VTC) ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 7 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== VTC của NHTM là toàn bộ những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng hoặc được quyền sử dụng như vốn chủ sở hữu hay những khoản vốn được duy trì lâu dài và thường xuyên tại các ngân hàng mà ngân hàng được phép sử dụng để bù đắp trong quá trình hoạt động. VTC là những khoản vốn chỉ được phép hoàn trả cho chủ sở hữu sau khi ngân hàng hoàn thành nghĩa vụ đối với chủ nợ có bảo lãnh trong trường hợp bị thanh lý hay bị phá sản. VTC của ngân hàng thường không giống nhau hoàn toàn đối với các loại hình có tư cách pháp lý và hình thức sở hữu khác nhau. Các ngân hàng được tổ chức dưới hình thức công ty khác với ngân hàng tư nhân, quốc doanh… nhưng dù có được tổ chức khác nhau thì hầu hết các ngân hàng, nhất là các NHTM chia VTC thành hai bộ phận chính đó là: VTC cơ bản hay còn gọi là vốn pháp định - vốn điều lệ và VTC bổ sung. VTC cơ bản là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hang do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định (vốn cơ bản), vốn điều lệ là vốn do cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. VTC cơ bản là phần vốn tự có thực có trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng để đảm bảo ngân hàng hoạt động một cách bình thường, có đầy đủ đặc điểm như nêu ở trên, thường không có thời điểm đáo hạn. VTC bổ sung là phần vốn thực có tăng thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. VTC bổ sung bao gồm: + Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số VTC ban đầu + Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. + Ngoài các quỹ trên, VTC bổ sung còn bao gồm: Phần lợi nhuận để lại chưa phân bổ hoặc các quỹ đặc biệt như quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố định… 1.2.1.2 Vốn huy động Vốn huy động (VHĐ) là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Bản chất của VHĐ là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Nguồn vốn này không thuộc quyền sở hữu của ngân hàng nhưng ngân hàng được quyền sử dụng ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 8 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== trong thời gian huy động và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn. VHĐ đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là nguồn gốc kinh doanh của ngân hàng. Song nguồn vốn này rất dễ bị biến động nên ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn này vào kinh doanh mà phải tuân thủ các qui định về dự trữ bắt buộc để đảm bảo khả năng thanh toán. Nghiệp vụ huy động vốn của những ngân hàng tiêng lẻ nói chung là tương tự nhau trên toàn thế giới. Nhưng môi trường hoạt động của các NHTM ở các nước khác nhau là khác biệt. Với điều kiện về kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, các NHTM đã đưa ra các hình thức huy động vốn sau đây: a) Tiền gửi của tổ chức kinh tế và cá nhân Tiền gửi ngân hàng bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn  Tiền gửi không kỳ hạn:là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm các loại sau: - Tiền gửi thanh toán: đó là khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí khác. Loại tiền gửi này được hưởng lãi suất thấp hoặc không được hưởng lãi, vì khách hàng có thể rút vốn ra bất kỳ lúc nào phục vụ cho việc chi trả qua các hình thức như Séc, Uỷ nhiệm chi… chính vì vậy đây là nguồn vốn có tính chất ổn định thấp, ngân hàng không chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này, chi phí quản lý tài khoản, chi phí nghiệp vụ ngân quỹ phục vụ cho việc thu chi cao. Tuy nhiên, đối với ngân hàng thì đây lại là nguồn vốn có chi phí huy động (tính bằng lãi suất) thấp. Càng huy động được nhiều khách hàng mở tài khoản tiền gửi loại này thì tổng số dư tiền gửi tại ngân hàng cao, dịch vụ ngân hàng phát triển và nguồn vốn (tính theo kết số dư) lại là ổn định. - Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: là khoản tiền được ký gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Cũng giống như trên, ngân hàng phải thoả mãn nhu cầu rút tiền của khách hàng và chỉ được phép sử dụng tài khoản khi đã đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả.  