BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------
LÒ HẢI YẾN
QUAN NIỆM VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
TRONG LUẬT TỤC THÁI VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƯỜI THÁI
Ở SƠN LA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------
LÒ HẢI YẾN
QUAN NIỆM VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
TRONG LUẬT TỤC THÁI VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƯỜI THÁI
Ở SƠN LA HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số
: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ DUY HOA
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Lê Duy Hoa, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu có liên
quan đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm
bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả
Lò Hải Yến
LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau đại học và các
phòng ban khác của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
cho em được học tập, nghiên cứu tại quý trường. Xin chân thành cảm ơn các
thầy cô giáo khoa Triết học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em trong suốt
thời gian qua.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thư viện tỉnh Sơn La, Thư
viện huyện Quỳnh Nhai đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em được nghiên cứu,
tìm hiểu trong quá trình thực hiện Luận văn.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến
TS. Lê Duy Hoa, cán bộ giảng dạy khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, là người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho em trong quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học
của mình.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ
và động viên tác giả Luận văn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả
Lò Hải Yến
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 8
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu........................................................ 8
5. Giả thuyết khoa học ................................................................................ 8
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 9
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................. 9
8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 9
9. Cấu trúc Luận văn................................................................................... 9
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của Luận văn .................... 9
Chương 1: KHÁT QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI VÀ LUẬT TỤC THÁI Ở
VIỆT NAM ............................................................................................ 11
1.1. Người Thái ở Việt Nam và người Thái ở Sơn La hiện nay................ 11
1.1.1. Lịch sử hình thành, tên gọi, địa bàn cư trú ..................................... 11
1.1.2. Đặc trưng văn hóa của người Thái.................................................. 16
1.1.3. Người Thái ở Sơn La hiện nay........................................................ 22
1.2. Luật tục Thái và quan niệm về đạo làm người trong luật tục Thái.......... 25
1.2.1. Một số khái niệm: luật tục, luật tục Thái và đạo làm người ........... 25
1.2.2. Nội dung của Luật tục Thái ............................................................ 31
1.2.3. Quan niệm về đạo làm người trong Luật tục Thái .......................... 34
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
TRONG LUẬT TỤC THÁI ĐẾN ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI
THÁI Ở SƠN LA HIỆN NAY ...................................................... 44
2.1. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục
Thái đến đời sống vật chất của người Thái ở Sơn La ........................ 44
2.1.1. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục
Thái đến lao động, sản xuất ............................................................ 45
2.1.2. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục
Thái đến việc phòng ngừa tội phạm ............................................... 47
2.2. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục Thái đến
đời sống tinh thần của người Thái ở Sơn La ....................................... 52
2.2.1. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục
Thái đến giáo dục ý thức học tập, sáng tạo .................................... 52
2.2.2. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục
Thái đến xây dựng đoàn kết cộng đồng ......................................... 55
2.2.3. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục
Thái đến việc xây dựng hôn nhân, gia đình ................................... 58
2.2.4. Ảnh hưởng của quan niệm về đạo làm người trong Luật tục
Thái đến việc phòng, chống quan liêu, tham nhũng....................... 61
2.3. Giá trị của quan niệm về đạo làm người trong đời sống người
Thái ở Sơn La hiện nay ........................................................................... 62
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 68
PHỤ LỤC.......................................................................................................... 72
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang ở trong thế kỷ XXI - thế kỷ của hội nhập và toàn cầu
hóa. Nước Việt Nam ta cũng không nằm ngoài xu thế đó. Mọi mặt của đời
sống nước nhà đang biến chuyển và thay đổi mạnh mẽ. Trước sức mạnh của sự
bùng nổ thông tin, mạng xã hội, du nhập văn hóa đa sắc màu, nền văn hóa của
nước ta đang bị đe dọa một cách đáng báo động. Vấn đề gìn giữ và phát huy
bản sắc văn hóa, đặc biệt là văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là một vấn đề lớn
và mang tính thời sự. Nghị quyết 5, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng
Sản Việt Nam (Khóa VIII) đã đề ra 10 nhiệm vụ cụ thể nhằm xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt nhấn
mạnh việc “coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và phát
triển những giá trị mới về văn hóa, văn hóa các dân tộc thiểu số”.
