Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 ...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 trường thpt

.PDF
142
87
133

Mô tả:

Đề tài: Tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 trường THPT. Chuyên ngành: LL và PP dạy học Học viên: Phạm Hương Giang – CH Địa K14 MỤC LỤC 1 2 3 4 5 6 7 8 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.3. 1.4. 2.1. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.3. Trang MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài 1 Mục đích nghiên cứu 2 Nhiệm vụ nghiên cứu 2 Giới hạn nghiên cứu 3 Phương pháp nghiên cứu 3 Lịch sử nghiên cứu 5 Những đóng góp của luận văn 6 Cấu trúc luận văn 6 NỘI DUNG 7 Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp kiến 7 thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 THPT Kiến th ức địa lý địa ph ươn g tron g ch ươn g trìn h địa lý trường 7 phổ thông các nước trên thế giới Vai trò của kiến thức địa lý địa phương trong dạy học địa lý 7 Một số kiểu cấu tạo chương trình địa lý trường phổ thông ở các 8 nước trên thế giới Kiến th ức địa lý địa ph ươn g tron g ch ươn g trìn h địa lý trường 9 phổ thông ở nước ta Vị trí của kiến th ức địa lý địa ph ươn g trong phân phối chương 9 trình địa lý trường phổ thông Thực trạng kiến thức địa lý địa phương của giáo viên và học sinh 13 phổ thông hiện nay, lấy thí dụ ở tỉnh Thái Nguyên Vai trò của kiến thức địa lý địa phương đối với việc dạy học địa 17 lý lớp 10 THPT Tình hình sử dụng các kiến thức địa lý địa phương vào dạy học 21 địa lý lớp 10 ở tỉnh Thái Nguyên Chương 2: Tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học 29 Địa lý lớp 10 THPT. Lấy ví dụ ở tỉnh Thái Nguyên Hệ thống kiến thức Địa lý lớp 10 29 Hình thành khái niệm địa lý chung cho học sinh lớp 10 THPT 33 Khái niệm và vai trò của khái niệm đối với quá trình nhận thức 33 của học sinh Con đường hình thành khái niệm chung Địa lý lớp 10 35 Tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học Địa lý lớp 10 39 THPT Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 2.3.1. Khái quát về tích hợp và tích hợp kiến thức địa lý địa phương 39 vào dạy học Địa lý lớp 10 2.3.2. Các nguồn tài liệu thu thập kiến thức địa lý địa phương để tích 43 hợp vào dạy học địa lý 10 2.3.3. Định hướng một số nguyên tắc chung để tích hợp kiến thức địa 45 lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 2.3.4. Các phương pháp dạy học cụ thể để tích hợp kiến thức địa lý địa 51 phương vào dạy học Địa lý lớp 10 2.4. Kiến thức địa lý địa phương tỉnh Thái Nguyên và vi ệc tích hợp 60 vào dạy học địa lý lớp 10 trong tỉnh 2.4.1. Kiến thức địa lý địa phương tỉnh Thái Nguyên: nội dung và 60 nguồn tài liệu thu thập 2.4.2. Định hướng một số nội dung và phương pháp dạy học để tích 73 hợp kiến thức ĐLĐP tỉnh Thái Nguyên vào dạy học địa lý lớp 10 2.4.3. Thí dụ về tích hợp kiến thức ĐLĐP tỉnh Thái Nguyên vào dạy 84 học địa lý lớp 10 2.4.4. Giới thiệu một số giáo án tích hợp kiến thức ĐLĐP tỉnh Thái 87 Nguyên vào dạy học địa lý lớp 10 trong tỉnh Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 88 3.1. Mục đích, nhiệm vụ, nguyên tắc của thực nghiệm sư phạm 88 3.1.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm 88 3.1.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 88 3.1.3. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm 89 3.2. Tổ chức thực nghiệm sư phạm 89 3.2.1. Đối tượng thực nghiệm sư phạm 89 3.2.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 91 3.3. Căn cứ và tiêu chí để đánh giá, xếp loại kết quả thực nghiệm 91 3.3.1 Căn cứ đánh giá, xếp loại kết quả thực nghiệm 91 3.3.2 Tiêu chí đánh giá, xếp loại kết quả thực nghiệm 91 3.3.3 Cách xử lý kết quả thực nghiệm 92 3.4. Phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm 93 3.5. Đánh giá chung về thực nghiệm sư phạm 105 KẾT LUẬN 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO 112 PHỤ LỤC 116 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong chương trình giáo dục quốc dân, Đ ịa lý là môn học quan trọng nên được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông từ lớp 6 cho đến lớp 12, nhằm mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khoa học địa lý, cũng như vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước, xu thế tất yếu của thời đại. Địa lý là môn học có nhiều thuận lợi về giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trong đó các kiến thức địa lý địa phương có vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế, một nhà văn Nga đã nói: tình yêu quê ương h đất nước phải được bắt nguồn từ tình yêu đối với sự vật, hiện tượng gần gũi, thân quen nơi xóm, làng của mình và chúng ta chỉ thực sự yêu chúng khi hiểu biết sâu sắc về chúng. Chính việc giảng dạy địa lý địa phương tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tìm hiểu và đánh giá đúng tiềm năng các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và thực trạng kinh tế - xã hội của địa phương, từ đó giúp họ định hướng nghề nghiệp, lao động sản xuất, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp. Kiến thức địa lý địa phương (quê hương) có liên quan nhiều đến địa lý đại cương, địa lý thế giới, địa lý Việt Nam, trong đó đặc biệt là địa lý lớp 10. Hệ thống kiến thức Địa lý lớp 10 là nền tảng của môn Địa lý THPT, bao gồm: các khái niệm, các quy luật địa lý, các mối quan hệ nhân quả… nhưng nhiều nhất là các khái niệm chung. Kiến thức địa lý địa phương là tài liệu sống động để nắm những kiến thức địa lý cơ bản đó. Bởi vì thông qua những hiểu biết ban đầu về các sự vật, hiện tượng hết sức gần gũi, thân quen mà học sinh nhìn thấy hàng ngày ở địa phương sẽ tạo điều kiện để hình thành biểu t ượng địa lý cho học sinh. Trong khi đó, biểu tượng địa lý lại là cơ sở để tạo nên khái niệm địa lý, vì nó phản ánh đượ c những thuộc tính của khái niệm địa lý tương ứng. Ngược lại, việc đưa kiến thức địa lý địa phương trong dạy học địa lý sẽ góp phần bổ sung kiến thức về địa phương cho học sinh và làm giàu tình yêu quê Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 hương đất nước tro ng tâm hồn các em. Đồng thời, bài giảng địa lý có sự liên hệ, chứng minh bằng thực tiễn nơi các em đang sinh sống và học tập sẽ trở nên hấp dẫn và có tính thuyết phục với học sinh hơn. Ở nước ta vấn đề dạy học địa lý địa phương ở các trường phổ thông hiện nay đã được chú ý nhiều hơn trước. Tuy nhiên, dung lượng kiến thức này vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong chương trình địa lý phổ thông. Ngoài các tiết dạy địa lý địa phương theo quy định, thầy (cô) giáo chưa thường xuyên đưa kiến thức địa lý địa phương vào bài giảng . Đặc biệt, giáo viên nắm kiến thức địa lý địa phương chưa sâu, chưa rộng đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Do đó, kiến thức địa lý địa phương của học sinh thường nghèo nàn, việc cung cấp và bổ sung kiến thức địa lý địa phương cho học sinh còn nhiều hạn chế, đây là vấn đề cần khắc phục. Rõ ràng, đề tài sẽ thực hiện được nhiều mục đích phù hợp với đòi hỏi cả về mặt lý thuyế t và thực tiễn. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 trường THPT”. 2. Mục đích nghiên cứu - Bổ sung và làm phong phú kiến thức địa lý địa phương cho học sinh phổ thông. - Tìm biện pháp, phương pháp giúp học sinh nắm kiến thức địa lý lớp 10 vững chắc thông qua việc vận dụng kiến thức địa lý địa phương. - Làm cho bài giảng địa lý có sức thuyết phục, gây được niềm hứng thú, tính tích cực học tập của học sinh. - Góp phần giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho các học sinh. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luậ n và thực tiễn của việc tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý 10 THPT. - Nghiên cứu đặc điểm kiến thức địa lý lớp 10 và con đường hình thành kiến thức cho học sinh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 - Tìm ra một số nguyên tắc và phương pháp để tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10. - Nghiên cứu việc tích hợp kiến thức địa lý địa phương tỉnh Thái Nguyên vào dạy học địa lý lớp 10 trường THPT để chứng minh cho lý thuyết của đề tài. 4. Giới hạn nghiên cứu Trong quá trình nghiên ứu c do có nhiều điều kiện hạn chế (về thời gian, tài chính…) nên đề tài chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học chương trình địa lý lớp 10 trường THPT và lấy ví dụ minh hoạ ở tỉnh Thái Nguyên. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập tài liệu Việc thu thập tài liệu được thực hiện dựa vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Các nguồn tài liệu gồm sách báo, tạp chí chuyên ngành, các báo cáo khoa học, các đề tài nghiên cứu, các trang web cung cấp thông tin và các chỉ thị, nghị quyết của ngành giáo dục có liên quan đến đề tài. Để đề tài đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm, trong quá trình thu thập tài liệu phải đặc biệt chú ý đến nội dung chương trình SGK Địa lý lớp 10 ban cơ bản, sách hướng dẫn của giáo viên, cùng với các tài liệu tham khảo khác. Vì vậy, nguồn tài liệu thu thập được hết sức phong phú và đều liên quan đến nội dung của đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, việc lựa chọn và sắp xếp nội dung sao cho chính xác, phù hợp với quá trình dạy học hiện nay cần khá nhiều thời gian và công sức của tác giả. - Phương pháp điều tra, quan sát Đó là phương pháp đi kh ảo sát thực tế ở một số trường phổ thông trong tỉnh Thái Nguyên để nắm rõ thực trạng dạy và học địa lý địa phương ở các trường phổ thông hiện nay. Dự giờ của một số giáo viên đang dạy Địa lý lớp 10, phỏng vấn và phát phiếu điều tra cho học sinh và giáo viên để rút ra những nhận xét chính xác, khách quan. Đồng thời để đưa ra những kiến nghị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 cần thiết, giúp cho việc giảng dạy và học tập bộ môn Địa lý, trong đó có địa lý địa phương ở trường phổ thông được tốt hơn. - Phương pháp phân tích hệ thống Trong quá trình dạy học thì nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học cũng như xu hướng dạy học là một tổng thể thống nhất với những quy luật nội tại riêng của nó . Do đó để đảm bảo tính khoa họ c và tính sư phạm của đề tài, trong quá trình thực hiện đề tài cần phải xem xét, phân tích các đối tượng nghiên cứu trong một hệ thống hoàn chỉnh. Chẳng hạn, cần phải nghiên cứu việc dạy học địa lý địa phương trong mối quan hệ qua lại nhiều chiều với toàn bộ chương trình địa lý phổ thông. Hay khi xem xét thực trạng giảng dạy và học tập địa lý địa phương ở các trường phổ thông hiện nay cần phải nhìn nhận từ cả phía giáo viên và phía học sinh trên nhiều phương diện: nội dung, phương pháp, phương tiện, xu hướng… Có như vậy, mới rút ra được những kết luận khách quan, chính xác về vấn đề đưa ra. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm Để kiểm chứng tính khoa học và thực tiễn của đề tài, nhất định phải tiến hành thực nghiệm sư phạm. Đó là cách trực tiếp giảng dạy hoặc nhờ một số giáo viên có kinh nghiệm ở một số trường phổ thông giúp đỡ giảng dạy phần bài giảng do tác giả thiết kế theo mục đích của đề tài. Sau đó dùng phiếu thăm dò lấy ý kiến của giáo viên và học sinh nhằm kiểm nghiệm các kết quả lý thuyết mà đề tài đưa ra. Phân tích các kết quả thực nhiệm thu được, rút ra những nhận định cần thiết và từ đó đề ra một số kiến nghị giúp cho việc dạy học địa lý địa phương nói riêng, cũng như địa lý nói chung có được hiệu quả như mong muốn . - Phương pháp thống kê toán học Vận dụng lý thuyết xác suất thống kê và thống kê toán học để xử lý, phân tích các kết quả thu được sau khi tiến hành thực nghiệ m sư phạm ở các trường THPT ở tỉnh Thái Nguyên, nhằm đánh giá tính khả thi của đề tài trong việc tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10, đồng thời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 là căn cứ k hoa học để xác định xu hướng phát triển của đối tượng để đề xuất những biện pháp thực hiện cho tốt. 6. Lịch sử nghiên cứu - Ở nước ngoài: Ở Liên Xô (trước đây) và các nước Đông Âu đã có rất nhiều công trình nghiên cứu địa lý địa phương cả về lý luận và về thực tiễn. Tổng kết vấn đề này, K.F.Stroev (1974) khẳng định: tài liệu địa lý địa phương là cơ sở tốt nhất để hình thành biểu tượng, khái niệm địa lý cho học sinh và minh hoạ cho các bài giảng địa lý. Chính địa lý địa phương là môi trường tốt nhất để học sinh có thể vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn sinh động ở nơi các em đang sinh sống. Ở Pháp và nhiều nước khác như Hoa Kỳ, Ôxtraylia, Thái Lan, Ấn Độ… địa lý địa phương cũng được đưa vào chương trình phổ thông, bắt đầu từ việc tìm hiểu quê hương cho tới việc công bố các công trình nghiên cứu và hướng dẫn giảng dạy địa lý địa phương. Mục đích của việc giảng dạy địa lý địa phương trong nhà trường ở nước ngoài là góp phần giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, bồi dưỡng cho học sinh khả năng tìm hiểu và năng lực tư duy tổng hợp đối với các vấn đề của địa phương. - Ở trong nước: Nghiên cứu địa lý địa ph ươn g đ ã đ ược tiến hàn h từ lâu. Có thể coi Nguyễn Trãi với “Dư địa chí” (ra đời vào thế kỷ XV) là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu vấn đề này. Gần đây hàng loạt “Địa chí” của các tỉnh đã được biên soạn như: “Địa phương chí Hà Bắc ” (Hoàng Thiếu Sơn) , “Địa phương chí Hải Phòng” (Hoàng Đạo Thuý ), “Địa lý địa phương các tỉnh” (Viện Khoa học xã hội Việt Nam), “Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam” (Lê Thông)… Để đáp ứng yêu cầu đưa kiến thức địa lý địa phương vào trong dạy học phổ thông, các tỉnh cũng đã chủ động tổ chức nghiên cứu và biên soạn tài liệu địa lý địa phương dùng riêng cho tỉnh mình. Đến nay hầu hết các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 tỉnh trong cả nước đã làm được điều này, tiêu biểu có Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên… 7. Những đóng góp của luận văn - Đề tài đã xây dựng được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 trường THPT nói chung. - Đưa ra một số nguyên tắc và phương pháp để tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10. - Thiết kế một số giáo án có sự tích hợp địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 THPT tỉnh Thái Nguyên. - Kết quả của đề tài có tính khả thi, sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên dạy chương trình địa lý lớp 10 nói chung và giáo viên ịa đ lý tỉnh Thái Nguyên nói riêng. 8. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 trường THPT. - Chương 2: Tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 trường THPT. Lấy ví dụ ở tỉnh Thái Nguyên - Chương 3: Thực nghiệm sư phạm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP KIẾN THỨC ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG VÀO DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 10 THPT 1.1. Kiến thức địa lý địa phương trong chương trình địa lý trường phổ thông các nước trên thế giới 1.1.1. Vai trò của kiến thức địa lý địa phương trong dạy học địa lý Tuỳ từn g quố c g ia, kiến th ức địa lý địa phương được dạy học trong chương trình địa lý ở trường phổ thông là kiến thức địa lý tự nhiên, kinh tế, xã hội của một tỉnh, một bang, một tiểu bang, một vùng hay một khu vực, thậm chí còn nhỏ hơn nữa. Đó là những kiến thức địa lý ở không gian hẹp của m ột nước nên còn được gọi là địa lý quê hương. Nó có thể được cấu tạo thành một môn học riêng dạy ở một lớp nhất định, thường ở bậc tiểu học. Hoặc nó được tích hợp vào nội dung địa lý các lớp như ở nước ta, kiến thức địa lý địa phương được bố trí thành một chương ở địa l ý lớp 9, lớp 12 và được tích luỹ dần trong quá trình dạy học các bài học ở các lớp. Với mục đích phục vụ giáo dục, nội dung địa lý địa phương phải xuất phát từ những yêu cầu giảng dạy và học tập ở trường phổ thông, gắn liền với chương trình và thời gian quy định. Yêu cầu học tập địa lý địa phương đối với học sinh là các em phải có được những kiến thức tối thiểu về địa phương mình đang sinh sống, có khả năng nhận biết, giải thích và phân tích được các hiện tượng địa lý diễn ra ngay tại địa phương. Địa lý địa phương là một bộ phận và có liên quan mật thiết với địa lý Tổ quốc nên kiến thức địa lý địa phương có vai trò là cơ sở để học sinh nắm kiến thức địa lý Tổ quốc, kiến thức địa lý nói chung. Ngược lại, việc tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý phổ thông có tác dụng bổ sung kiến thức địa lý địa phương cho các em, từ đó bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước trong mỗi con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Kiến thức địa lý địa phương là kiến thức về các sự vật, hiện tượng hết sức gần gũi, thân quen mà học sinh nhìn thấy hàng ngày. Do vậy nó tạo điều kiện hình thành biểu tượng địa lý cho học sinh. Mà như chúng ta biết, biểu tượng địa lý lại là cơ sở để tạo ra khái niệm địa lý, vì nó phản ánh được những thuộc tính của khái niệm địa lý tương ứng. Biểu tượng về các sự vật, hiện tượng càng sáng và càng đầy đủ thì việc nhận thức càng tốt. Đồng thời, khi giáo viên biết lồng ghép, tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào trong bài giảng địa lý sẽ gây được sự hứng thú, tính tự giác, tích cực học tập của học sinh. Bên cạnh đó, những kiến thức địa lý địa phương mà nhà trường trang bị cho học sinh nếu có giá trị thực tiễn sẽ tạo điều kiện để học sinh có thể vận dụng được vào công việc lao động sản xuất tại địa phương, tham gia cải tạo xây dựng quê hương giàu đẹp. 1.1.2. Một số kiểu cấu tạo chương trình địa lý ở trường phổ thông các nước trên thế giới Có hai kiểu cấu tạo chương trình địa lý cơ bản trên thế giới: - Kiểu 1: đi từ địa lý địa phương (quê hương) đến địa lý Tổ quốc, các vùng lãnh thổ trên thế giới, cuối cùng là địa lý đại cương. Kiểu cấu tạo này khá phổ biến, nhất là ở các nước châu Âu nên ngay từ các lớp tiểu học học sinh đã được học về quê hương của mình (thôn, xóm, thành phố, thị trấn nơi học sinh đang học tập và sinh sống). Ở châu Á, cũng có một số nước cấu tạo chương trình địa lý phổ thông theo kiểu này, tiêu biểu có Ấn Độ, Thái Lan, người học được tiếp nhận kiến thức địa lý địa phương ngay từ những lớp tiểu học, sau đó tiếp tục được bổ sung và nâng cao kiến thức đó ở những lớp trên. - Kiểu 2: đi từ địa lý đại cương đến địa lý các khu vực trên thế giới, cuối cùng mới đến địa lý Tổ quốc, trong đó bao gồm địa lý các vùng lãnh thổ trong đất nước và địa lý từng địa phương. Cấu tạo chương trình theo kiểu này phổ biến ở Liên Xô (trước đ ây) và các n ước Đôn g Âu. Địa lý địa phương thường được học ở các lớp trên, khi mà học sinh đã có một lượng kiến thức địa lý đại cương nhất định. Nước ta cũng có cấu tạo theo kiểu này. Địa lý bắt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 đầu đưa vào dạy học ở lớp 4 dưới hình thức một bộ môn chung với cái tên “Khoa học tự nhi ên và xã hội” . Trong bộ môn này địa lý địa phương chưa được đề cập để giảng dạy cho học sinh, mà chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những thông tin cơ bản của một số đối tượng, địa danh điển hình, nổi