Tiền gửi có kỳ hạn: đây là khoản tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa ngân hàng và khách hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận tiền gửi này có nguồn gốc tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Về cơ bản ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 9 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được sử dụng để thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Về nguyên tắc thì ngân hàng không cho phép khách hàng rút tiền khi chưa đến hạn, song trên thực tế để thu hút vống thì các ngân hàng thường cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn khi họ có nhu cầu, nhưng trong trường hợp này họ chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn với mức lãi suất thấp hơn. b)Tiền gửi tiết kiệm Đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng để tiêu dùng, họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền an toàn và được hưởng một khoản lãi số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm hai hình thức: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là khoản tiền gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào, song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Điểm khác biệt cơ bản giữa tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi kỳ hạn là khi gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì khách hàng được ngân hàng trao cho một quyển sổ tiết kiệm để theo dõi còn đối với tiền gửi thanh toán thì số tiền của khách hàng được theo dõi trên tài khoản qua các giấy báo nợ, báo có của ngân hàng. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền có sự thoả thuận trước về thời gian gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. c) Vốn vay NHNN, vay các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước Trong quá trình hoạt động kinh doanh, NHTM có thể vay NHNN theo nhiều hình thức: vay thông thường; vay chiết khấu; vay cầm cố; vay thanh toán bù trừ; vay hỗ trợ đặc biệt; vay kỳ hạn…Vay NHNN là một cách tốt nhất để bổ sung dự trữ thanh toán. Mỗi hình thức tín dụng nêu trên mang một mức lãi suất khác nhau, trong đó lãi suất áp dụng với tín dụng dài hạn mở rộng nói chung cao hơn cả; vay thanh toán bù trừ và vay qua cửa sổ chiết khấu mang tính chất giúp đỡ đối với NHTM đang có yêu cầu tạm thời về vốn. NHTM cũng có thể vay thương mại các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước với chi phí có thể chấp nhận được để thoả mãn các nhu cầu tín dụn của khách hàng mình hoặc thực hiện các dự án đầu tư mà ngân hàng muốn. Đồng thời đơn vị ngân hàng có thể vay các tổ chức tín dụng trong nước trên thị trường liên ngân hàng qua đêm hoặc vài ngày để tài trợ cho nhu cầu vốn tạm thời. d) Phát hành các giấy tờ có giá Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, đi vay, các NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và phát hành các giấy tờ có giá khác ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 10 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== điển hình là việc phát hành Euro Dollar. Thực chất là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng cách phát hành chứng từ có giá. Trong đó chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá qui định, trái phiếu là giấy nợ trung và dài hạn. Phương thức phát hành Euro Dollar là hình thức phát hành phiếu nợ để thu hút vốn ở nước ngoài, nó có đặc điểm là chỉ huy động vốn bằng đô la và khi trả lãi, vốn gốc cũng bằng đô la. Đối với loại này ngân hàng sử dụng để thu hút vốn ngắn hạn (3 tháng). Ở các trung tâm tài