Văn hóa Thái với sự đa dạng những giá trị văn hóa vật chất cũng như
văn hóa tinh thần của mình, từ lâu đã được biết đến với vai trò là một nền văn
hóa lớn, nó còn được coi là văn hóa đại diện cho vùng Tây Bắc. Luật tục
người Thái, trong đó có đạo lý làm người là một yếu tố cấu thành nên văn hóa
Thái. Đạo lý làm người cũng như các nội dung khác trong hệ thống Luật tục
giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng dân cư, xây dựng
tính đoàn kết, điều hòa xã hội và trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Thái. Đặc biệt, nó có sức ảnh hưởng to lớn tới sinh hoạt của cộng
đồng người Thái nói chung cũng như hình thành hành vi và nhân cách của
mỗi cá nhân nói riêng.
Đạo lý làm người (đạo làm người) trong văn hóa Việt Nam nói chung
không phải là một vấn đề mới, tuy nhiên đạo lý làm người trong Luật tục Thái
cũng như những ảnh hưởng hiện tồn của nó đến đời sống của dân tộc Thái
hiện nay lại là một vấn đề chưa được nghiên cứu nhiều.
2
Sơn La - xứ sở hoa ban huyền thoại của vùng Tây Bắc nước ta, nơi
sinh sống của mười hai dân tộc anh em, trong đó người Thái chiếm đến 54%
dân số toàn tỉnh. Sơn La - mảnh đất “hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc” đang
dần thay da đổi thịt với sự vươn mình phát triển trong cả ba mặt trận: Kinh
tế, chính trị, văn hóa. Và đúng như tên gọi của ba mặt trận ấy, để phát triển
một cách toàn diện thì mặt trận văn hóa, mà đặc biệt là việc gìn giữ, phát
huy văn hóa tộc người Thái ở địa phương là một trong những thách thức và
yêu cầu cấp bách được đặt ra. Đạo lý làm người hay những lệ luật khác
trong bản Luật tục Thái cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng đến đại bộ
phận người Thái nơi đây.
Với tư cách là một người con dân tộc Thái cư trú lâu năm tại mảnh đất
Sơn La anh hùng.Tác giả tự hào và muốn đóng góp những nghiên cứu của
mình vào công cuộc gìn giữ văn hóa Thái nói chung và văn hóa của người
Thái ở Sơn La nói riêng. Đây không phải là lần đầu tiên tác giả đi nghiên cứu,
tìm hiểu về văn hóa dân tộc Thái và mỗi lần nghiên cứu tác giả lại đi sâu vào
những khía cạnh mới và hấp dẫn hơn. Qua những nghiên cứu của mình tác giả
luôn cố gắng thể hiện một cách sinh động nhất bức tranh văn hóa Thái, qua đó
thể hiện tình yêu quê hương và dân tộc mình.
Với những lý do nêu trên, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Đạo lý
làm người trong Luật tục Thái và ảnh hưởng của nó đến đời sống của
người Thái ở tỉnh Sơn La hiện nay” làm Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nền văn hóa Tây Bắc (trong đó có tỉnh Sơn La) là nền văn hóa giàu
tính cội nguồn, tính bản địa và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Với sự phong phú và sinh động của mình, văn hóa Thái luôn là một chủ đề
nghiên cứu hấp dẫn.
• Về người Thái ở Việt Nam, người Thái ở Sơn La
Đầu tiên, có thể kể đến cuốn “Dân tộc Thái” của Nguyễn Quang Lập
biên soạn, NXB Kim Đồng năm 2005. Trong đó trình bày một số nét về
3
nguồn gốc, phong tục, tập quán, quan hệ cộng đồng, hôn nhân, tang lễ và ẩm
thực của dân tộc Thái.
Hay cuốn “Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam” của tác giả
Cầm Trọng, NXB Chính trị Quốc Gia năm 2005 đã giới thiệu về văn hóa Thái
trong lịch sử Việt Nam, sự phân chia thành các vùng văn hóa và nhóm địa
phương, quang cảnh tự nhiên nơi người Thái cư trú và sinh hoạt kinh tế, vấn
đề ăn uống, quan hệ gia đình và một số nét cơ bản về văn hóa phi vật thể của
người Thái ở Việt Nam.
Cũng một ấn phẩm khác của tác giả Cầm Trọng, đó là “Người Thái ở
Tây Bắc Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội năm 1978. Với nội dung tương tự,
cuốn này nói về những nét đặc trưng về đời sống dân tộc, sự hình thành các
nhóm Thái ở Tây Bắc nước ta, về quan hệ kinh tế, xã hội, quá trình biến đổi
cách mạng của người Thái từ khi có Đảng lãnh đạo.
Ngoài ra, có thể kể đến tác phẩm “Văn hóa Thái - những tri thức dân
gian” của tác giả Đặng Thị Oanh, NXB Thanh niên, 2011, giới thiệu khái
quát về văn hóa của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, đồng thời tìm hiểu tri
thức dân gian về hoa ban, cầu thang, nhà sàn cũng như phong tục và tín
ngưỡng của người Thái.
Nói về lễ hội Kin Pang Then của người Thái, ấn phẩm “Kin Pang Then
của người Thái trắng” của tác giả Đỗ Thị Tấc, NXB Văn hóa dân tộc, năm
2009, giới thiệu cho độc giả về người Thái Trắng, đặc biệt là các loại hình
sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh của người Thái và Lễ hội Kin Pang Then.
Cuốn “Phong tục tập quán các dân tộc ở Việt Nam” của nhóm tác giả
Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao và Hoàng Văn Trụ, NXB Văn hóa dân
tộc (năm 2011) giới thiệu về lễ Tết, tục hội, ẩm thực, hôn nhân, sinh đẻ, đặt
tên, tang ma, tín ngưỡng của một số các dân tộc ở Việt Nam, trong đó có dân
tộc Thái.
4
Hay giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” do Trần Quốc Vượng chủ
biên (năm 2008) của NXB Giáo dục trình bày sơ lược về đặc điểm văn hóa
Thái vùng Tây Bắc.
Ngoài ra còn có công trình “Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày,
Nùng, Thái ở Việt Nam” của Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, NXB Khoa học
xã hội (năm 1968) có đề cập tới sự hình thành, phát triển của dân tộc Thái ở
Việt Nam nói chung.
Về người Thái ở Sơn La, có thể nhắc đến công trình “Vài nét về người
Thái ở Sơn La” của tác giả Vi Trọng Liên, NXB Văn hóa dân tộc, năm 2002.
Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại ở mức độ trình bày sơ lược về người Thái
ở tỉnh Sơn La như tên gọi, các ngành, lời răn dạy cho con cháu của người
Thái ở Sơn La, công trình còn khá sơ lược.
Hay Luận văn Thạc sĩ sử học của tác giả Nguyễn Thị Luyến với đề tài
“Đời sống văn hóa dân tộc Thái ở Sơn La” năm 2010. Qua đó tác giả không
những mô tả lại bức tranh về đời sống vật chất, mà còn có cả những nét văn
hóa về đời sống tinh thần của người Thái ở tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, công trình
này còn mang tính sơ bộ, phạm vi còn hạn chế, chưa phản ánh được toàn bộ
bức tranh văn hóa Thái ở tỉnh Sơn La.
Phải kể đến công trình “Văn hóa dân gian người Thái vùng Mộc Châu,
Phù Yên, Bắc Yên tỉnh Sơn La” của tác giả Lò Vũ Vân, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội (năm 2011). Trong đó tác giả đi giới thiệu chung về vùng đất và
nguồn gốc của người Thái ở Mộc Châu, Bắc Yên và Phù Yên của tỉnh Sơn
La. Công trình còn đề cập đến một vài tín ngưỡng tiêu biểu và các bài ca
trong nghi lễ của người Thái trong phạm vi nghiên cứu nhất định.
Các công trình và ấn phẩm kể trên là những công trình tiêu biểu về vấn
đề văn hóa Thái ở Việt Nam cũng như văn hóa Thái Sơn La. Ngoài ra, còn có
rất nhiều công trình khác.
5
• Về Luật tục các dân tộc và Luật tục Thái
Tình hình sưu tầm, nghiên cứu Luật tục ở Việt Nam khá sôi nổi, thành
phần các tác giả cũng đa dạng, từ học giả phương Tây cho đến phương Đông
và trong nước.
Giữa thế kỷ XX, P.Guilleminnet xuất bản tại Paris tập sách “Luật tục
những bộ lạc Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai ở tỉnh Kon Tum” do Viện Viễn Đông
Bác cổ ấn hành bằng tiếng Pháp năm 1952.
Một tác giả nước ngoài khác là Gerbair cũng công bố sưu tập về “Luật tục
của người Xtiêng” trên tạp chí của Viện Viễn Đông Bác cổ vào giữa thế kỷ XX.
Cho đến năm 1995, nhóm nghiên cứu trong nước gồm Chu Thái Sơn,
Nguyễn Hữu Thấu và GS. Ngô Đức Thịnh đã giới thiệu tác phẩm song ngữ
Luật tục Ê Đê, NXB Chính trị quốc gia ấn hành (năm 1996).
Sau thành công của công trình, thời gian sau nhiều học giả khác tiếp tục
công bố các công trình như: Luật tục Mơ nông, Luật tục Gia Rai,…
Ngoài ra, còn có các nghiên cứu về Luật tục của người Tà ÔI, Cơ Tu,
Bru - Vân Kiều do nhóm tác giả Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Xuân Hồng và
Nguyễn Hữu Thông thực hiện được công bố trong cuốn sách Luật tục của
người Tà Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, NXB
Thuận Hóa, Huế (năm 2001).
Năm 2000, GS. Ngô Đức Thịnh và GS. Phan Đăng Nhật chủ biên cuốn
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở
Việt Nam do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia và Ủy ban
Nhân dân tỉnh Đắc Lắc tổ chức tại Buôn Ma Thuột. Cuốn Kỷ yếu gồm bốn
phần trình bày các vấn đề chung của Luật tục cũng như ảnh hưởng của nó
trong một số vấn đề bảo tồn, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên; quản lý
xã hội và văn hóa; và mối tương quan của luật tục với luật pháp.
Ngoài công trình trên, đến năm 2003, GS. Ngô Đức Thịnh công bố
thêm cuốn Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam”. Cuốn sách hệ
6
thống lại một số vấn đề đã và đang đặt ra trong quá trình nghiên cứu luật
tục các dân tộc.
Một cuốn sách nữa của GS. Phan Đăng Nhật cũng đi nghiên cứu vấn đề
Luật tục đó là Luật tục với đời sống, NXB Tư Pháp (năm 2007). Trong đó, tác
giả nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa Luật tục và xã hội; sự khác biệt giữa
Luật tục của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và Lệ mường của người Mường
và người Thái ở phía Bắc.
Về Luật tục Thái, trong cuốn sách Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc
Thái của các tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng, Khà Văn Tiến và Tòng
Kim Ân đã bước đầu đi giới thiệu một số “Lệ mường” của người Thái ở Mai
Châu, Hòa Bình. Nhóm tác giả cũng đi đề cập thêm “Tục lệ người Thái Đen ở
Thuận Châu” sưu tầm được từ văn bản chép tay.
Không thể không kể đến cuốn Luật tục Thái ở Việt Nam của tác giả
Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng do NXB Văn hóa Dân tộc ấn hành năm 1999.
Bộ Luật tục được nhà nghiên cứu Cầm Trọng dịch từ bản chữ Thái cổ trong
gia phả của họ Cầm ở Sơn La.
Gần đây có bộ sách gồm 3 Tập Luật tục các dân tộc thiểu số Việt Nam
của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam do NXB Khoa học xã hội xuất bản năm
2014. Cuốn sách biên soạn khá tỉ mỉ tình hình nghiên cứu về Luật tục nói
chung, nội dung được trình bày thành các chương với mục đích đề cập đến
từng mối quan hệ trong đời sống của cộng đồng các dân tộc thiểu số, như:
Quan hệ cộng đồng, quan hệ với thủ lĩnh, quan hệ gia đình,…
• Về đạo làm người trong văn hóa Việt Nam và đạo lý làm người trong
văn hóa tộc người
Đạo làm người cũng là một chủ đề được các nhà khoa học, nhà nghiên
cứu bàn luận và đi sâu tìm hiểu. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu:
Năm 2006, GS. Trần Văn Giàu với ấn phẩm Đạo làm người từ Lý
Thường Kiệt đến Hồ Chí Minh do NXB Quân đội nhân dân xuất bản. Bài viết
7
tập hợp một số bài tìm hiểu lịch sử tư tưởng Việt Nam về Đạo làm người từ
thời Lý Thường Kiệt đến Hồ Chí Minh.
Năm 2009, có công trình của nhóm tác giả Nguyễn Thế Kiệt, Phạm Bá
Lượng với tên gọi Đạo làm người trong truyền thống Việt Nam được NXB Lý
luận Chính trị phát hành.
Giới thiệu một số bài viết, bài nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, về đạo làm người và học đạo làm người của Bác Hồ trong cuộc sống
chính là nội dung của công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo làm người do
nhóm nghiên cứu Phạm Quang Nghị, Vũ Ngọc Khánh, Hoàng Chí Bảo được
NXB Hà Nội phát hành cùng năm 2009.
Năm 2011, tác giả Nguyễn Nghĩa Dân với cuốn Đạo làm người trong
tục ngữ ca dao Việt Nam do NXB Thanh niên phát hành. Đúng như tên gọi
của nó, phạm vi nghiên cứu của ấn phẩm chính là Đạo làm người trong kho
tàng văn học dân gian Việt Nam, mà cụ thể chính là hệ thống ca dao, tục ngữ
của dân tộc Việt Nam ta.
Và gần đây nhất, Hội thảo Khoa học với chủ đề Đạo làm người trong
văn hóa Việt Nam được Khoa Triết học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội tổ
chức vào ngày 25 tháng 4 năm 2014. Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học, và được minh chứng qua số lượng bài viết, bài nghiên cứu nhận
được. Hội thảo đã nhận được 55 bài viết tập trung đề cập đến ba vấn đề chính
là: Những vấn đề chung về Đạo làm người; Đạo làm người trong văn hóa Việt
Nam; Giáo dục Đạo làm người trong bối cảnh hiện nay. Một số bài viết tiêu
biểu như: Đạo làm người qua cổ mẫu văn hóa của GS.TS Lê Huy Bắc; Đạo
làm người trong phong tục và nghi lễ cổ truyền Việt Nam của PGS.TS Phạm
Văn Chín; Thuần phong mỹ tục về tình yêu và hôn nhân của một dân tộc thiểu
số ở miền núi phía Bắc của PGS.TS Trần Mạnh Tiến; Gia đình và việc giáo
dục Đạo làm người cho trẻ em Việt Nam hiện nay của TS. Hoàng Thúc Lân;…
8
Về đạo lý làm người của người Thái, tác giả có tìm đọc Lời răn người
do tác giả Hoàng Trần Nghịch sưu tầm và tuyển dịch được NXB Văn hóa Dân
tộc xuất bản năm 1993. Cuốn sách gồm 121 trang với các câu Tục ngữ, thành
ngữ Thái về xã hội và sản xuất.
Nhìn vào tổng quan lịch sử nghiên cứu của vấn đề, có thể thấy rằng Đạo
lý làm người không phải là một vấn đề mới, tuy nhiên Đạo lý làm người trong
Luật tục của một dân tộc có số dân đông thứ 3 cả nước (số liệu Tổng điều tra
dân sô và nhà ở năm 2009) như dân tộc Thái thì lại là một vấn đề còn rất mới
mẻ và giá trị bởi nó chính là một yếu tố cấu thành nên nét đẹp của Đạo làm
người trong văn hóa Việt Nam. Hơn nữa, ngoài nghiên cứu về Đạo làm người
trong Luật tục Thái, Luận văn còn muốn đi tìm hiểu ảnh hưởng của nó đến đời
sống của người Thái tại tỉnh Sơn La hiện nay - nơi mà số người Thái tại tỉnh
chiếm đến 36,9% tổng số người Thái ở Việt Nam (số liệu năm 2009).
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung chính của Quan niệm về Đạo
làm người trong Luật tục Thái, Luận Văn đi làm rõ những ảnh hưởng của nó
đến đời sống thực tế của người Thái ở Sơn La hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Luật tục Thái ở Việt Nam và những ảnh hưởng hiện tồn của nó.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đạo lý làm người trong Luật tục Thái và ảnh hưởng của những nội
dung đó đến đời sống người Thái ở tỉnh Sơn La.
5. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình nghiên cứu về Đạo lý làm người trong Luật tục Thái,
tác giả nhận thấy nó còn ảnh hưởng đến đời sống của người Thái ở tỉnh Sơn
La. Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết: Đạo lý làm người trong Luật tục Thái có
ảnh hưởng đến một số mặt trong đời sống của người Thái ở Sơn La.
9
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích mà Luận văn đã đề ra, tác giả cần thực hiện các
nhiệm vụ sau đây:
Một là, làm rõ nội dung của Đạo lý làm người trong Luật tục Thái
Hai là, khảo sát mức độ và phạm vi ảnh hưởng của Đạo lý làm người
trong Luật tục Thái với đời sống của người Thái Sơn La.
Ba là, từ việc nhận định được những ảnh hưởng nêu trên, tác giả có thể
đưa ra một số biện pháp bảo tồn văn hóa Thái ở địa phương.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự ảnh hưởng của Đạo lý làm người trong Luật
tục Thái đến đời sống của người Thái ở Sơn La. Phạm vi nghiên cứu được tác
giả xác định ở một số địa bàn có người Thái cư trú mang tính điển hình trong
tỉnh như: Thành phố Sơn La, huyện Quỳnh Nhai (ngành Thái Trắng) và
huyện Thuận Châu, huyện Mai Sơn (ngành Thái Đen).
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú
trọng kết hợp các phương pháp: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, khát quát
hóa, điền rã, so sánh và khảo cứu,…
9. Cấu trúc Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm hai chương, năm tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của Luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản của Luận văn
- Khái quát về dân tộc Thái và luật tục Thái ở Việt Nam.
- Ảnh hưởng của quan niệm về Đạo làm người trong Luật tục Thái đến
đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người Thái ở Sơn La hiện nay.
10
- Giá trị của quan niệm về Đạo làm người trong đời sống của người
Thái ở Sơn La hiện nay.
10.2. Đóng góp mới của Luận văn
Về mặt lý luận, Luận văn làm rõ những nội dung của Đạo lý làm người
trong Luật tục Thái.
Về mặt thực tiễn, Luận văn sẽ làm rõ những ảnh hưởng của Đạo lý làm
người trong Luật tục Thái đến đời sống của người Thái ở địa phương mình
đang cư trú. Từ đó, đưa ra được một số biện pháp nâng cao hiệu quả giữ gìn
bản sắc văn hóa tộc người Thái tại địa phương.
Luận văn cũng có thể trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho những tác
giả nghiên cứu về Đạo lý làm người, về Luật tục Thái và về đời sống văn hóa
của người Thái ở Sơn La sau này.
11
Chương 1
KHÁT QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI
VÀ LUẬT TỤC THÁI Ở VIỆT NAM
1.1. Người Thái ở Việt Nam và người Thái ở Sơn La hiện nay
1.1.1. Lịch sử hình thành, tên gọi, địa bàn cư trú
Người Thái có bề dày lịch sử với hơn 1200 năm. Họ cư trú ở khắp 63 tỉnh
thành trên cả nước và đặc biệt là ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Nhìn chung, các
công trình nghiên cứu về vấn đề này đều tiếp cận theo hướng người Thái trên thế
giới có chung một nguồn gốc. Biểu hiện rõ nhất là thông qua ngôn ngữ, văn hóa.
Người Thái ở Việt Nam, xét về góc độ lịch sử tộc người được các nhà khoa học
xác định có chung nguồn gốc với người Thái trên thế giới, hay rộng hơn là
những người cùng ngữ hệ Thái nói chung.
Những nghiên cứu về tập Quam tô mương của tác giả Đặng Nghiêm
Vạn trong Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái như sau: “Đối với việc
thiên di và định cư của các nhóm Thái kể trên trong thời kỳ cổ xưa hiện còn
thiếu những tài liệu đáng tin cậy. Có thể trong thiên niên kỷ thứ I trước Công
nguyên, tổ tiên họ bắt nguồn từ các nhóm Việt sinh tụ chủ yếu ở miền Nam
sông Dương Tử (thuộc ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu) tách khỏi
ngành phía Đông thiên di theo hướng tây - nam vào miền nam tỉnh Vân Nam
và miền tây Đông Nam Á theo dọc các con sông lớn đổ xuống châu thổ miền
Đông Nam Á và những chi nhánh của các con sông đó. Cùng lúc đó họ gặp
phải cuộc thiên di của các nhóm tổ tiên các cư dân thuộc ngôn ngữ Tạng Miến từ miền Trung Á và tây Trung Quốc tràn về. Các bộ phận Tạng - Miến
qua các đời thường phân bố chủ yếu ở phía tây và tây bắc; còn các bộ tộc
Thái cổ phân bố ở phía nam và đông nam. Ở miền này, tổ tiên người Thái cổ
cộng cư với tổ tiên các dân tộc Môn - Khơme. Đến thế kỷ thứ V sau Công
12
nguyên, họ đã lập được một loạt “nhà nước” suốt từ thượng lưu sông Irauadi,
sông Saluen, sông Mê kông tới tận miền giáp giới tỉnh Vân Nam, thượng Lào
và miền tây bắc Vân Nam. Những “nhà nước” này nối liền với khu vực người
đồng tộc của họ ở miền Lưỡng Quảng, Quý Châu, Hồ Nam và miền Việt Bắc
(Việt Nam)” [43, tr.23].
Các tài liệu trong chính sử Trung Quốc đều chứng minh rằng vùng nam
Vân Nam, miền Thượng Miến, Thượng Lào, Tây Bắc Bắc Bộ, từ đời Đường
có thể từ Tần Hán là nơi cư trú của tổ tiên người Thái. Tập Quam tô mương
cũng góp phần xác minh vấn đề này. Các huyền thoại và các truyền thuyết
xưa đều ghi nhận quê hương xưa của người Thái trước khi di cư vào Tây Bắc
là ở miền “chín con sông gặp nhau” tức là miền các con sông Hồng (Nặm
Tạo), sông Đà (Nặm Te) sông Mã (Nặm Ma), sông Mê kông (Nặm Không),
Nặm U, Nặm Núa, Nặm Na và hai con sông chưa xác minh được ở Trung
Quốc. Quan tô mương còn nhắc đến Mường Ôm, Mường Ai, Mường Lò,
Mường Bo Te… Mường Ôm, Mường Ai là vùng hai châu Hoàng Nham và
Tùng Lăng (Vân Nam). Trong cuốn Hưng Hóa xứ phong thổ lục của Hoàng
Bình Chính chép năm 1778, tác giả cho Mường Ôm (hay Mường Am) là tên
gọi châu Hoàng Nham. Hoàng Nham ở trên Tùng Lăng cách Lai Châu một
tháng đường đi.
Như vậy là ở miền Tây Nam Trung Quốc, tây bắc Đông Dương và một
phần nhỏ Tây Bắc Việt Nam, người Thái đã cư trú ở đó vào những năm thuộc
thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên. Ở Tây Bắc Việt Nam, số lượng người
Thái chắc chưa nhiều, vì đó là đất đai chủ yếu của các cư dân Môn Khơme và
các cư dân Nam Á khác. Trong các truyền thuyết của người Thái đều ghi nhận
hồi đó có “555 giống Xá (chỉ các thổ dân Môn Khơme và các cư dân Nam Á
khác) và 333 giống Thái”.
Hiện nay cũng rất khó đoán định thời gian cụ thể có mặt của những
người Thái cổ ít ỏi kể trên ở Tây Bắc. Tập Quam tô mương nói tới khi Lạng
13
Chượng tiến quân vào Mường Thanh (Điện Biên) và đến đời tạo Cằm tạo
Chiêu, cháu năm và sáu đời của Lạng Chượng (thế kỷ thứ XIII), người Thái
Trắng đã làm chủ Mường Lay. Như vậy tất họ phải có mặt ở đây sớm hơn. Ở
vùng ven sông Hồng và có thể bên hữu ngạn sông Đà, họ đến trước người
Thái Đen vì trong hành trình tiến quân vào Tây Bắc, Lạng Chượng, một tù
trưởng Thái Đen, đã gặp các tù trưởng người Thái Trắng ở dọc đường. Bộ
phận này sau phát triển thế lực sang các vùng như Quỳnh Nhai(Sơn La),
Mường Tè (Lai Châu) qua Mường Lò, Mường Tấc tức Phù Yên (Sơn La) và
một bộ phận xuống Đà Bắc (Hà Sơn Bình)” [43, tr.23-27].
Cùng hướng với nghiên cứu trên của tác giả Đặng Nghiêm Vạn, theo
David Wyatt, trong cuốn Thailand: A short history, người Thái xuất xứ từ
phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ
như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía
đông và bắc, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư
đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13. Trung tâm của họ khi
đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam
Á bây giờ như Lào, Thái Lan, Bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở đông
bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam. Theo sử sách Việt Nam, thời nhà Lý,
đạo Đà Giang, man Ngưu Hống (tức người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều
cống lần đầu tiên vào năm 1067.
Nằm trong cộng đồng ngôn ngữ Tày - Thái, người Thái ở Việt Nam có
khoảng trên 60 vạn người phần lớn ở các tỉnh Hoàng Liên Sơn, qua Lai Châu,
Sơn La, Hà Sơn Bình đến miền núi 2 tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Ở bên
Lào, người Thái sinh sống rất đông xen lẫn với người Lào và nằm trong khối
cộng đồng Lào Lum (người Lào ở thấp). Họ bao gồm nhiều ngành và mỗi
ngành lại chia làm nhiều nhóm với những tên gọi khác nhau tùy theo từng địa
phương. Chỉ kể riêng ở Tây Bắc Việt Nam có những nhóm sau:
14
- Thái Đen: cư trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La, Hoàng Liên Sơn (Văn Chấn,
Than Uyên) và Lai Châu (Điện Biên, Tuần Giáo). Nhóm địa phương tự nhận
mình là Tay Đăm (Thái Đen) có: Tay Mường Vạt (Tay Vạt) ở huyện Yên
Châu tỉnh Sơn La, người có tên Tay Thanh (Tay Nhại).
- Thái Trắng: Nhóm địa phương tự nhận tên Tay Đón thì có ở huyện
Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La, các huyện Mường Lai, Phong Thổ, Mường Tè tỉnh
Lai Châu. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc Hoàng Liên Sơn có một số
Thái Trắng đã chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sa Pa, Bắc Hà những
nhóm gốc Thái Trắng nay đã Tày hóa.
Một nhóm khác tự nhận tên Tay Khao cư trú chủ yếu ở Mộc Châu (Sơn
La), Mai Châu (Hà Sơn Bình) gần với một nhóm ở hai tỉnh miền núi Thanh
Hóa và Nghệ Tĩnh.
Cho đến nay, địa bàn cư trú của người Thái ở Việt Nam tập trung chủ
yếu ở hai vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ; vùng Tây Bắc gồm các tỉnh Sơn
La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Hòa Bình; vùng Bắc Trung Bộ
bao gồm hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa. Ngoài ra, do chủ trương về định
canh, định cư và di cư tự do, một số tỉnh miền Trung Tây Nguyên cũng có
đồng bào Thái cư trú tập trung hoặc xen kẽ vào các dân tộc khác.
Người Thái cư trú thành các bản làng và có thể thấy cộng đồng dân tộc
Thái ở Việt Nam khá đông đảo và phân bố trên cả nước. Họ chia thành nhiều
ngành, nhóm tùy theo địa phương, phong tục tập quán, trang phục,… Trong
đó phải kể đến 3 nhóm Thái chính, là:
Nhóm Thái Đen (Tay Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên
(Mương La và Mương Then). Các nhóm Tày Thanh, Tày Mười, Tày Khăng ở
miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An từ mạn Tây Bắc chuyển xuống khoảng ba
trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương
và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi qua Lào vào
- Xem thêm -