tiếng của Việ t Nam như dãy Trường Sơn, sông Hồng, sông Cửu Lo ng…, tức là bước đầu cung cấp cho học sinh những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng địa lý. Địa lý chỉ thực sự trở thành một môn học riêng từ lớp 6 THCS và đến tận các lớp cuối cấp (lớp 9 THCS và lớp 12 THPT) địa lý địa phương mới chính thức được đưa vào chương trình địa lý. Kiểu này có một thuận lợi là học sinh dễ dàng phát hiện, g iải th ích, phân tích các vấn đ ề địa ph ươn g mìn h dựa trên những kiến thức địa lý đại cương và địa lý Tổ quốc đã được trang bị ở các lớp dưới. Nhưng có hạn chế là khi học các kiế n thức đại cương, địa lý thế giới và ngay cả địa lý Tổ quốc do học sinh không có kiến thức thực tế của địa phương để hiểu sâu sắc những kiến thức này, nên nhiều khi dẫn đến hiện tượng học vẹt. Ngoài hai kiểu trên, trong chương trình địa lý ở một số nước, c ác kiến thức địa lý cả ở bậc tiểu học và THCS đều được tích hợp với các kiến thức lịch sử, giáo dục công dân và xã hội học trong một môn chung có tên là “Khoa học xã hội”, còn các kiến thức về khoa học Trái Đất được tích hợp với các kiến thức về vật lý, hoá học, sinh học trong môn học có tên là “Khoa học tự nhiên”, chỉ từ cấp THPT kiến thức địa lý mới trở thành môn học riêng. Dù có được sắp xếp, cấu tạo theo nhiều kiểu khác nữa thì về cơ bản chúng vẫn tuân thủ theo hai kiểu cơ bản nêu trên. Do vậy, việc hìn h thành kiến thức địa lý cho học sinh vẫn không có gì thay đổi: quy nạp hoặc diễn dịch. 1.2. Kiến thức địa lý địa phương trong chương trình địa lý trường phổ thông ở nước ta 1.2.1. Vị trí của kiến thức địa lý địa phương trong phân phối chương trình địa lý trường phổ thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 Kiến thức địa lý địa phương bao gồm kiến thức địa lý một tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc TW), thành phố trực thuộc tỉnh, quận, huyện, phường, xã, thôn, xóm của tỉnh đó. Song dạy học đ ịa lý địa phương ở nước ta vẫn chưa được coi trọng đúng mức và không có tài liệu địa lý địa phương ở cấp quận huyện, phường xã, thôn xóm. Biểu hiện cụ thể là kiến thức địa lý địa phương được dạy ở trường phổ thông chủ yếu mới dừng lại ở phạm vi cấp tỉnh, nhỏ hơn nữa là cấp huyện. Trong khi đó, những kiến thức n ày rất quan trọng, có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống học sinh. Nhất là những kiến thức ở thôn, xóm, xã, phường, quận, huyện nơi các em sinh sống thường không được đề cập tới. Đây chính là một điểm yếu trong dạy học địa lý địa phương mà chúng ta cần khắc phục. Chương trình môn địa lý trường phổ thông được xây dựng theo kiểu đồng tâm, có nâng cao dần kiến thức từ THCS lên THPT. Học sinh được trang bị kiến thức về địa lý đại cương, địa lý thế giới, địa lý Việt Nam (bao gồm địa lý tự n h iên và địa lý kinh tế - xã hội) với mức độ và phương pháp khác nhau: Địa lý đại cương được học ở các lớp đầu cấp (lớp 6 THCS, lớp 10 THPT) làm cơ sở tiếp thu các giáo trình địa lý khác, tuy nhiên nó vẫn tiếp tục được học ở các lớp sau, xen kẽ với địa lý các châu lục và địa lý Việt Nam. Địa lý Việt Nam được dạy tương đối hoàn chỉnh ở cấp THCS, bao gồm địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế (lớp 8 và 9 THCS). Học sinh được trang bị những kiến thức khá đầy đủ về địa lý đất nước để chuẩn bị cho việc tiếp thu nội dung: “Những vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam” ở chương trình lớp 12 THPT. Chương trình Địa lý các châu lục ở cấp THCS sẽ trang bị cho học sinh những kiến th ức về các châu lục: điều kiện tự n h iên, d ân cư, b ản đ ồ ch ín h trị, các hoạt động kinh tế của con người. Những kiến thức này là nền tảng để học sinh có thể hiểu đầy đủ bản đồ chính trị thế giới đương đại, một số vấn đề địa lý kinh tế thế giới, sự phát triển kinh tế các khu vực, các quốc gia trên thế giới được đề cập ở lớp 11 THPT. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Qua cách phân phối chương trình nêu trên, chúng ta nhận thấy địa lý địa phương rất ít được nhắc đến. Ở cấp tiểu học, học sinh bắt đầu làm quen với địa lý dưới tên một môn học chung đó là “Khoa học tự nhiên và xã hội”. Nội dung kiến thức địa lý trong bộ môn này chủ yếu cung cấp cho học sinh một số biểu tượng, khái niệm cơ bản, đặc trưng ở nước ta như sông Hồng, dãy Hoàng Liên Sơn, dãy Trường Sơn… Trên thế giới, có những nước lại trang bị kiến thức địa lý địa phương cho học sinh từ những lớp tiểu học và soạn thành một giáo trình riêng cho mỗi lớp, sau đó tiếp tục được nâng cao ở các lớp trên. Trong khi ở nước ta, kiến thức địa lý địa phương (quê hương) chỉ được dạy một số tiết ít ỏi. Trong chương trình và SGK địa lý ở trường phổ thông, địa lý địa phương được chính thức đưa vào giảng dạy và học tập ở lớp 9 THCS và lớp 12 THPT (hai lớp cuối cấp). Với lý do, ở hai lớp này, học sinh đã có những kiến thức địa lý nhất định về địa lý đại cương, địa lý Tổ quốc để có thể vận dụng vào tìm hiểu và giải thích được các vấn đề của địa phương (tự nhiên, kinh ết - xã hội). Lớp 9: các bài học về địa lý địa phương được trình bày trong 4 bài là 41, 42, 43, 44 vàảng gi dạy trong 4 tiết theo phân phối chương trình (mỗi b ài mộ t tiết). Lớp 1 2: các b ài họ c về địa lý địa ph ương được nhắc tới trong 2 bài 44 và 45, với thời lượng là 2 tiết, nhưng với yêu cầu cao hơn là các em phải viết được một bản tổng hợp về địa lý tỉnh (thành phố) của mình trên tất cả các phương diện (tự nhiên và kinh tế - xã hội)… Như vậy, số bài và số tiết dạy về địa lý địa phương ở Việt Nam còn quá ít, bởi có nhiều khó khăn chưa được khắc phục như là: khó sắp xếp về mặt thời gian giảng dạy (vì khối lượng kiến thức địa lý cần truyền đạt cho học sinh quá lớn mà thời gian học tập ở trên lớp lại có hạn), điều kiện vật chất eo hẹp (SGK, tài liệu tham khảo thiếu, đồ dùng dạy học không đầy đủ)… Tuy nhiên, giáo viên vẫn có thể linh động, sáng tạo nhiệm vụ này bằng cách ngoài các tiết dạy địa lý địa phương theo quy định của Bộ GD&ĐT, chúng ta có thể cung cấp và bổ sung kiến thức đó vào các tiết dạy địa lý ở các lớp t hông qua các ví dụ, các chứng minh, các câu hỏi gợi mở, thậm chí là các bài tập, các bài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 kiểm tra có liên hệ đến địa phương. Giáo viên cũng không nên chỉ yêu cầu học sinh lấy các kiến thức địa lý địa phương ở phạm vi cấp tỉnh (huyện) mà nên khuyến khích cá c em lấy các ví dụ càng gần, càng cụ thể nơi các em sinh sống càng tốt. Điều đó sẽ giúp cho việc dạy và học địa lý trở nên hấp dẫn, hiệu quả, thiết thực hơn nhờ vào tính tích cực học tập của học sinh khi mỗi giáo viên biết khơi dậy vốn kiến thức thực tế trong họ. Sự chậm trễ trong việc khắc phục những khó khăn nêu trên đã dẫn đến tình trạng học sinh nước ta không biết gì hoặc biết một cách lơ mơ về những sự vật, hiện tượng ở quê hương mình nhưng lại có thể nhanh chóng định nghĩa một khái niệm địa lý hay nêu tên và đặc điểm một sự vật, hiện tượng địa lý trên thế giới. Thí dụ: các em có thể biết đặc điểm của sông Nin, sông A-ma-dôn hoặc có thể biết đá tạo nên dãy núi Hi -ma-lay-a, Anpơ… nhưng lại không hề biết đặc điểm chung nhất về con sông chảy qua làng xã của mình, loại đất đá nằm trên đường đi lối lại ở thôn xóm. Những yếu kém này của học sinh phải được xác định và đánh giá một cách công bằng, chủ yếu là do các thầy (cô) giáo địa lý các cấp học đã không quan tâm lồng ghép, tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào các bài gi ảng địa lý ở tất cả các lớp. Đồng thời, giáo viên cũng chưa hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học địa lý địa phương. Bản thân giáo viên chưa tích cực tìm hiểu các kiến thức địa lý địa phương, đặc biệt là các kiến thức tự nhiên, kinh tế - xã hội trong không gian hẹp như xã, phường, quận, huyện hay nơi trường đóng. Và một nguyên nhân khách quan không thể phủ định đó là các công trình nghiên cứu về địa lý địa phương từ cấp huyện trở xuống ở nước ta còn rất hiếm. Những điều nêu trên đồng nghĩa với việc chúng ta cần xác định rõ hơn vai trò của giáo dục kiến thức địa lý địa phương trong nhà trường phổ thông, thấy được sự cần thiết phải trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về quê hương đất nước mình trước khi trở thành một người công dâ n Việt Nam đích thực. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 1.2.2. Thực trạng kiến thức địa lý địa phương của giáo viên và học sinh phổ thông hiện nay, qua tìm hiểu ở tỉnh Thái Nguyên Kiến thức địa lý địa phương được dạy chính khoá trong nhà trường và là mộ t b ộ phận kiến th ức quan trọn g củ a ch ương trình địa lý trường phổ thông. Qua điều tra việc dạy học địa lý địa phương ở trường các phổ thông ở Thái Nguyên, một tỉnh có nền kinh tế - xã hội phát triển loại nhất khu vực miền núi phía bắc, có ngành giáo dục và đào tạo được xếp vào nhóm đầu của cả nước (với nhiều trường ĐH, CĐ, THCN đóng trên địa bàn, nhiều trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia, đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, chất lượng giáo dục và đào tạo không thua kém các tỉnh ở miền đồng bằng…), tác giả đã đưa ra một số vấn đề đáng chú ý sau đây: Theo hướng dẫn thực hiện chương trình hiện hành của Bộ GD&ĐT, địa lý địa phương là một nội dung kiến thức của bộ môn địa lý. Kiến thức địa lý địa phương là kiến thức tự nhiên, kinh tế, xã hội trong một không gian hẹp nơi quê hương củ a học sinh. Làm cho học sinh hiểu biết sâu sắc hơn những kiến thức địa lý trong SGK thông qua các kiến thức địa lý địa phương, gắn với học tập địa lý với cuộc sống ở địa phương và giáo dục thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước là nhiệm vụ cơ bản mà mỗi gi áo viên phải thực hiện trong các bài lên lớp. Do vai trò quan trọng và ý nghĩa thiết thực như vậy cho nên việc tiếp thu, tích luỹ những kiến thức này đối với mỗi học sinh là không có giới hạn, càng nhiều, càng phong phú càng tốt. Điều này có vẻ mâu thuẫn với sự phân phối chương trình địa lý ở trường phổ thông, chỉ có 6 tiết học: 4 tiết ở lớp 9 và 2 tiết ở lớp 12. Dựa vào yêu cầu của thực tế cũng như của môn học, việc hình thành kiến thức địa lý cho học sinh không chỉ dừng lại ở những tiết học đó mà còn phải được tiếp tục tích luỹ trong các giờ địa lý ở tất cả các lớp theo hình thức tích hợp. Đây là mục đích, đồng thời cũng là yêu cầu của bộ môn địa lý đối với giáo viên và học sinh khi dạy và học địa lý địa phương. Điều tra thực trạng dạy học địa lý ở các trường phổ thông của tỉnh Thái Nguyên cho thấy hầu như kiến thức địa lý địa phương chỉ được chú ý đề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 cập khi dạy học các bài địa lý địa phương ở lớp 9 và lớp 12. Và thường không được hình thành nhờ việc tích hợp các kiến thức này khi dạy học địa lý ở các lớp khác. Tác giả đã thăm dò ý kiến giáo viên của nhiều trường, nhiều khối lớp để biết nguyên nhân của những tồn tại này. Đa số giáo viên cho rằng: chỉ cần sử dụng những dẫn chứng trong SGK là đủ hoặc không có thời gian, không có tài liệu địa lý địa phương để tham khảo, đặc biệt là kiến thức địa lý cấp quận, huyện, phường, xã và nơi trường đóng. Song chúng chưa phải là nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân chủ yếu ở đây chính là sự hạn chế về kiến thức địa lý địa phương của giáo viên. Thí dụ: khi dạy về chuyển động biểu kiến hàng năm của mặt trời ở bài 6 “Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt Trời của Trái Đất”, tác giả có hỏi “Thầy (cô) giáo có lấy ví dụ để chứng minh cho ngày m ặt trời lên thiên đỉnh ở địa phương không? Đó là ngày bao nhiêu?”, thì đến hơn 70% giáo viên trả lời là không và hơn 90% không nói được là ngày nào. Hoặc khi dạy về các tầng đá của lớp vỏ Trái Đất ở bài 7 “Cấu trúc của Trái Đất. Thạch quyển. Thuyết kiến tạo mảng”, thì đến 60% giáo viên cho biết không lấy thí dụ về các loại đá có ở địa phương và hơ n 80% không biết các loại đá đó nằm ở đâu trong huyện (tỉnh) của mình. Ta có thể nêu ra hàng loạt các ví dụ khác nữa… Thực trạng đáng buồn này không chỉ xảy ra ở riêng Thái Nguyên mà chắc chắn nó cũng là tình hình chung của giáo viên ở các tỉnh khác. Vì những nguyên nhân nêu trên, dẫn đến kiến thức địa lý địa phương, đồng thời là kiến thức quê hương của học sinh rất nghèo nàn. Thể hiện là nhiều học sinh có thể nhanh chóng định nghĩa một khái niệm địa lý hay nêu tên và đặc điểm của một sự vật, hiện tượng nổ i tiếng trên thế giới, nhưng lại hiểu biết lơ mơ, thậm chí không biết gì về những sự vật, hiện tượng địa lý ở tỉnh, huyện, xã mình. Thí dụ 1: khi được hỏi “Đại bộ phận tỉnh Thái Nguyên nằm ở hệ thống sông nào? Kể tên một số phụ lưu của sông này chảy trong địa phận tỉnh?”. Chỉ có 30% số lượng học sinh điều tra trả lời đúng Thái Nguyên nằm trên hệ thống sông Cầu, có đến 70% học sinh trả lời sai, trong đó có em Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 trả lời tỉnh nằm trên hệ thống sông Hồng, có em cho là hệ thống sông Thái Bình. Và có 90% không ảtr lời được các phụ lưu của sông Cầu. Lý do lớn nhất đó là các em không phân biệt được thế nào là một hệ thống sông và phụ lưu của nó nên đa số em đã trả lời sai. Thí dụ 2: “Tỉnh Thái Nguyên có những quốc lộ nào chạy qua?”, phần lớn học sinh (95%) chỉ trả lời đúng được một quốc lộ, đó là quốc lộ 3 (Thái Nguyên - Hà Nội), còn lại (5 %) trả lời đú ng được 2 quốc lộ trở lên (quốc lộ 1B, 13A, 16, 19) hoặc là trả lời sai. Khi hỏi đến phạm vi hành chính cấp huyện, là không gian lãnh thổ gần gũi, thân quen với học sinh hơn so với cấp tỉnh nhưng các em cũng không nắm được nhiều. Thí dụ 3: hỏi học sinh huyện Đồng Hỷ “Sông Cầu được hình thành do nguyên nhân gì? Hầu hết các em trả lời sai (90%), có em trả lời là do xói mòn, có em cho là nhân tạo, chỉ có 10% các em trả lời đúng sông Cầu có nguồn gốc từ đứt gãy kiến tạo; hỏi học sinh huyện Phú Bình “Đất ở vùng đồi huyện Phú Bình là đất gì?”, 50% học sinh trả lời là đất phù sa, 20% cho là đất phèn, chỉ có 30% trả lời chính xác đất ở vùng đồi huyện Phú Bình là đất feralit; hỏi học sinh huyện Phú Lương “Núi Chúa (thuộc địa phận huyện Phú L ương) được cấu tạo bởi loại đá nào?”, học sinh trả lời sai là đá trầm tích chiếm đến 60%, số trả lời đúng núi Chúa cấu tạo từ đá macma (gabrô) chỉ được 40%; hỏi học sinh thành phố Thái Nguyên “Em hãy cho biết hai nguyên nhân chính làm ô nhiễm môi trường thành phố Thái Nguyên hiện nay?” Có 20% không trả lời đúng một nguyên nhân nào, có 50% trả lời đúng một trong hai nguyên nhân và chỉ có 30% trả lời chính xác hai nguyên nhân chính làm ô nhiễm môi trường thành phố hiện nay đó là: sự phát triển công nghiệp và tập trung quá đông dân cư ãđ làm cho ượng l rác thải do sản xuất và sinh hoạt tăng lên nhanh chóng mà không được xử lý kịp thời, triệt để. Kết quả bài kiểm tra khảo sát việc nắm kiến thức địa lý địa phương của học sinh mà tác giả tổng hợp dưới đây sẽ chứng minh cho những nhận xét trên. Tổng số học sinh được điều tra là 415 học sinh ở 5 trường THPT trong tỉnh. Điểm trung bình kiểm tra của các em là 5,2 điểm, chỉ đạt ở mức trung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 bình; trong đó: điểm dưới trung bình chiếm đến 1/4 (26,2%), điểm trung bình chiếm hơn 1/2 (57,3%), điểm khá chỉ chiếm gần 1/7 (15,0%), điểm giỏi có 6/415 học sinh được điề u tra (chiếm 1,5%). Tuy nhiên, có sự phân hoá giữa các trường: giữa các trường thành phố và các trường huyện, giữa các trường huyện với nhau. Trường Ngô Quyền ở thành phố Thái Nguyên có số điểm trung bình kiểm tra (5,4) cao hơn các trường huyện như Đồng Hỷ (5,3), Phú Lương (5,2), Phú B ình (5,1). Trong cùng m ột tỉnh, các huyện có điều kiện kinh tế - xã hội tốt , chất lượng học tập địa lý địa phương của học sinh cũng khá hơn so với các huyện còn nhiều khó khăn. Điểm trung bình kiểm tra của học sinh huyện Đồng Hỷ (5,3) cao hơn huyện Phú Lương (5,2) và Phú Bình (5,1). Ngoài ra, giữa các trường công lập với dân lập; giữa các trường THPT với các trường dân tộc nội trú chất lượng học tập địa lý địa phương của học sinh cũng có sự khác nhau [xem bảng 1.1]. Mặc dù có sự chênh lệch vừa nêu, song nhìn chung vi ệc dạy và học địa lý địa phương ở các trường phổ thông trong tỉnh còn nhiều hạn chế, cần có giải pháp khắc phục. Chắc chắn cũng là thực trạng chung của cả nước trong vấn đề này. Bảng 1.1. Tổng hợp kết quả khảo sát việc nắm kiến thức địa lý địa phương của học sinh lớp 10 THPT Trường SL HS THPT điều tra Điểm số Dưới TB T.bình Điểm TB Khá (< 5 điểm) (điểm 5, 6) (điểm 7, 8) Giỏi kiểm tra (> 8 điểm) Ngô Quyền 81 14 53 14 0 5,4 L. T. Vinh 77 22 46 8 1 5,1 Đồng Hỷ 88 25 46 15 2 5,3 Phú Lương 86 23 48 13 2 5,2 Phú Bình 83 25 45 12 1 5,1 Tổng số 415 109 238 62 6 5,2 Qua những vấn đề chính nêu trên, chúng ta đã đánh giá được phần nào thực trạng kiến thức địa lý địa phương của giáo viên và học sinh phổ thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 nước ta hiện nay. Do đó, ngay từ bậc học tiểu học, thậm chí là mẫu giáo, mỗi người giáo viên cần thấy được trách nhiệm của bản thân cần phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản về quê hương đất nước, tích cực đi đầu trong việc nghiên cứu, sưu tầm các tài liệu địa lý địa phương từ nhiều nguồn thông tin, thường xuyên tích hợp chúng vào các bài lên lớp, khơi dậy lòng ham mê tìm tòi, hiểu biết của học sinh đối với cuộc sống xung quanh các em. 1.3. Vai trò của kiến thức địa lý địa phương đối với việc dạy học địa lý lớp 10 trường THPT Có nhiều biện pháp làm giàu kiến thức địa lý địa phương cho học sinh. Trong đó, tích hợp kiến thức qua các bài học địa lý ở tất cả các lớp mang lại hiệu quả cao hơn cả. Đặc điểm địa lý lớp 10 có nhiều thuận lợi cho việc hình thành và vận dụng kiến thức địa lý địa phương cho học sinh. Kiến thức cơ bản của lớp này là các khái niệm địa lý đại cương. Các bài học trong sách giáo khoa được trình bày theo con đường diễn dịch. Trình tự các kiến thức được thể hiện như sau: định nghĩa (hay nêu đặc điểm) khái niệm; làm rõ những đặc điểm (dấu hiệu) bản chất của khái niệm; cuối cùng là chứng minh cho những kiến thức trên bằng các sự vật và hiện tượng cụ thể. Thí dụ: bài 15 “Thuỷ quyển. Một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông lớn trên thế giới”, ngay tiêu đề của bài đã thể hiện logic này. Khi hướng dẫn học sinh nắm khái niệm cũng có thể theo hướng ngược lại - quy nạp: nêu những sự vật, hiện tượng cụ thể; tìm đặc điểm (dấu hiệu bản chất) của khái niệm; định nghĩa khái niệm. Như vậy, các sự vật và hiện tượng địa lý có vai trò quan trọng và không thể thiếu trong quá trình hình thành khái niệm. Chúng có thể là kiến thức minh hoạ cho khái niệm khi hình thành theo con đường diễn dịch, có thể là cơ sở để hình thành khái niệm khi sử dụng con đường quy nạp. Dù với vai trò nào, sự vật và hiện tượng đều làm tăng cường sức thuyết phục cho bài học và gây hứng thú cho học sinh. Đa số các bài trong sách giáo khoa địa lý lớp 10 đều có thành phần thứ ba này. Thí dụ: khu vực nâng lên Thuỵ Điển, Phần Lan, khu vực hạ xuống Hà Lan, đứt gãy sông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng