BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN TÂM HOÀNG
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số cn: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Phạm Thái
Học viên
: Nguyễn Tâm Hoàng
lớp
: Cao học luật, Phú Yên Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân. Mọi lập luận,
nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích, kiến nghị dưới sự hướng dẫn
của TS. Phạm Thái. Các số liệu, trích dẫn, trường hợp thực tiễn có nguồn gốc rõ ràng,
đảm bảo độ tin cậy, khách quan và chính xác.
Người cam đoan
Nguyễn Tâm Hoàng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS 2003
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS 2015
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
CQĐT
Cơ quan điều tra
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
CSĐT
Cảnh sát điều tra
ĐTV
Điều tra viên
NBC
Người bào chữa
TAND
Tòa án nhân dân
THTT
Tiến hành tố tụng
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. QUYỀN GẶP, HỎI NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI ....................................... 6
1.1. Nhận thức khái quát và quy định về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của
người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................... 6
1.1.1. Nhận thức khái quát về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào
chữa ........................................................................................................................... 6
1.1.2. Quy định về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa............... 7
1.2. Thực tiễn thực hiện quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa ...
................................................................................................................................... 13
1.2.1. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền gặp, hỏi người bị
buộc tội của người bào chữa .................................................................................. 13
1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền
gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa...................................................... 16
1.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người
bào chữa ................................................................................................................... 18
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật về quyền gặp,
hỏi người bị buộc tội của người bào chữa .............................................................. 18
1.3.2. Giải pháp khác nhằm bảo đảm thực hiện quyền gặp, hỏi người bị buộc tội
của người bào chữa ................................................................................................ 20
Kết luận Chương 1 ...................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2. QUYỀN THU THẬP, ĐƯA RA CHỨNG CỨ, TÀI LIỆU, ĐỒ VẬT,
YÊU CẦU ..................................................................................................................... 24
2.1. Nhận thức khái quát và quy định về quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam........................................................................................................................... 24
2.1.1. Nhận thức khái quát về quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật,
yêu cầu của người bào chữa ................................................................................... 24
2.1.2. Quy định về quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật, yêu cầu của
người bào chữa ....................................................................................................... 25
2.2. Thực tiễn hạn chế, vướng mắc trong thực hiện quyền thu thập, đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa và nguyên nhân ........... 30
2.2.1. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền thu thập, đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa ......................................... 30
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền thu
thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa .................... 40
2.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, yêu cầu của người bào chữa ............................................................................ 41
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật về thực hiện
quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa ... 41
2.3.2. Các giải pháp khác bảo đảm thực hiện quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa ............................................................... 43
Kết luận Chương 2 ...................................................................................................... 46
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong TTHS Việt Nam, NBC thực hiện chức năng bào chữa, góp phần bảo đảm
tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Từ đó quyền con người của
người bị buộc tội được bảo đảm.
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới yêu cầu “Nâng cao chất lượng công tố
của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác…Các cơ quan tư pháp phải có trách nhiệm
tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can,
nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”.
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử xác
định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá hoạt động tư pháp”. Điều
này cho thấy, các Nghị quyết của Bộ chính trị đã xác định việc nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động cấp thiết và mang tính quyết định đối với việc đổi
mới hoạt động tư pháp.
Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa hoặc người khác bào chữa”.
Kế thừa giá trị lập pháp trước đó, đồng thời thể chế hóa đường lối cải cách tư
pháp của Đảng và triển khai quy định của Hiến pháp, BLTTHS 2015 đã ghi nhận đầy
đủ nội dung Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (Điều 16) và
quy định một chương riêng về “Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự” (Chương V). Quyền và nghĩa vụ của NBC được quy định cụ thể trong một
điều luật (Điều 73). Điều đó chứng tỏ vị trí, vai trò của NBC và hoạt động bào chữa
ngày càng được coi trọng ở góc độ nhận thức và thực tiễn lập pháp.
Sự tham gia của NBC trong TTHS không chỉ giúp người bị buộc tội bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách
quan của vụ án; giúp quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng và chính xác,
đồng thời hạn chế oan sai. Tuy nhiên, vị trí vai trò của NBC chưa được nhận đầy đủ
2
và chưa thực sự đảm bảo thực hiện theo quy định của pháp luật và yêu cầu cải cách
tư pháp.
Trong thực tiễn xét xử, có những vụ án do người bị buộc tội thiếu nhận thức
đầy đủ, người thân thích của người bị buộc tội không thực hiện những hỗ trợ cho
người bị buộc tội từ bên ngoài, lý do không gặp được để trao đổi, do đó không thể
khắc phục hậu quả cho người bị hại (đối với một số vụ án xâm phạm tính mạng, sức
khỏe) để bồi thường thiệt hại cho bị hại và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án
xem xét, cung cấp các tài liệu khác như: Bằng khen, huân huy chương, bằng khen về
thi đua của người bị buộc tội cho CQTHTT. Hay như, vì còn nhiều nghi ngờ người bị
buộc tội không khai, chỉ khi có NBC thì họ thực sự yên tâm khai báo ra toàn bộ sự
việc hoặc giúp cho họ trình bày phản bác lại chứng cứ buộc tội của CQTHTT.
Với các quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội đã được quy định trong pháp
luật TTHS và để đảm bảo cho họ thực hiện đầy đủ những quyền theo quy định pháp luật
thì những người có điều kiện chuyên môn thực hiện những điều này đó là NBC. Tại
Điều 73 BLTTHS 2015 quy định: Quyền và nghĩa vụ của NBC; trong đó, Quyền của
NBC có rất nhiều quyền quy định từ điểm a đến điểm o Khoản 1 Điều 73 BLTTHS
(gồm 14 quyền). Thực tiễn áp dụng còn nhiều bất cập, do đó Luận văn ứng dụng này
tiếp tục nghiên cứu, phân tích những quy định trên để hoàn thiện và áp dụng trong thực
tiễn. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quyền của người bào chữa theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam”. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu về quyền gặp, hỏi người bị buộc
tội và quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của NBC.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chế định NBC là một trong những chế định cơ bản trong TTHS, chế định này
luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu rất nhiều ở nhiều góc độ khác nhau. Qua tìm
hiểu, tác giả đã tiếp cận được những công trình nghiên cứu sau có liên quan đến đề tài
luận văn:
Nhóm các tài liệu nghiên cứu cơ bản về luật TTHS như: Giáo trình luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, Trường Đại học luật TP. HCM (TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên,
Nhà xuất bản Hồng Đức, 2018); Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 (TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2018);
Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, (PGS.TS Nguyễn Hòa
Bình chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, 2016); Bình luận khoa học Bộ
luật TTHS năm 2015 (GS.TS Nguyễn Ngọc Anh, TS LS Phan Trung Hoài (đồng chủ
biên), NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2018).
3
Các tài liệu trên cung cấp những tri thức cơ bản chung về tố tụng hình sự, trong
đó có quyền và nghĩa vụ của NBC theo pháp luật TTHS hiện hành. Kết quả nghiên
cứu có giá trị kế thừa để tiếp cận đúng đắn về quyền của NBC. Tuy nhiên, việc trình
bày về quyền của NBC còn ở mức cơ bản và khái quát.
Nhóm các sách chuyên khảo như: Luật sư với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân của tác giả Nguyễn Thành Vĩnh do nhà sản xuất Pháp lý năm
1990; Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội của PTS. Phạm Hồng Hải do
nhà xuất bản Công an nhân dân năm 1999; Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự
của TS. Nguyễn Văn Tuân, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội năm 2001; Những
điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 của TS. Phan
Trung Hoài do nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2016.
Những tài liệu chuyên khảo nghiên cứu sâu hơn về quyền bào chữa và quyền
của NBC trong tố tụng, đặc biệt là tác giả Phan Trung Hoài đã có những phân tích sâu
về những điểm mới trong chế định bào chữa theo BLTTHS 2015. Vấn đề phát triển
quyền bào chữa gắn với cải cách tư pháp, bảo đảm tranh tụng được nhận thức qua các
nghiên cứu này.
Nhóm các luận văn, luận án: Luận văn thạc sỹ luật học Quyền gặp, hỏi người bị
buộc tội của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của tác giả
Nguyễn Văn Út (năm 2019); Luận văn thạc sỹ luật học Quyền của người bào chữa
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Thành Công (năm 2020); Luận
văn thạc sỹ luật học Thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào
chữa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Dũ (năm 2020). Các
luận văn thạc sỹ luật học này được bảo vệ tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh. Nội dung nghiên cứu trong các luận văn tập trung vào một số quyền cơ bản, phổ
biến của NBC cũng như thực tiễn áp dụng. Mặc dù các kết quả nghiên cứu của các tác
giả chưa được toàn diện vì tiếp cận ở góc độ giai đoạn tố tụng, tiếp cận một hoặc một
số quyền cơ bản của người bào chữa nhưng có giá trị kế thừa quan trọng cho những
nghiên cứu tiếp theo.
Tóm lại, tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy quyền của NBC được quy
định tại Điều 73, điển hình như quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; quyền thu thập, đưa
ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu vẫn còn nhiều bất cập, thiếu cơ chế để đảm bảo
các quyền đó được thực thi triệt để, được tôn trọng đúng mức; chưa có những quy định
rõ bắt buộc cơ quan tố tụng, người THTT phải có trách nhiệm xem xét, đánh giá có
chấp nhận đề nghị của NBC dựa trên các chứng cứ được thu thập; việc gặp, hỏi người
4
bị buộc tội khi áp dụng biện pháp ngăn chặn không cần phải có người giám sát…Các
công trình nghiên cứu nói trên đã phân tích, đánh giá các quy định BLTTHS 2015 về
quyền của NBC, từ đó đưa các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng trong thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là làm rõ những vấn đề pháp lý, thực tiễn về quyền cơ bản
của NBC liên quan đến hoạt động bào chữa (quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; quyền
thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu), từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm bảo đảm thực hiện những quyền này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả xác định cần phải thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích, đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về quyền gặp, hỏi người bị
buộc tội; quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quyền trên của NBC, đặc biệt là những vướng
mắc, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện quyền của NBC, gồm: quyền
gặp, hỏi người bị buộc tội; quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu bản chất pháp lý và thực tiễn thực hiện các quyền của NBC
được quy định tại điểm a, điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 và thực tiễn áp dụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nội dung của luận văn nghiên cứu quy định về quyền của người
bào chữa theo điểm a, điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015.
- Về thời gian: Thực tiễn thực hiện quyền của NBC được khảo sát, đánh giá từ
năm 2018 đến năm 2021.
- Về không gian: Thực tiễn về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; quyền thu thập,
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu được khảo sát, đánh giá trên phạm vi 04 tỉnh,
gồm: Phú Yên, Khánh Hòa, Long An và Đắk Lắk.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng để tiếp cận các vấn đề nghiên cứu trong luận
văn là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan điểm của
5
Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền
bào chữa trong lĩnh vực tư pháp cũng là phương pháp luận để nghiên cứu các vấn đề
trong luận văn.
Để thực hiện luận văn học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
trong khoa học pháp lý như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để làm rõ các vấn đề
nhận thức và thực tiễn về các quyền của NBC: quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; quyền
thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống pháp lý điển hình (có thực hiện quyền
bào chữa trong vụ án). Đó là các vụ án mà quá trình giải quyết có phát sinh khó khăn,
hạn chế khi NBC thực hiện quyền của mình. Đây là phương pháp nghiên cứu thực tiễn
quan trọng để thực hiện đề tài.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm có 2 chương, với cơ cấu như sau:
Chương 1. Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội
Chương 2. Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
6
CHƯƠNG 1
QUYỀN GẶP, HỎI NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
1.1. Nhận thức khái quát và quy định về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội
của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Nhận thức khái quát về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa
Hiến pháp năm 2013 quy định người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa từ rất sớm (thời điểm bị bắt, nếu bị bắt), tại khoản 4 Điều
31 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Đó cũng là cơ sở để
BLTTHS 2015 quy định về những quyền của NBC được tham gia tố tụng từ rất sớm,
trong đó có thực hiện các quyền gặp, hỏi để bào chữa và bảo vệ người bị buộc tội,
đồng thời góp phần vào hoạt động chứng minh vụ án, tránh oan sai. Cụ thể, điểm a
khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Gặp, hỏi người
bị buộc tội”.
Theo đó, “gặp” là giáp mặt, tiếp xúc1. Theo quy định pháp luật tố tụng, NBC có
quyền gặp người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) với mục
đích để hỏi, gặp để tìm hiểu tình tiết liên quan đến vụ án và thu thập chứng cứ, gặp để
động viên, thăm hỏi sức khỏe, tâm tư, nguyện vọng, chia sẻ, trấn an để thực hiện
quyền bào chữa. Trong từng giai đoạn tố tụng, NBC gặp người bị bắt, người bị tạm giữ
tại trụ sở của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
nhằm giúp NBC biết được đầy đủ thông tin về hành vi có dấu hiệu của họ, nắm bắt
được diễn biến, quá trình lấy lời khai, xác định đúng đắn sự thật khách quan vụ án.
NBC gặp bị can tại cơ sở giam giữ (nhà tạm giữ, trại tam giam) để hiểu rõ về sự thật
vụ án, tư vấn phương án trả lời trong những lần hỏi cung sau. NBC gặp bị cáo để trao
đổi, thống nhất phương án trình bày tại phiên tòa (sơ thẩm, phúc thẩm). Trong trường
hợp, NBC không được quyền gặp và gặp không kịp thời, điều này ảnh hưởng đến
quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội về trao đổi thông tin liên quan đến vụ án,
không được tư vấn, hỗ trợ về mặt pháp lý, từ đó ảnh hưởng đến quyền bào chữa trong
việc xác định sự thật vụ án.
“Hỏi” là nói với người khác việc mình muốn biết và muốn người ta trả lời
2
mình . Theo quy định pháp luật tố tụng, NBC có quyền hỏi người bị buộc tội (người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) với mục đích để thu thập chứng cứ, kiểm tra,
1
2
Bùi Đức Tịnh (2001), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, tr. 289
Bùi Đức Tịnh (2001), tlđd (1), tr. 353
7
đánh giá chứng cứ, để có kế hoạch, phương án bào chữa. NBC thực hiện quyền hỏi với
người bị buộc tội một cách chủ động về các tình tiết liên quan đến vụ án và khác với
quyền hỏi của NBC đối với người bị buộc tội sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của
người có thẩm quyền kết thúc. Quyền hỏi của NBC đối với người bị buộc tội là NBC
có thể hỏi thêm từ lời khai, lời trình bày của những người tham gia tố tụng, hỏi những
nội dung khác nhằm để chốt lại, phải giải thích rõ vì sao những nội dung để đảm bảo
tính khách quan về chứng cứ. Quyền hỏi của NBC trong trường hợp này, khác với hỏi
người bị buộc tội để thu thập chứng cứ. Như vậy, quy định NBC được quyền hỏi
người bị buộc tội so với NBC hỏi người bị buộc tội tại phiên tòa xét xử là có sự khác
nhau về trình tự xét hỏi theo Điều 307 BLTTHS 2015. Việc hỏi tại phiên tòa nhằm thu
thập bổ sung chứng cứ mới, kiểm tra chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của NBC là quyền mà luật TTHS cho
phép NBC được giáp mặt, tiếp xúc, hỏi người bị buộc tội nhằm động viên tinh thần
người bị buộc tội, tìm hiểu về vụ án và thu thập thông tin làm cơ sở cho hoạt động bào
chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.2. Quy định về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa
Điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 quy định: “NBC có quyền gặp, hỏi
người bị buộc tội”. Theo quy định này, NBC có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội đang
tại ngoại và người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam. Trước đây, điểm e khoản 2
Điều 58 BLTTHS 2003 chỉ quy định NBC có quyền “gặp người bị tạm giữ, gặp bị can,
bị cáo đang bị tạm giam”, chưa quy định quyền hỏi người bị buộc tội của NBC là một
thiếu sót. Pháp luật TTHS hiện hành cho phép NBC có quyền gặp, hỏi người bị buộc
tội là đã khắc phục được quy định này và được bảo đảm thực hiện qua các văn bản
pháp luật sau đây:
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, tại khoản 3 Điều 22 quy định:
“NBC được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy
định của BLTTHS và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người
bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân,
giấy tờ việc bào chữa”.
Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày
23/01/2018 của Bộ công an, Bộ quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng và viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi
hành tạm giữ, tạm giam. Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 10 của Thông tư này quy
8
định:“Khi nhận được văn bản thông báo NBC cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam
của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho NBC được gặp người bị
tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật. Trường hợp cần phải giám sát
cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phố hợp
với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát ”.
Ngoài ra, về thủ tục, Điều 80 BLTTHS 2015 quy định về gặp người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam: “1. Để gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, NBC phải xuất trình văn bản thông báo
NBC, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Thẻ
căn cước công dân. 2. Cơ quan quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đang bị tạm giam phải phổ biến nội quy, quy chế của cơ sở giam giữ và yêu cầu NBC
chấp hành nghiêm chỉnh”.
Như vậy, BLTTHS 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và Thông
tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 đều
quy định: NBC có quyền gặp, hỏi người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị cáo để thực
hiện việc bào chữa. Trường hợp NBC gặp, hỏi theo quy định này bất cứ giai đoạn tố
tụng nào và không hạn chế số lần, thời gian gặp; được hỏi, trao đổi hoàn toàn riêng tư
với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát theo quy định của cơ sở giam giữ mà
không bắt buộc có mặt của những người THTT hoặc phải được sự chấp thuận của Cơ
quan đang thụ lý giải quyết3. Có thể nói, điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 là
quy định gặp riêng giữa NBC và người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam. Đây là
quy định mới về quyền của NBC. Quy định này hoàn toàn khác với quy định NBC có
mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can của người
có thẩm quyền tiến hành theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 73BLTTHS 20154.
Để đảm bảo việc thực hiện quyền của NBC được gặp, hỏi người bị buộc tội,
Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an quy định trách nhiệm
của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của BLTTHS 2015
liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người
bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố; cụ thể tại khoản 3 Điều 12 quy định: “NBC có thể thông báo
trước việc gặp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ,
Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về chế định bào chữa trong BLTTHS năm 2015, tr. 239
Nguyễn Văn Út (2019), Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của NBC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
Luận văn thạc sỹ
3
4
9
bị can đang bị tạm giam cho ĐTV, Cán bộ điều tra đang thụ lý vụ án. Việc gặp người
bị tạm giữ, người bị tạm giam của NBC được thực hiện trong giờ làm việc của cơ sở
giam giữ. CQĐT, Cơ sở giam giữ không được hạn chế số lần và thời gian trên một lần
gặp của NBC với người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam. NBC phải tuân thủ quy
định của BLTTHS 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, các văn bản
hướng dẫn thi hành và nội quy cơ sở giam giữ”. Quy định này, tạo điều kiện thuận lợi
cho NBC gặp người bị buộc tội một cách dễ dàng, có thể thông báo trước cho ĐTV,
Cán bộ điều tra đang thụ lý để họ sắp xếp thời gian theo lịch đã đăng ký. Khi gặp
người bị buộc tội, NBC thực hiện theo quy định tại Điều 80 BLTTHS 2015 và phải
tuân thủ, chấp hành các quy định tại những nơi NBC được bố trí gặp người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.
Như vậy, từ những quy định pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành đã khẳng định,
NBC đương nhiên có quyền và chủ động tiến hành gặp người bị buộc tội đang bị tạm
giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với
các tội xâm phạm an ninh quốc gia theo quy định tại Điều 74 BLTTHS 20155.
Thông qua hoạt động gặp, hỏi người bị buộc tội khi bị bắt, bị tạm giữ trong giai
đoạn chưa có quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, NBC nắm bắt đầy đủ, kịp thời, chính xác tình tiết vụ án, từ đó thu thập chứng cứ từ
lời trình bày của người bị buộc tội. Do đó, việc tiếp xúc trực tiếp để hỏi họ về những
tình tiết liên quan, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị buộc tội và hạn chế oan sai. Như vậy, BLTTHS 2015 đã quy
định về quyền của NBC gặp, hỏi người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam, kể cả
trường hợp người bị buộc tội đang được tại ngoại.
Ngoài những quy định cho phép NBC gặp, hỏi người bị buộc tội đang bị tạm
giữ, tạm giam thì pháp luật thi hành tạm giữ, tạm giam hiện hành cũng quy định những
trường hợp NBC bị từ chối quyền gặp, hỏi. Theo khoản 4 Điều 22 Luật thi hành tạm
giữ, tạm giam năm 2015:“Thủ trưởng cơ sở giam giữ không đồng ý cho thăm gặp
người đang bị tạm giữ, tạm giam trong các trường hợp sau đây và phải nêu rõ lý do:
NBC không xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa cho người bị tạm giữ,
người bị tạm giam; Trường hợp khẩn cấp để bảo vệ an toàn cơ sở giam giữ hoặc để tổ
chức truy bắt người bị tạm giữ, người bị tạm giam bỏ trốn; Khi có dịch bệnh xảy ra
khu vực có cơ sở giam giữ; Khi cấp cứu người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc khi
Nguyễn Thành Công (2020), Thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ
5
10
người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A; Khi đang
lấy lời khai, hỏi cung hoặc người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang tham gia các
hoạt động tố tụng khác; Người bị tạm giữ, người bị tạm giam không đồng ý gặp;
trường hợp này, người thân gặp được trực tiếp gặp người bị tạm giữ, người bị tạm
giam để xác nhận việc không đồng ý gặp; Người đến thăm gặp cố ý vi phạm nội quy
của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ từ hai lần trở lên; Người bị tạm giữ,
người bị tạm giam đang bị kỷ luật theo quy định tại khoản 3 Điều 23 của Luật này”.
Có thể thấy, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã liệt kê cụ thể từng trường hợp, trong
đó có những quy định liên quan đến NBC và đối với người có thẩm quyền. Quy định
trên vừa tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng cho NBC trong hoạt động hành nghề,
đồng thời cũng hạn chế sự tùy tiện và tình huống có rủi ro khi giải quyết thủ tục gặp
người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam của NBC.
Được sự đồng ý của cơ sở giam giữ, NBC được bố trí phòng làm việc và gặp
người bị buộc tội. Công việc đầu tiên và quan trọng nhất của NBC là tự giới thiệu bản
thân, thông báo cho họ về nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích; NBC phải giải thích rõ
quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định pháp luật TTHS, từ giao tiếp ban đầu tạo ra sự
tin tưởng đối với mình. Khi đã có sự tin tưởng từ phía người bị buộc tội, NBC đề nghị
họ trình bày một cách trung thực về toàn bộ những gì họ biết về vụ án. Sau khi lắng
nghe lời trình bày và ghi chép những tình tiết liên quan đến vụ án kết hợp nhiều nguồn
tin khác nhau, NBC đặt những câu hỏi với người buộc tội để họ trình bày. Để việc gặp,
hỏi đạt kết quả, NBC cần dự kiến trước nội dung cuộc gặp, chuẩn bị câu hỏi ngắn gọn,
rõ ràng, dễ hiểu, câu hỏi gợi mở để người bị buộc tội trả lời trọng tâm, đúng bản chất
vụ án và NBC ghi chép nội dung câu trả lời. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật tố tụng
chưa quy định cụ thể những vấn đề mà NBC khi gặp, hỏi người bị buộc tội là ghi nhận
cuộc trao đổi, lập biên bản NBC với người bị buộc tội, phạm vi hỏi và trả lời, những
nội dung cần trao đổi. Trường hợp lời trình bày của người bị buộc tội có ý nghĩa làm
sáng tỏ sự thật vụ án thì NBC ghi nhận kết quả dưới hình thức nào6. Nếu có thủ tục lập
biên bản ghi lời khai đối với người bị buộc tội thì biên bản này có xác nhận của cơ sở
giam giữ hay không? Trường hợp người bị buộc tội tự viết bản trình bày có chữ ký của
NBC và xác nhận cơ sở giam giữ thì NBC có quyền mang ra khỏi cơ sở giam giữ hay
không? Bởi lẽ dựa vào tài liệu này, trên cơ sở nắm bắt được nội dung cơ bản vụ án,
NBC xét thấy cần thiết phải gửi văn bản kiến nghị, đề xuất với CQTHTT một số nội
Nguyễn Văn Dũ (2020), Thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật lien quan đến việc bào chữa theo luật TTHS
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ
6
11
dung có liên quan đến vụ án để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Ví dụ,
đề xuất việc lấy lời khai của một người nào đó biết rõ sự việc. Trường hợp, NBC sử
dụng những tài liệu làm việc với người bị buộc, những tài liệu này có được xem là
chứng cứ hay không7. Như vậy, BLTTHS 2015 chưa quy định kết quả cuộc gặp và hỏi
giữa NBC và người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam và kể cả trường hợp người
bị buộc tội đang được tại ngoại.
Từ những quy định của BLTTHS 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm
2015 và Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày
23/01/2018 của Bộ công an, Bộ quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao cho thấy: quy định mới về thủ tục đăng ký bào chữa đã bỏ cơ chế xin –
cho, chuyển hóa thành nghĩa vụ, trách nhiệm của CQTHTT, trong vòng 24 giờ phải gửi
văn bản thông báo cho NBC và cơ sở giam giữ để NBC thực hiện nghĩa vụ của mình;
thủ tục gặp, hỏi người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam của NBC được quy định rất
chặt chẽ; hạn chế cơ quan, người có thẩm quyền gây khó khăn cho NBC và đảm bảo,
tạo điều kiện thuận lợi cho NBC khi gặp người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam.
Như vậy, so với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 bãi bỏ thủ tục hành chính thông qua
việc hủy bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC thay bằng thủ tục đăng ký8, rút ngắn thời
hạn chấp nhận đăng ký bào chữa từ ba ngày theo khoản 4 Điều 56 BLTTHS 2003 xuống
còn 24 giờ kể từ khi nhận đủ các giấy tờ quy định tại khoản 4 Điều 78 BLTTHS 2015.
Có thể nói quy định như hiện nay là minh bạch, rõ ràng nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho NBC nhanh chóng tham gia vụ án, thực hiện các quyền pháp luật quy định, trong đó
có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội đang bị tam giữ, tạm giam của NBC.
Vấn đề đáng được quan tâm, đó là NBC khi gặp, hỏi người bị buộc đang bị tạm
giữ, tạm giam bị giám sát trực tiếp từ CQTHTT, người THTT. Thấy rằng, BLTTHS 2015
và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 không điều khoản nào quy định trong quá
trình tham gia tố tụng vụ án hình sự, khi NBC gặp, hỏi người bị buộc tội tại các cơ sở
giam giữ phải có sự giám sát từ phía CQTHTT, người THTT. Tuy nhiên, Thông tư liên
tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 của Bộ công
an, Bộ quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định:
“Trường hợp cần giám sát việc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan
đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Nếu người bị tạm giữ,
người bị tạm giam và NBC có hành vi vi phạm nội quy cơ sở giam giữ hoặc cản trở việc
7
8
Phan Trung Hoài (2016), tlđd (3), tr. 239
Điều 78 BLTTHS 2015
12
giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền giám sát phải dừng ngay cuộc gặp và lập biên
bản, báo cáo với thủ trưởng cơ sở giam giữ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang
thụ lý vụ án biết để xử lý”9. Như vậy, trường hợp Thủ trưởng, người có thẩm quyền quyết
định giám sát việc gặp giữa NBC và người bị buộc tội thì ngoài sự giám sát của cơ sở
giam giữ, còn chịu sự giám sát trực tiếp của người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý
vụ án. Nhận thấy, quy định pháp luật tố tụng cho phép NBC có quyền gặp riêng với người
bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam không hạn chế số lần và thời gian. Do vậy, người có
thẩm quyền giám sát cuộc gặp này đã hạn chế khả năng hoạt động nghề nghiệp của NBC
và đã không cho phép NBC được trao đổi riêng tư với người bị buộc tội. Việc giám sát
NBC khi NBC tiếp xúc với người bị tạm giữ/ bị can trong trại giam chỉ nên là giám sát
tầm nhìn mà không nên giám sát tầm nghe10 để tạo điều kiện cho bị can được chủ động,
thỏa mái trao đổi với NBC. Ý kiến này xuất phát từ quan điểm, người bị tạm giữ, bị can
đang bị tạm giam chỉ mất tự do và họ chưa phải là tội phạm, do vậy, những quyền công
dân khác của họ cần được đảm bảo bao gồm quyền gặp riêng Luật sư để tư vấn, trao đổi,
thông tin11. Trong hoàn cảnh này, người bị buộc tội rất cần sự hỗ trợ về mặt pháp lý từ
NBC, họ rất muốn được trao đổi riêng với NBC về diễn biến sự việc xảy ra và những tình
tiết có liên quan để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Bên cạnh quy định quyền gặp, hỏi của NBC trong quá trình điều tra, truy tố thì
NBC được quyền gặp, hỏi người bị buộc tội đang bị tạm giam sau phiên tòa sơ thẩm.
Tại khoản 6 Điều 78 BLTTHS 2015 quy định: “Văn bản thông báo đăng ký bào chữa
có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp: Người bị
buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi NBC; Người đại diện hoặc người thân thích của
người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề
nghị thay đổi NBC”. Theo BLTTHS 2015, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa
ra xét xử, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án và thời hạn kháng
cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm12. Như vậy, sau khi
kết thúc phiên tòa sơ thẩm, NBC có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội và trao đổi kết
quả xét xử sơ thẩm và hướng dẫn thủ tục viết kháng cáo (trường hợp người bị buộc tội
nhận thấy kết quả xét xử chưa đúng). Tùy từng vụ án cụ thể, NBC hướng dẫn viết đơn
kháng cáo kêu oan, đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đơn kháng cáo một phần
bản án sơ thẩm (về quyết định hình phạt hoặc trách nhiệm bồi thường dân sự), đề nghị
Khoản 3, Điều 10 TTLT ngày 23/01/2018
Phan Trung Hoài (2016), tlđd (3), tr. 233
11
Phan Trung Hoài (2016), tlđd (3), tr. 88
12
Khoản 1, Điều 333BLTTHS năm 2015
9
10
13
hủy bỏ các quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế (nếu có) gửi đến Tòa án đã xét xử
sơ thẩm và Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm. NBC trao đổi người bị buộc tội
để họ bổ sung những tình tiết liên quan vụ án hoặc yêu cầu thu thập thêm tài liệu,
chứng cứ để chuẩn bị phiên tòa xét xử phúc thẩm.
Trên cơ sở ghi nhận Hiến pháp năm 2013, BLTTHS 2015 quy định NBC có
quyền gặp, hỏi người bị buộc tội và đảm bảo việc thực hiện quyền gặp, hỏi người bị
buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, văn bản pháp luật hướng dẫn việc thực
hiện quyền gặp, hỏi người bị buộc tội đã bổ sung thêm quy định giám sát cuộc gặp,
điều này đã gây khó khăn việc trao đổi thông tin giữa NBC với người bị buộc tội. Do
vậy, cần sửa đổi quy định trong văn bản pháp luật về quy định giám sát cuộc gặp của
người có thẩm quyền giữa NBC với người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam.
1.2. Thực tiễn thực hiện quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa
1.2.1. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền gặp, hỏi người bị
buộc tội của người bào chữa
Thứ nhất, tình trạng CQĐT chưa cấp thông báo đăng ký bào chữa cho NBC
đúng thời hạn luật định. Sau khi đã tiếp nhận đầy đủ các loại giấy tờ theo quy định
pháp luật TTHS nhưng CQĐT chưa cấp thông báo đăng ký bào chữa làm ảnh hưởng
đến quyền của NBC gặp, hỏi người bị buộc tội.
Thực tiễn qua vụ án Phan Ngọc Ty, sinh năm 1993 bị Cơ quan CSĐT – Công an
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ra quyết định khởi tố vụ án hình sự số 14 ngày
24/8/2020 và quyết định khởi tố bị can số 15 ngày 26/8/2020 và thông báo số 02/TBCQCSĐT ngày 26/8/2020 về việc khởi tố bị can và bắt bị can để tạm giam thuộc vụ án
“Cướp giật tài sản” xảy ra tại khu phố Long Hà, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân,
tỉnh Phú Yên vào ngày 23/8/2020 và tại thôn Tân Phú, xã Xuân Sơn Nam, huyện Đồng
Xuân, tỉnh Phú Yên vào ngày 24/8/2020. Ngày 04/9/2020 (thứ sáu), mẹ ruột bị can –
bà Phan Thị Thanh có đơn yêu cầu Luật sư (tác giả của luận văn) tham gia tố tụng để
bào chữa cho Phan Ngọc Ty. Ngày 07/9/2020 (thứ hai), Luật sư đến trực tiếp Cơ quan
CSĐT để nộp đơn đăng ký bào chữa, đính kèm tài liệu theo luật định để bào chữa cho
Phan Ngọc Ty. Hết thời hạn cấp thông báo đăng ký bào chữa theo khoảng 4 Điều 78
BLTTHS 2015, Luật sư liên lạc nhiều lần nhưng không nhận được văn bản chấp nhận
hoặc từ chối từ phía Cơ quan CSĐT. Trước sự việc này, ngày 17/9/2020, Luật sư đã
trực tiếp nộp đơn kiến nghị về việc cấp thông báo đăng ký bào chữa. Ngày 18/9/2020,
Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đồng Xuân đã trực tiếp cấp thông báo về việc đăng
ký bào chữa số 533/CQCSĐT ngày 16/9/2020 cho NBC sau 14 ngày kể từ ngày nộp
14
thủ tục. Như vậy, cơ quan CSĐT – Công an huyện Đồng Xuân cấp thông báo đăng ký
bào chữa cho NBC không đúng thời hạn là vi phạm thủ tục. Trường hợp, cơ quan
CSĐT cấp thông báo đăng ký bào chữa đúng thời hạn luật định, NBC chủ động gặp bị
can Phan Ngọc Ty để hỏi và trao đổi những tình tiết vụ án; qua đó chia sẽ, động viên
tâm lý giúp bị can bình tĩnh, tự tin trong các buổi hỏi cung tiếp theo nhằm đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho người bị buộc tội.
Thứ hai, quyền chủ động gặp, hỏi riêng với người bị buộc tội đang bị tạm giữ,
tạm giam sau khi được cấp thông báo đăng ký bào chữa chưa được bảo đảm.
Thực tiễn cụ thể trường hợp này: Vụ án “Tham ô tài sản tài sản xảy ra tại Công
ty TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi Nam Khánh Hòa”, bị can bị tạm giam đã
yêu cầu có luật sư bào chữa. Trong quá trình điều tra,các luật sư đăng ký bào chữa đã
được cơ quan CSĐT thông báo tham dự các buổi hỏi cung, đối chất theo điểm b, c
khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015. Sau khi kết thúc buổi hỏi cung, đối chất, NBC đề
nghị được gặp riêng bị can nhưng chưa được giải quyết. Khi thời hạn điều tra sắp hết,
NBC tiếp tục có văn bản đề nghị cơ quan CSĐT giải quyết cho NBC được gặp riêng bị
can đang tạm giam nhưng cũng chưa được giải quyết13.
Thực trạng này còn được chứng minh qua vụ án Mai Đắc Thạch, sinh năm 1992
bị cơ quan CSĐT – Công an thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên khởi tố và bắt tạm giam
ngày 27/11/2020 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Sau khi được cấp thông báo về
việc đăng ký bào chữa số 31/CSĐT ngày 10/12/2020. Luật sư gửi thông báo đến cơ
quan CSĐT và nhà tạm giữ - Công an thành phố Tuy Hòa về thời gian làm việc với bị
can Mai Đắc Thạch. Tại buổi gặp và trao đổi với Luật sư có sự giám sát của ĐTV trực
tiếp điều tra vụ án, bị can đã đề nghị Luật sư giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của bị
can; bị can có quyền đề nghị thay đổi ĐTV hay không? với lý do, ĐTV đã hướng dẫn
lời trình bày tại biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can nhưng các nội dung
trong biên bản này không đúng tình tiết diễn biến của vụ án. Khi Luật sư chuẩn bị giải
thích quyền và nghĩa vụ của bị can, trong đó có quyền đề nghị thay đổi ĐTV theo Điều
60 BLTTHS 2015 thì ngay tức khắc ĐTV đang có mặt giám sát cuộc gặp lên tiếng và
cho biết bị can không có quyền thay đổi ĐTV.
Trong một vụ án khác, vụ Dương Ngọc Long, sinh năm 1992 – bị cơ quan
CSĐT – Công an huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên khởi tố và bắt tạm giam ngày
04/01/2021 về tội “Cố ý gây thương tích”. Sau khi được VKS nhân dân huyện Đồng
Nguyễn Hồng Hà (2018) “Người bào chữa chưa thực hiện quyền gặp người bị buộc tội, bị tạm giam”. Tạp chí
điện tử Luật sư Việt Nam. https://lsvn.vn/nguoi-bao-chua-chua-thuc-hien-duoc-quyen-gap-nguoi-bi-buoc-toi-bitam-giam.htm ngày truy cập ngày 10/8/2021.
13
- Xem thêm -