chính, loại phiếu nợ này có được chấp nhận như là đô la. Quyền phát hành ở một số nước trong đó có Việt Nam được giới hạn ở một số ngân hàng đặc biệt như ngân hàng ngoại thương, ngân hàng xuất nhập khẩu… Các ngân hàng trên được phép phát hành phiếu nợ này ở trong nước và nước ngoài, còn các ngân hàng khác thì chỉ được phát hành ở nước ngoài. Tuy nhiên đây là loại hình huy động vốn lãi suất cao, vì vậy nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Khi ngân hàng phát hành trái phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác, có thể xảy ra 3 trường hợp: - Phát hành trái phiếu ngang giá (phát hành bằng mệnh giá): Là phát hành trái phiếu với giá đúng bằng mệnh giá của trái phiếu. Trường hợp này thường xảy ra khi lãi suất thị trường bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu phát hành. - Phát hành trái phiếu có chiết khấu: Là phát hành trái phiếu với giá trị nhỏ hơn mệnh giá của trái phiếu. Phần chênh lệch giữa giá phát hành trái phiếu nhỏ hơn mệnh giá của trái phiếu được gọi là chiết khấu trái phiếu. Trường hợp này thường xảy ra khi lãi suất thị trường lớn hơn lãi suất danh nghĩa. - Phát hành trái phiếu có phụ trội: Là phát hành trái phiếu với giá lớn hơn mệnh giá của trái phiếu. Phần chênh lệch giữa giá phát hành trái phiếu lớn hơn mệnh giá của trái phiếu được gọi là phụ trội trái phiếu. Trường hợp này thường xảy ra khi lãi suất thị trường nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa. Giá trị chiết khấu và giá trị phụ trội của giấy từ có giá được phân bổ dần vào chi trả lãi huy động từ phát hành giấy tờ có giá từng kỳ kế toán trong suốt thời hạn của trái phiếu. Như vậy, VHĐ là công cụ chính đối với các hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguồn vốn này thì không những nguồn lợi ngân hàng được tăng lên mà còn tạo cho ngân hàng uy ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 11 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== tín ngày càng cao. Qua đó ngân hàng có thể mở rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh. 1.2.2 Vai trò của nguồn vốn huy động với hoạt động kinh doanh của ngân hàng Với bất kỳ một đơn vị kinh doanh nào thì để hoạt động kinh doanh được cũng cần phải có vốn vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ” với đặc thù hoạt động là “đi vay để cho vay”. Cho nên nguồn vốn đối với ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng, vốn thực hiện một số chức năng không thể thay thế trong hoạt động của ngân hàng, trong đó nguồn vốn mà ngân hàng đi huy động chiếm phần lớn trong nguồn vốn kinh doanh. Nguồn vốn ngân hàng huy động nhiều hay ít quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng và đây là mảng kinh doanh chủ yếu mang lại lợi ích cho ngân hàng. Vốn như một tấm đệm giúp ngân hàng chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ. Nguồn vốn huy động của ngân hàng lớn sẽ tạo ra uy tín lớn cho ngân hàng, tạo niềm tin cho công chúng và đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng, giúp ngân hàng có thể mở rộng các hình thức kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nếu nguồn vốn huy động của ngân hàng càng lớn sẽ chứng minh rằng quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của ngân hàng hiện đại. Khả năng huy động vốn tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khôi lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cấp tín dụng… Nguồn vốn huy động có vai trò rất quan trọng, nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn và nó quyết định đến tất cả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính vì thế các NHTM cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để đạt được hiệu quả huy động cao nhất. Như vậy, công tác huy động vốn cũng có ý nghĩa quan trọng, nó không những giúp mở rộng được công tác cho vay, tăng cường vốn cho nền kinh tế mà còn mang đến cho ngân hàng nhiều lợi nhuân. Do đó các ngân hàng cần phát huy công tác huy động vốn. 1.3 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN HUY ĐỘNG VỐN ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 12 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== 1.3.1 Vai trò, nhiệm vụ của kế toán huy động vốn Với bản chất, chức năng của mình thì ở bất cứ nền sản xuất nào kế toán cũng là công cụ quan trọng để ghi chép, phản ánh, đo lường thông tin và kiểm tra. Vai trò của kế toán không chỉ phát huy đối với doanh nghiệp mà nó còn phát huy vai trò to lớn trong nền kinh tế. Là bộ phận cấu thành trong hệ thống kế toán của nền kinh tế quốc dân, kế toán ngân hàng cũng phát huy đầy đủ vai trò của kế toán nói chung. Trong đó kế toán nghiệp vụ huy động vốn đóng vai trò hết sức quan trọng. Trước hết kế toán nghiệp vụ huy động vốn phản ánh được chính xác loại vốn huy động, tổng hợp số liệu nhằm cung cấp thông tin cho nhà quản lí ngân hàng. Với thông tin này sẽ là cơ sở để xác định lãi suất đầu vào bình quân và đưa ra được mức lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Ngày nay, các nhà quản trị ngân hàng không chỉ quan tâm đến quản trị tài sản có mà còn quan tâm đến tài sản nợ. Chính vì thế, kế toán nghiệp vụ huy động vốn sẽ giúp cho các nhà quản trị đưa ra được những giải pháp phù hợp với mỗi loại vốn, nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn ngân hàng. Kế toán nghiệp vụ huy động vốn ghi chép, tính toán, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời nguồn vốn của ngân hàng ở từng thời điểm. Mặt khác, kết hợp với công tác kế toán ở nghiệp vụ khác sẽ cho thấy sự vận động của lượng tiền ngân hàng huy động được. Điều này giúp cho nàh lãnh đạo ngân hàng quản lý chặt chẽ tài sản của mình, thiếu hụt về số lượng và nâng cao hiệu quả trong quá tình sử dụng tài sản. Một yếu tố đang là vấn đề hàng được quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị ngân hàng đó là chi phí. Trong khi đó chi phí trong hoạt động huy động vốn là một bộ phận chi phí chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí của ngân hàng. Công tác kế toán huy động vốn phản ánh được một cách chính xác chi phí huy động vốn cho dù ngân hàng đã trả hay mới chỉ hach toán vào các khoản dự trả. Với thông tin về chi phí này giúp quản lý chặt chẽ hoạt động tài chính, tiết kiệm chi phí để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đảm bảo cho sự tồn tại của ngân hàng. Những thông tin về kế toán của hoạt động huy động vốn không chỉ cung cấp cho các nhà quản trị ngân hàng mà nó còn cung cấp cho các loại hạch toán và công tác khác như: thanh tra, kiểm soát, kiểm toán…Thông tin về nguồn vốn huy động được của ngân hàng do bộ phận kế toán cung cấp còn là nhân tố có vai trò ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 13 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== quan trọng trong công tác huy động vốn của ngân hàng vì nó tạo cho người gửi tiền sự tin tưởng, tạo hình ảnh về qui mô hoạt động của ngân hàng. 1.3.2Khái quát kĩ thuật kế toán huy động vốn tại NHTM 1.3.2.1 Tài khoản sử dụng  Các tài khoản tiền gửi, tiền vay  40 Các khoản nợ chính phủ và ngân hàng nhà nước  41 Các khoản nợ các tổ chức tín dụng khác  42 Tiền gửi của khách hàng 421/422 Tiền gửi của khách hàng trong nước bằng đồng Việt Nam/ngoại tệ. 4211/4221 Tiền gửi không kỳ hạn 4212/4222 Tiền gửi có kỳ hạn 4214/4224 Tiền gửi vốn chuyên dùng 423/424 Tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam/ngoại tệ 4231/4241 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn 4232/4242 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 4238/4248 Tiền gửi tiết kiệm khác 425/426 Tiền gửi của khách hàng nước ngoài bằng đồng Việt Nam/ngoại tệ  Tài khoản 43 Tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá  431/434 Mệnh giá giấy tờ có giá bằng đồng Việt Nam/bằng ngoại tệ 432/435 Chiết khấu giấy tờ có giá bằng đồng Việt Nam/bằng ngoại tệ 433/436 Phụ trội giấy tờ có giá bằng đồng Việt Nam/bằng ngoại tệ Tài khoản 49 Lãi và phí phải trả  491: lãi phải trả cho tiền gửi 492: lãi phải trả về phát hành giấy tờ có giá 493: lãi phải trả cho tiền vay Tài khoản 388 Chi phí chờ phân bổ  Tài khoản 80 Chi phí hoạt động tín dụng 801: trả lãi tiền gửi 802: trả lãi tiền vay 803: trả lãi phát hành giấy tờ có giá ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 14 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== 809: chi phí khác 1.3.2.2 Chứng từ sử dụng Nhóm chứng từ sử dụng trong nghiệp vụ huy động vốn khá phong phú, bao gồm: - Chứng từ tiền mặt: giấy nộp tiền, giấy lĩnh tiền, séc tiền mặt. - Chứng từ thanh toán không dung tiền mặt: séc chuyển khoản, séc bảo chi, uỷ nhiệm chi. - Các loại sổ tiết kiệm - Các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… Các chứng từ này có liên quan đến việc nộp và lĩnh tiền từ tài khoản khách hàng nên phải đảm bảo tính pháp lí cao, không sử dụng lẫn lộn các loại chứng từ. Một số loại phải bảo quản theo chế độ bảo quản chứng từ có giá như các loại séc, các loại thẻ, phiếu tiết kiệm. 1.3.3Tóm tắt qui trình kế toán nghiệp vụ huy động vốn 1.3.3.1 Kế toán tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, cá nhân - Kế toán khi khách hàng gửi tiền Nợ TK thích hợp (1011, TG của người trả, TTBT, CT đến…) Có TK 4211/KH - Kế toán khi trả tiền cho khách hàng Nợ TK 4211/KH Có TK thích hợp (1011, TK người thụ hưởng, 1113, TTBT, CT đi…) - Tính và trả lãi tiền gửi không kỳ hạn Ngoại trừ những trường hợp ngân hàng áp dụng công nghệ tính lãi cộng dồn hàng ngày, thông thường lãi tiền gửi thanh toán được ngân hàng tính và trả hàng tháng theo phương pháp tích số, được nhập lãi vào gốc. Việc tính lãi thường được thực hiện vào một ngày nhất định ở giai đoạn cuối tháng cho tất cả các khách hàng. Số lãi phải trả trong tháng = Tổng tích số dư TKTG trong tháng X Lãi suất ngày Hạch toán: Nợ TK Chi trả lãi TG (801) Có TK Tiền gửi thanh toán/KH (4211) - Tất toán và đóng tài khoản ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 15 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== Việc tất toán tài khoản khi khách hàng có yêu cầu trong trường hợp giải thể, sáp nhập, chia tách; hoặc nếu tài khoản hết số dư và trong 6 tháng không có nghiệp vụ nào phát sinh thì ngân hàng sẽ tất toán tài khoản của khách hàng. Khi tất toán tài khoản, kế toán phải kiểm tra đối chiếu khớp đúng số liệu với khách hàng, chuyển số dư còn lại vào tài khoản khác theo yêu cầu của khách hàng và thu hồi số séc khách hàng chưa sử dụng, chuyển hồ sơ tài khoản của khách hàng sang tập hồ sơ lưu trữ (những tài khoản đã tất toán). 1.3.3.2 Kế toán tiền gửi tiết kiệm a) Kế toán tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn Khi gửi tiền: Nợ TK 1011 hoặc TK thích hợp Có TK 4231/KH Khi rút tiền: Nợ TK 4231/KH Có TK 1011 Khoá sổ, tất toán TK tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn Trường hợp khách hàng rút hết tiền trong sổ, tức là xin tất toán sổ, kế toán phải thu lại sổ và lưu cả sổ cùng phiếu lưu đã tất toán vào nơi lưu trữ hồ sơ gốc. Khi khách hàng muốn giao dịch lại, phải lập sổ và phiếu lưu mới Tính lãi tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn Cách tính lãi tương tự như tiền gửi không kỳ hạn, tức là cũng tính theo phương pháp tích số và lãi được nhập vào gốc hàng tháng. Tuy nhiên, tính lãi tiền gửi tiết kiệm và hạch toán lãi có thể thực hiện theo 2 thời điểm: được thực hiện theo đúng ngày khách hàng gửi tiền vào của các tháng sau đó (tính tròn tháng), hoặc thực hiện đồng loạt vào ngày gần cuối tháng. Hạch toán: Nợ TK 801 Có TK 1011 hoặc TK 4231/KH b)Kế toán tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn trả lãi sau - Khi gửi tiền: Nợ TK 1011 Có TK 4232/KH Kế toán tính lãi tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn + Lãi định kỳ hàng tháng không được nhập vào vốn gốc của khách hàng vì trong tỷ lệ lãi suất hàng tháng đã tính đến phần luỹ tiến cho toàn thể một hạn kỳ. Việc ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 16 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== nhập vốn sẽ làm tăng số dư và tăng tiền lãi của tháng kế tiếp và làm sai mức lãi suất qui định cho kỳ hạn. + Đối với cả 2 loại: lĩnh lãi hàng tháng, theo định kỳ và lĩnh lãi khi đáo hạn thì việc tính lãi vẫn được thực hiện hàng tháng và được hạch toán vào tài khoản lãi phải trả vì: về mặt tài chính, đúng 1 tháng phải có phát sinh tiền lãi phải trả cho số tiền huy động, đó là chi phí trả lãi hàng tháng, do vậy cần phải được phân bổ hàng tháng nhằm xác định đúng hiệu quả kinh doanh tháng, tránh tình trạng lãi trước lỗ sau. Lãi dự trả tháng = Số tiền gửi X Lãi suất tháng Hàng tháng kế toán tính lãi và hạch toán vào tài khoản "lãi phải trả cho tiền gửi"-491 Nợ TK 801 Có TK lãi phải trả cho tiền gửi-491 Hết kỳ hạn + Nếu khách hàng không đến lĩnh lãi, kế toán tự động nhập lãi vào gốc cho khách hàng và ghi cụ thể vào phiếu lưu để theo dõi lãi kỳ tiếp theo.Hạch toán: Nợ TK lãi phải trả cho tiền gửi-491 Có TK 4232/KH + Nếu khách hàng đến lĩnh lãi và gốc vào cuối kỳ hạn, về nguyên tăc sẽ làm thủ tục tất toán sổ luôn cho khách hàng. Trường hợp khách hàng đến rút tiền trước hạn: + Thoái chi tiền lãi cộng dồn dự trả theo lãi suất có kỳ hạn cho thời gian gửi thực tế (số tiền đã trích vào tài khoản này) + Tính trả lãi theo mức lãi suất hợp lý cho thời gian gửi thực tế c)Kế toán tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn loại lãi trả trước: - Khi gửi tiền: Ngân hàng thực hiện tính và trả luôn lãi của cả kỳ hạn cho khách hàng, tuy nhiên số lãi đó phải được ghi nhận vào TK388- Chí phí chờ phân bổ dần theo định kỳ kế toán: Nợ TK 1011, thích hợp Nợ TK 388 Có TK 4232/KH -Hàng tháng: thực hiện phân bổ lãi trả trước vào chi phí Nợ TK 801 Có TK 388 ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 17 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== - Đáo hạn: ngân hàng trả cho khách hàng số tiền đúng bằng số gốc danh nghĩa mà khách hàng gửi Nợ TK 4232/KH Có TK 1011, thích hợp - Trường hợp khách hàng đến rút tiền trước hạn: + Thoái chi tiền lãi trả trước đã phân bổ vào chi phí theo lãi suất có kỳ hạn cho thời gian gửi thực tế + Tính trả lãi theo mức lãi suất hợp lý cho thời gian gửi thực tế trên số tiền gửi thực tế 1.3.3.3 Kế toán nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá a) Kế toán nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá theo phương thức trả lãi sau - Khi phát hành: Tuỳ từng trường hợp để hạch toán vào TK thích hợp +Nếu phát hành ngang giá: Số tiền thực tế thu về = Mệnh giá phát hành +Nếu phát hành có phụ trội: Số tiền thực tế thu về = Mệnh giá phát hành + giá trị phụ trội + Nếu phát hành có chiết khấu: Số tiền thực tế thu về = Mệnh giá phát hành – giá trị chiết khấu - Tính và phân bổ chi phí lãi hàng tháng Hàng tháng, kế toán cũng phải tính lãi tháng để treo vào tiền lãi cộng dồn dự trả và phân bổ chi phí lãi tháng theo đúng chế độ. Đồng thời nếu có phụ trội hoặc chiết khấu, kế toán cũng phải tiến hành phân bổ chi phí lãi hàng tháng. - Kế toán thanh toán gốc và lãi khi đến hạn cho khách hàng Khi giấy tờ có giá khi đến hạn, khách hàng sẽ nhận được mệnh giá và số lãi theo mệnh giá (kể cả trường hợp phát hành có chiết khấu hay có phụ trội). Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng là nhận tiền gốc và lãi tính theo hình thức gì: tiền mặt, hay chuyển khoản vào TKTG, kế toán làm thủ tục nhận lại giấy tờ có giá đã phát hành. b)Kế toán phát hành giấy tờ có giá theo phương thức trả lãi trước Với trường hợp trả lãi trước, ngân hàng thực hiện tính lãi được hưởng ngay cho khách hàng và khấu trừ vào mệnh giá, tức là khách hàng chỉ phải trả số tiền bằng mệnh giá trừ tiền lãi. Tiền lãi được treo vào tài khoản Chi phí chờ phân bổ-388 - Khi phát hành + Trường hợp phát hành ngang giá: Số tiền thực tế thu về = Mệnh giá phát hành – Lãi trả trước ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 18 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== + Phát hành có phụ trội: Số tiền thực tế thu về = Mệnh giá phát hành + giá trị phụ trội – Lãi trả trước + Phát hành có chiết khấu: Số tiền thực tế thu về = Mệnh giá phát hành – giá trị chiết khấu – Lãi trả trước - Tính và phân bổ chi phí lãi hàng tháng Hàng kỳ kế toán thực hiện tính lãi trên mệnh giá, và phân bổ dần chi phí trả lãi mỗi kỳ từ TK 388-Chi phí chờ phân bổ vào TK 803-Chi phí trả lãi phát hành giấy tờ có giá. Nếu phát hành không ngang giá (có phụ trội hoặc chiết khấu), số tiền phụ trội hoặc chiết khấu cũng được phân bổ để giảm hoặc tăng chi phí trả lãi trong kỳ. - Kế toán thanh toán tiền khi đến hạn Khi đáo hạn, khách hàng sẽ được lĩnh số tiền bằng đúng mệnh giá (kể cả phát hành có chiết khấu hay phụ trội). Kế toán sẽ thu lại giấy tờ có giá đã phát hành, tất toán TK "Phát hành giấy tờ có giá" và làm thủ tục trả tiền, hoặc chuyển vào TK cho khách hàng theo yêu cầu của khách hàng. 1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN Kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh, để tồn tại và phát triển ngân hàng luôn cần phải thích nghi với môi trường kinh doanh. Môi trường bao gồm nhiều yếu tố đan xen ảnh hưởng lẫn nhau và tác động đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng, nhưng về cơ bản các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn được phân theo hai nhóm: 1.4.1 Nhóm nhân tố khách quan 1.4.1.1Hành lang pháp lý Khi các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khác cho khách hàng, họ phải tiến hành những công việc đó trong một khung pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã hội, bảo quản tài sản của toàn xã hội. Chính vì vậy một hành lang pháp lý hoàn chỉnh hay thiếu hoàn chỉnh có tác động trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động huy động vốn của NHTM trước hết là các bộ luật và nghị định hướng dẫn thi hành luật như: Luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN… Những luật này qui định giới hạn huy động vốn so với dư nợ cho vay, qui định việc phát hành ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 19 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== trái phiếu, kỳ phiếu… Ngoài ra nó còn chịu sự quản lý gián tiếp của các bộ luật khác. Bên cạnh những bộ luật còn có chính sách tiền tệ quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn của các NHTM. Trước tiên, nó thể hiệnở mục tiêu của chính sách tiền tệ đó là: kiểm soát lạm phát, bình ổn giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Tuỳ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn mà khối lượng vốn huy động được là khác nhau. Những tác động của mục tiêu chính sách tiền tệ với hoạt động huy động vốn của ngân hàng là rất mạnh mẽ nên các NHTM ngoài việc thực hiện đúng qui định của các bộ luật còn phải có mục tiêu hoạt động phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngoài ra công tác huy động vốn của NHTM còn chịu ảnh hưởng bởi chính sách đầu tư của Nhà nước. Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp lí hay không hợp lý đều ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của ngân hàng. Bởi vì trên thực tế những chính sách này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường kinh doanh không chỉ đối với khách hàng mà ngay cả đối với ngân hàng. 1.4.1.2Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội Tình hình kinh tế chính trị ổn định hay không ổn định có tác động rất lớn đến nền kinh tế không chỉ tới khách hàng mà còn tác động mạnh mẽ tới các hoạt động của ngân hàng. Nền kinh tế vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển sẽ tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn nên ngân hàng có thể thu hút vốn nhiều hơn. Trái lại, khi nền kinh tế bị suy thoái, sản xuất bị kìm hãm, lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư của ngân hàng bị thu hẹp do sản xuất bị đình trệ, thua lỗ khi đó việc huy động vốn cũng giảm. Đồng thời với sự không ổn định của nền kinh tế làm cho tâm lý của người có tiền nhàn rỗi không muốn nắm giữ tiền mà họ chuyển sang nắm giữ tài sản khi đó việc huy động vốn của ngân hàng càng trở nên khó khăn hơn. Sự biến động của nền kinh tế là mang tính chu kỳ nên ngân hàng cần phải có kế hoạch về vốn và sử dụng vốn hợp lý. Tình hình chính trị của một quốc gia có ảnh hưởng lớn tới mọi lĩnh vực của đất nước trong đó có cả hoạt động của ngân hàng. Khi chính trị của một quốc gia ổn định thì người dân mới có sự tin tưởng vào hệ thống tài chính và khi đó họ mới gửi khoản tiền nhàn rỗi của mình vào ngân hàng. Thực tế cho thấy rằng vào thời kỳ mà chính trị không ổn định, đất nước có những khủng hoảng hay có chiến tranh thì lúc đó lượng vốn huy động được từ nền kinh tế là thấp hơn rất nhiều so ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7 Chuyên đề tốt nghiệp 20 Khoa:Ngân hàng – CN kế toán Ngân hàng ==================================================================== với thời kỳ ổn định. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh đặc biệt trên lĩnh vực tiền tệ, nó hoạt động trên cơ sở lòng tin khách hàng và ngân hàng. Do đó những yếu tố nào tác động lòng tin của khách hàng với ngân hàng sẽ gây cho ngân hàng những tổn thất ở hiện tại và trong tương lai. 1.4.1.3 Sự gia tăng của cạnh tranh Hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới ngày càng lớn mạnh với sự ra đời của các ngân hàng mới và xu hướng toàn cầu hoá nề tài chính quốc tế. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của các ngân hàng và sự tham gia vào hoạt động ngân hàng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tạo ra một sức ép cạnh tranh tới hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động huy động vốn của các NHTM. Ngay cả trong cùng hệ thống ngân hàng hiện nay cũng có sự cạnh tranh gay gắt, các NHTM không ngừng tăng lãi suất tiền gửi, cung cấp những tiện ích tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng. Mặt khác, cùng với sự tham gia vào việc thu hút tiền gửi nhàn rỗi của các tổ chức tài chính như: bưu điện, bảo hiểm…, nguồn vốn càng trở nên khan hiếm hơn. Với áp lực của cạnh tranh thúc đẩy các ngân hàng không ngừng hiện đại hoá, tạo ra được những lợi thế cạnh tranh và hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Cạnh tranh cũng là động lực giúp ngân hàng khẳng định vị thế của mình và đón vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai. 1.4.1.4 Sự tiến bộ khoa học công nghệ Không phải tất cả các NHTM đều cung cấp tất cả các loại dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, nhưng quả thật danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên không ngừng. Và điều này được thực hiện với sự trợ giúp của khoa học công nghệ. Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng công nghệ tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong việc nhận tiền gửi, thanh toán và cấp tín dụng. Nhiều loại hình tiền gửi mới đang được phát triển với sự giúp đỡ của công nghệ ngân hàng hiện đại và các loại dịch vụ mới như giao dịch một cửa theo chương trình phần mềm ngân hàng bán lẻ, giao dịch qua internet và thẻ thông minh giúp cho công tác huy động vốn ngày càng đạt hiệu quả cao. Sự tiến bộ của công nghệ cũng chính là thế mạnh của mỗi ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Các NHTM không ngừng áp dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, nó còn giúp ngân hàng giảm chi ==================================================================== Nguyễn Thuý Hoa - Lớp NHGK7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan