Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quan điểm về gia đình trong tứ thư...

Tài liệu Luận văn quan điểm về gia đình trong tứ thư

.PDF
101
530
134

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ---------------- NGÔ THIỀU HOA QUAN ĐIỂM VỀ GIA ĐÌNH TRONG “TỨ THƢ” LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ---------------- NGÔ THIỀU HOA QUAN ĐIỂM VỀ GIA ĐÌNH TRONG “TỨ THƢ” Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Quỳnh HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Quỳnh, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu đã được công bố. Các số liệu tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình. Hà nội, ngày 05 tháng 05 năm 2017 Tác giả Ngô Thiều Hoa LỜI CẢM ƠN Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Sau đại học và các phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho em được học tập, nghiên cứu tại nhà trường. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Triết học đã tận tình giảng dạy hướng dẫn em trong suốt thời gian học tập tại khoa. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Phạm Thị Quỳnh, giảng viên khoa Triết học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người đã nhiệt tình, tận tâm hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình. Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ và động viên tác giả luận văn trong quá trình học tập và nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn! Hà nội, ngày 05 tháng 05 năm 2017 Tác giả Ngô Thiều Hoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 6 5. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 6 6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6 8. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7 9. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 7 10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp của luận văn ................................... 7 NỘI DUNG....................................................................................................... 8 Chƣơng 1: “TỨ THƢ” VÀ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ GIA ĐÌNH TRONG TỨ THƢ ........................................................................................... 8 1.1. Khái lược về Tứ thư ................................................................................... 8 1.1.1. Nguồn gốc ra đời Tứ thư ..................................................................... 8 1.1.2. Vài nét về Đại học và Trung dung .................................................... 13 1.1.3. Vài nét về Luận ngữ và Mạnh Tử ..................................................... 15 1.2. Một số nội dung cơ bản về quan điểm gia đình trong Tứ thư.................. 17 1.2.1. Quan điểm về vị trí, vai trò gia đình trong Tứ thư............................ 17 1.2.2. Quan điểm về các mối quan hệ giữa các thành viên của gia đình trong Tứ thư ................................................................................................ 30 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 64 Chƣơng 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN ĐIỂM VỀ GIA ĐÌNH TRONG “TỨ THƢ” .......................................................................... 66 2.1. Giá trị quan điểm về gia đình trong Tứ thư ............................................. 66 2.1.1. Quan điểm về gia đình trong Tứ thư là nền tảng duy trì trật tự, kỷ cương gia đình và xã hội ............................................................................. 66 2.1.2. Quan điểm về gia đình trong “Tứ thư” góp phần giáo dục đạo đức xây dựng và phát triển nhân cách con người ....................................... 70 2.2. Hạn chế của quan điểm về gia đình trong Tứ thư .................................... 79 2.2.1. Quan điểm gia trưởng, trọng nam khinh nữ...................................... 79 2.2.2. Quan điểm phân biệt đẳng cấp, chủ nghĩa gia đình sâu sắc ............. 86 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 88 KẾT LUẬN .................................................................................................... 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở nước ta cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, vấn đề gia đình là vấn đề hết sức quan trọng và luôn được quan tâm. Gia đình không chỉ là nơi giúp duy trì nòi giống cho nhân loại mà còn là nơi tạo ra các giá trị nhân cách, góp phần vào công cuộc xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Gia đình còn là tế bào của xã hội. Như trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, phần cương lĩnh xây dựng đất nước trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung năm 2011) viết: “Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường…trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam… Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [10; tr.76 - 77]. Nho giáo là học thuyết chính trị xã hội theo khuynh hướng nhập thế, chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc. Ra đời vào cuối thời Xuân Thu (giữa thế kỷ thứ VI trước công nguyên) và nhanh chóng đã trở thành học thuyết có ảnh hưởng lớn nhất ở Trung Quốc vào thời kỳ đó. Sau này, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia Châu Á chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo qua nhiều thế kỷ, đặc biệt là những quan điểm về gia đình của Nho giáo. Những quan điểm, nguyên tắc đó được thể hiện trình bày sâu sắc đầy đủ trong tác phẩm kinh điển của Nho giáo là Tứ thư. Thời phong kiến Tứ thư là một bộ sách cơ bản của người đi học, hơn thế dù là bậc túc nho, Tứ thư vẫn là bộ sách gối đầu giường. Tứ thư chứa đựng các quan niệm về gia đình và những nguyên tắc đạo đức gia đình hết sức chặt chẽ đóng vai trò vào việc giữ gìn nề nếp gia đình, dòng họ và góp phần ổn định xã hội ở nước ta nhiều thế kỷ. Mặt khác, cho tới ngày nay, trong gia đình Việt Nam vẫn tồn tại những ảnh hưởng hai mặt tích cực và tiêu cực xuất phát từ những quan điểm, nguyên tắc đạo đức gia đình trong bộ sách Tứ thư. Từ trước tới nay, có rất nhiều công 1 trình nghiên cứu khác nhau về Nho giáo về Tứ thư, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, cụ thể và có hệ thống, sâu sắc quan điểm gia đình trong Tứ thư, làm rõ những giá trị hạn chế của những quan điểm đó. Cho nên, tác giả muốn nghiên cứu làm rõ một cách có hệ thống những quan điểm về gia đình trong bộ sách Tứ thư từ đó tìm ra những giá trị và hạn chế của nó. Vì vậy tác giả chọn đề tài: “Quan điểm về gia đình trong Tứ thư” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Vấn đề Nho giáo ở Trung Quốc và Nho giáo ở Việt Nam Nho giáo không chỉ là học thuyết có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc mà nó còn có sức ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia ở khu vực Châu Á, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, trong việc nghiên cứu về Nho giáo đã có nhiều công trình khác nhau ở Trung Quốc và một số quốc gia, nằm trong khuôn khổ các nước chịu ảnh hưởng khá nhiều từ các học thuyết của Nho giáo, ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều góc cạnh khác nhau về vấn đề Nho giáo. Trần Trọng Kim có sự khai thác khác về Nho giáo với cuốn sách: Nho giáo. Tác giả đã viết khá công phu cuốn sách, mô tả một cách khá toàn diện về toàn bộ nền Nho giáo cũ ở Trung Quốc từ sự hình thành phát triển Nho giáo đến sự phát triển các tư tưởng của nó. Trần Trọng Kim đã viết cuốn Đại cương triết học Trung Hoa - Nho giáo, để trình bày về lịch sử các học thuyết của Nho giáo từ thời Tây Hán, trình bày về Khổng Tử và các học thuyết của ông, giới thiệu về các học phái kế tiếp Mạnh Tử, Tuân Tử. Trình bày về Nho giáo đời Lưỡng Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Trong cuốn sách, Nho giáo tại Việt Nam của Lê Sĩ Thắng, đã nghiên cứu các vấn đề: Tính chất, nội dung cơ bản của Nho giáo; Sự phát triển các 2 học thuyết của Nho giáo trong lịch sử; Sự phân biệt rõ ràng giữa các trường phái trong tiến trình Nho giáo; Lịch sử phát triển Nho giáo tại Việt nam và những quan hệ với truyền thống văn hóa, tưởng Việt Nam; ngoài ra cuốn sách còn nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo tới các nhân vật lịch sử của Việt Nam như: Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh. Còn tiếp theo là cuốn Nho giáo Trung Quốc, năm 2006 của Nguyễn Tôn Nhan. Tác phẩm giới thiệu quá trình phát triển của Nho giáo theo các thời kỳ: trước thời Tần, Hán, Tây Hán, thời kỳ Ngụy Tấn - Tùy anh em Trình Hạo, Trình Di, thời kỳ Nho giáo hoàn thành (Nam Tống và Chu Hy) và đến thời kỳ Nho giáo kết thúc vào thời kỳ Minh và Thanh. Các công trình trên đều tập trung nghiên cứu trình bày về tư tưởng Nho giáo một cách chung chung ở Trung Quốc và Việt Nam. Vấn đề tƣ tƣởng gia đình của Nho giáo và những ảnh hƣởng Nho giáo ở Việt Nam: Bàn về Nho giáo ở Việt Nam và tư tưởng về gia đình của Nho giáo cùng với những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo tới gia đình Việt Nam có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết sau: Trong công trình Nho giáo và gia đình (1995) tác giả Vũ Khiêu đã phác thảo một số nội dung: Nêu lên vị trí của gia đình trong quan niệm Nho giáo; Những nguyên tắc trong quan hệ gia đình theo Nho giáo; Hậu nho nói về Hiếu và gia đình như thế nào. Tác giả Phan Đại Doãn đã viết sách: Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam. Tác giả nghiên cứu khá sâu và trình bày hệ thống về Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV - XVII; Nho học và Nho giáo Việt Nam thế kỷ XX; Nho giáo với Đông Kinh nghĩa thục; Nho giáo và gia đình truyền thống ở Việt Nam; Về giáo dục và khoa cử nho học ở Việt Nam. Công trình này của tác giả đã nghiên cứu một cách tổng quan đem lại bức tranh khá toàn diện về Nho giáo và vấn đề Nho giáo ở Việt Nam, những sự ảnh hưởng cũng như những nét khác biệt đã được biến đổi ở Nho giáo Việt Nam trải qua các giai đoạn. 3 Tác phẩm Văn hóa gia đình Việt Nam của tác giả Vũ Ngọc Khánh (1998), trình bày về văn hóa gia đình Việt Nam với cách hiểu về gia đình Việt Nam và lịch sử gia đình Việt Nam nề nếp phong tục của gia đình Việt Nam; Tiếp theo tác giả trình bày sự ảnh hưởng của các khuynh hướng triết học đến gia đình Việt Nam, trong đó có Nho giáo; Trình bày về những vấn đề đặt ra hiện nay về gia đình. Trần Đình Thảo, Lương Thị Pó với bài viết: “Gia đình trong tư tưởng Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam hiện nay” (2013), đã bàn về Nho giáo trong quan niệm gia đình ở khía cạnh gia đình là tế bào xã hội. Ở bài viết này, tác giả trình bày một cách sơ lược quan niệm Nho giáo về gia đình, gia tộc và một số nguyên tắc ứng xử trong gia đình. Đỗ Thị Thu Trang (2013), Tư tưởng Nho giáo về gia đình và ảnh hưởng của nó đến gia đình Việt Nam hiện nay, đây là đề tài luận văn thạc sĩ trong đó tác giả trình bày về những quan điểm tư tưởng nói chung của Nho giáo về gia đình và chỉ ra một số những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của những quan điểm đó đối với gia đình Việt Nam hiện nay. Nhìn chung có rất nhiều nghiên cứu khoa học khác nhau bàn về vấn đề Nho giáo và vấn đề gia đình trong quan niệm Nho giáo, nhưng chủ yếu là các nghiên cứu về : sự hình thành và phát triển của Nho giáo ở Trung Quốc và sự du nhập Nho giáo ở Việt Nam; một số nội dung tư tưởng cơ bản của Nho giáo ; tiếp cận và trình bày về quan niệm Nho giáo về gia đình và vị trí gia đình; nêu tóm tắt một số nguyên tắc đạo đức trong gia đình Những nghiên cứu về các bộ sách kinh điển của Nho giáo: Cuốn sách Đại học và Trung dung Nho giáo của tác giả Vũ Khiêu (1991), đã tóm tắt giới thiệu tiểu sử của Khổng Tử; Đặc điểm của lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc; Tóm lược nội dung của Tứ thư và Ngũ kinh; và nói đến những diễn biến của Nho giáo ở Việt Nam như thế nào. 4 Cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hy (dịch giả Nguyễn Đức Lân) là một công trình nghiên cứu đồ sộ, kỳ công. Công trình này được Chu Hy (thời Tống) dành gần hai mươi năm để nghiên cứu về bốn sách trong Tứ thư gồm: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử. Khai thác Nho giáo ở khía cạnh các tác phẩm kinh điển, tác giả Trần Lê Sáng là chủ biên giới thiệu hai cuốn sách: Ngữ văn Hán Nôm (tập 1Tứ thư), (2004), tập 1 này tác giả tập trung giới thiệu về bộ sách Tứ thư gồm: Đại học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, là sách dành cho người đi học, được viết dưới dạng văn tự Hán Nôm và có dịch nghĩa. Còn cuốn Ngữ văn Hán Nôm (tập 2 Ngũ kinh) (2004). Giới thiệu về bộ sách kinh điển của Nho gia, gồm các nội dung: Kinh Thi; Kinh Thư, Kinh Dịch; Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu. Khổng Học Đăng (Phan Bội Châu) (2010), trong đó tác giả diễn giải Tứ thư theo quan điểm mới có liên hệ với lịch sử Trung Quốc, Việt Nam và một số quốc gia khác. Tác phẩm chỉ ra những yếu tố tích cực và tiêu cực trong tư tưởng Nho giáo, rút ra những bài học kinh nghiệm để ứng dụng vào thực tế cách mạng ở nước ta đương thời. Phạm Văn Khoái (2004), Khổng Phu Tử và Luận ngữ là cuốn sách trình bày những nhận thức mới và làm sáng tỏ giá trị tư tưởng của Luận ngữ với đời sống xã hội hiện nay. Cuốn sách trình bày chi tiết về Khổng Tử và các học thuyết quan trọng của ông qua Luận ngữ. Nguyễn Bích Ngô dịch cuốn Tứ thư ước giải của Lê Quý Đôn, cuốn sách diễn giải một số chương trong Tứ thư, giải nghĩa Tứ thư theo lối cước chú. Tứ Thư của Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch, là cuốn sách bàn về bộ sách Tứ thư gồm bốn quyển: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử. Từ đó các dịch giả đã nêu lên những luận thuyết triết học của Trung Quốc cổ đại. 5 Tóm lại, có nhiều công trình khác nhau nghiên cứ về Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam và những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam, quan điểm về gia đình của Nho giáo. Nhưng mỗi nghiên cứu tập chung chủ yếu ở một mảng vấn đề chưa có sự hệ thống, chủ yếu là nghiên cứu dàn trải hoặc tập trung nghiên cứu từng quyển trong bộ Tứ thư với nhiều tư tưởng khác nhau chưa khai thác một cách hệ thống, tập trung, cụ thể, sâu sắc về quan điểm gia đình trong Tứ thư. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu quan điểm về gia đình trong Tứ thư, nhằm tìm ra những mặt giá trị và hạn chế của những quan điểm đó đồng thời chỉ ra một số ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam. 4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Bộ sách Tứ thư. Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm về gia đình trong Tứ thư 5. Giả thuyết khoa học Đề tài nếu được thực hiện sẽ góp phần làm rõ một cách có hệ thống các quan điểm về gia đình trong Tứ thư. Đồng thời tìm ra những giá trị và hạn chế của quan điềm về gia đình trong Tứ thư. Góp phần chỉ ra một số ảnh hưởng cơ bản của quan điểm về gia đình trong Tứ thư với xã hội Việt Nam. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Làm rõ về bộ sách Tứ thư. Thứ hai: Làm rõ những quan điểm về gia đình trong Tứ thư. Thứ ba: Làm rõ giá trị và hạn chế của quan điểm về gia đình trong Tứ thư. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung quan điểm về gia đình trong Tứ thư và tìm ra những giá trị hạn chế của những quan điểm đó đối với gia đình Việt Nam. 6 8. Phƣơng pháp nghiên cứu Nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quán triệt các nguyên lý mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích-tổng hợp, logic - lịch sử, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh, thống kê. 9. Kết cấu của luận văn Ngoài phần: Mở đầu; Kết Luận; Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương và 4 tiết. 10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp của luận văn Luận điểm cơ bản: Tứ thư là một trong những bộ sách kinh điển đầu tiên của Nho giáo chứa đựng tư tưởng về nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có quan điểm về gia đình. Trong Tứ thư nêu rõ vai trò quan trọng của gia đình đối với cá nhân cũng như sự phát triển xã hội, coi gia đình như tế bào của sự phát triển xã hội. Tứ thư nêu bật các quan điểm nguyên tắc đạo đức về gia đình hết sức chặt chẽ chi phối điều tiết các mỗi quan hệ các thành viên trong gia đình. Quan điểm về gia đình trong Tứ thư có nhiều giá trị to lớn, bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số điểm hạn chế đã ảnh hưởng sâu sắc ở xã hội Việt Nam. Đóng góp của luận văn: Luận văn đã trình bày một cách hệ thống, sâu sắc về quan điểm gia đình trong Tứ thư, từ đó tìm ra những điểm giá trị và hạn chế trong quan điềm về gia đình trong Tứ thư. Chỉ ra những ảnh hưởng có tính hai mặt của quan điểm về gia đình trong Tứ thư và ý nghĩa trong xã hội Việt Nam. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy và có thể vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn để góp phần vào quá trình giáo dục và quản lý, xây dựng gia đình. 7 NỘI DUNG Chương 1 “TỨ THƢ” VÀ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ GIA ĐÌNH TRONG TỨ THƢ 1.1. Khái lƣợc về Tứ thư 1.1.1. Nguồn gốc ra đời Tứ thư Bộ sách Tứ thư có nguồn gốc từ Nho giáo. Chính vì vậy khi nói đến Tứ thư không thể bỏ qua lịch sử ra đời gắn với lịch sử ra đời và phát triển của Nho giáo. Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thời cổ đại trong những điều kiện lịch sử phức tạp. Đồng thời đây cũng là thời kỳ mà hàng loạt các tư tưởng, trường phái triết học khác nhau ra đời. Những biến động trong xã hội Trung Quốc bắt đầu từ thời tam đại: Bắt đầu từ nhà Hạ với sự cai trị của vua Võ, kết thúc bởi sự lật đổ của vua Kiệt và Thành Thang vào thế kỷ XII - XVII trước công nguyên, nhà Thương vào thế kỷ XIII - XII trước công nguyên đứng đầu là vua Thành Thang đóng đô ở đất Bắc. Từ thế kỷ XIV (TCN) ông Bàn Canh rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn được gọi là nhà Ân. Cho đến thời nhà Chu thì được chia thành hai thời kỳ đó là Tây Chu và Đông Chu. Thời Tây Chu từ năm 1135 đến năm 770 trước công nguyên, khi bộ tộc Chu nổi lên chinh phục các vùng lân cận, lập ra nhà Chu, khởi đầu thời kỳ văn minh dựng nước của Trung Quốc. Theo nhiều nghiên cứu cho rằng, thời kỳ Tây Chu là thời kỳ cực thịnh của nhà Chu. Về sau nhà Chu ngày càng suy thoái: Khi U Vương lên ngôi vì ăn chơi trụy lạc khiến cho nhà Chu suy thoái. Con của U Vương sợ hãi đã rời đô ra lạc ấp thuộc phía Đông, từ đây nhà Chu được gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu hay còn gọi là thời Xuân Thu - Chiến Quốc (thế kỷ VII - III trước công nguyên). Đây là giai đoạn Đông Chu chìm đắm trong chiến 8 tranh liên miên không ngừng giữa các nước. Trong hoàn cảnh xã hội, chính trị rối ren như vậy nhưng lại là đà phát triển mạnh mẽ cho các lĩnh vực khoa học và tư tưởng. Đặc biệt là sự ra đời của hàng loạt các tư tưởng trường phái triết học đã ra đời để giải đáp các vấn đề xã hội là điều tất yếu. Nho giáo cũng ra đời trong hoàn cảnh đó. Như vậy, Nho giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm vào thời cổ đại ở Trung Quốc gắn với tên tuổi của Khổng Tử (người sáng lập ra Nho giáo). Khổng Tử (551 - 479 TCN) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra ở nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông). Ông vừa là nhà triết học vừa là nhà chính trị, giáo dục lớn trong lịch sử Trung Quốc. Vào thời đại Khổng Tử tông pháp nhà Chu đảo lộn, đạo lý suy đồi. Trước tình hình đó, ông muốn đem tất cả học thuyết chính trị của mình ra giúp vua giúp nước lập lại trật tự kỷ cương nhà Chu, cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới nhưng không được. Để thực hiện lý tưởng thờ vua, giúp nước Khổng Tử cũng từng ra làm quan, nhưng khi ra làm quan chứng kiến cảnh nhà vua chỉ lo vui chơi bỏ bê việc triều chính ông đành phải tìm cách từ chức và đi tìm con đường khác để thực hiện khát vọng của mình: “Năm thứ 19 đời vua Kinh vương nhà Chu, bấy giờ Khổng Tử đã 51 tuổi, vua nước Lỗ mới dùng Ngài làm quan Trung đô tể… Cách một năm thì cải chức làm quan Đại tư khấu, tự hồ bây giờ là quan Hình bộ Thượng thư. Ngài đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định rõ việc tống tang người chết… Ngài làm Đại tư khấu được bốn năm, vua nước Lỗ cất Ngài lên nhiếp tướng sự, nghĩa là cho Ngài quyền nhiếp việc chính trị trong nước” [26; tr.57]. Nhưng sau đó: “Khổng Tử thấy vua vì sự vui chơi bỏ trễ việc nước như thế, chắc là việc gì cũng hỏng, cho nên Ngài mới nhân lúc nhà vua làm lễ tế Giao, không chia thịt cho các quan, Ngài liền từ chức bỏ sang ở nước Vệ” [26; tr.58]. 9 Cũng kể từ đó mà Khổng Tử đã chu du đi hết nước này tới nước khác với mong muốn mang lý tưởng của mình để cải tạo xã hội, giúp nước trị dân nhưng đều không thành. Sau đó, ông đã trở về nước mở trường dạy học và viết sách. Ông đã hệ thống những tư tưởng của đời trước và quan điểm của ông tạo thành học thuyết chính trị, đạo đức hoàn thiện chính là Nho giáo. Cho đến cuối đời mình ông tập trung san định Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu. Tuy nhiên, sau khi Khổng Tử mất, kho tàng tư tưởng quý báu đó đã ít nhiều mất đi. Nguyên nhân việc thất lạc những kinh sách của Khổng Tử một phần do thời gian, phần khác do việc đốt sách chôn Nho dưới thời nhà Tần. Những phần còn lại của kinh sách Khổng Tử được hậu Nho ghi chép và bổ sung thêm với một số điểm sai khác: “Sau khi Khổng Tử mất rồi, những sách ấy cũng đã mất mát đi ít nhiều, rồi đến đời nhà Tần, lại có việc đốt sách; thành thử các sách của Ngài phần thì lâu ngày mất đi, phần thì bị đốt hại, không còn được bao nhiêu... Nhất là kinh Nhạc thì mất gần hết, chỉ còn lại có một thiên, sau đem vào bộ Lễ ký, đặt là thiên Nhạc ký. Kinh Lễ cũng thiếu nhiều, bọn Hán nho mới đem phụ họa thêm vào, để làm ra bộ Lễ ký. Hiện nay những sách ấy tuy có sai lạc nhiều, nhưng hậu nho đã cóp nhặt và phụ họa vào thành ra năm Kinh là: Kinh Dịch; Kinh Thư; Kinh Thi; Kinh Lễ; Kinh Xuân Thu” [26; tr.192]. Và sau khi Khổng Tử mất, các môn đệ của ông tản đi mỗi người một phương và mang theo hành trang là Đạo của Khổng Tử mà truyền bá khắp thiên hạ. Kể từ đó, Nho gia chia thành tám phái khác nhau, nhưng hai phái lớn mạnh nhất là: Mạnh Tử và Tuân Tử. Bởi vì một phần do những sách thể hiện tư tưởng của ông đã mất mát nhiều theo thời gian, phần khác do ông thường giảng dạy cho học trò mình bằng lối truyền miệng và tùy từng đối tượng và dạy, cho nên cũng sau khi Khổng Tử mất các học trò của ông đã tập hợp tất cả 10 những bài giảng của ông và biên soạn thành cuốn Luận ngữ. Tăng Sâm hay còn gọi là Tăng Tử (một học trò xuất sắc của Khổng Tử) đã soạn ra cuốn Đại học. Cuốn Trung dung được cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp viết. Mãi về sau đến thời Chiến Quốc Mạnh Tử đã trình bày những tư tưởng của mình và cũng được các thế hệ học trò sau đó biên soạn trong cuốn Mạnh Tử. Tứ thư là bộ sách bao gồm bốn quyển: Đại học; Trung dung; Luận ngữ; Mạnh Tử. Đó là bộ sách mà thời xưa dùng cho việc học hành như trong sách Ngữ văn hán nôm tập 1 Tứ thư viết: “Thời xưa, Tứ thư… là bộ sách cơ bản của người đi học; hơn thế, vào thời bấy giờ, dù là bậc túc nho, Tứ thư vẫn là bộ sách gối đầu giường” [44; tr.9]. Và sách này cũng đưa ra cơ sở trình bày tóm tắt nội dung cơ bản của cả bộ sách Tứ thư bốn quyển này: “Xưa, học trò đi học học thuộc lòng đoạn này: “Vi học giả, tất hữu sơ, Tiểu học chung, chí Tứ thư: Luận ngữ giả, nhị thập thiên, quần tử đệ, ký thiên ngôn; Mạnh Tử giả, thất thiên chỉ, giảng đạo đức, thuyết nhân nghĩa; tác Trung dung, Tử Tư bút, trung bất thiên, dung bất dịch; tác Đại học, nãi Tăng Tử, tự tu tề, chí bình trị” (Tam tự kinh)” [44; tr.10]. Ngoài tên gọi thông thường thì bộ sách này còn được gọi với một số tên gọi khác mà phổ biến có tên gọi: Học dung luận mạnh. Như vậy Tứ thư là bộ sách gồm có bốn quyển: Đại học; Trung dung; Luận ngữ; Mạnh Tử. Bộ sách Tứ thư (kinh điển của Nho giáo) là tài liệu lưu giữ những tư tưởng khác nhau của Khổng Tử và các môn đệ nói riêng, của Nho giáo nói chung. Trong Tứ thư chứa đựng các tư tưởng hết sức phong phú, sâu sắc trên nhiều lĩnh vực như chính trị, xã hội, đạo đức… Bộ sách Tứ thư gồm bốn quyển có sự phân định nhưng bên cạnh đó chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nội dung mà bốn quyển Đại học, Trung dung, Mạnh Tử, Luận ngữ trình bày có sự liên kết logic, cái này bổ sung cho cái 11 kia, cái này làm tiền đề cho cái kia. Điển hình như nội dung chữ “thành” trong sách Đại học nói tới “thành kỳ ý” thì tiếp theo Trung dung lại làm rõ hơn về “thành”… như trong sách Ngữ văn hán nôm (tập 1 - Tứ thư) viết: “…riêng bốn sách trong Tứ thư, mối quan hệ càng chặt chẽ hơn. Ví như sách Đại học và sách Trung dung, có người cho là cùng tác giả Tử Tư. Về nội dung, Đại học nhấn mạnh “Thành kỳ ý”…Trung dung cũng nói nhiều về chữ “Thành” này. Giữa Trung dung và Mạnh Tử cũng rất gần gũi, chữ “Thành” ở Chương Hai mươi của Trung dung chẳng khác gì chữ “Thành” được bàn ở Thiên Ly lâu của Mạnh Tử; Còn giữa Đại học, Trung dung, Mạnh Tử với Luận ngữ, mối quan hệ chàng như cây với cành…” [44; tr.17]. Bên cạnh đó tác giả cũng nói về việc Tứ thư được lưu truyền vào nước ta từ khi nào: “Bộ Tứ thư được truyền vào Việt Nam từ bao giờ, hiện chưa biết rõ lắm; song theo quốc sử thì từ thế kỷ I, nước ta đã có Trương Trọng…, đến thế kỷ II có Lý Cầm…, Lý Tiến… đều là những vị học giỏi, có chức vụ; đặc biệt, Khương Công Phụ… ở thế kỷ VIII đã thi đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Bình chương; tất nhiên, việc học và thi vào lúc bấy giờ tất không thể thiếu được Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung mà sau này được gộp thành Tứ thư” [44; tr.18]. Thực chất, những kinh sách nguyên thủy của Nho giáo đã thất lạc đi nhiều do thời gian và những biến động xã hội. Cho nên, hậu nho đã gom nhặt lại và bổ sung thêm những quan điểm riêng. Cụ thể, đến đời Tống mới có những nghiên cứu kinh sách chính xác hơn, chỉnh lý những sai sót và bổ sung những lý giải của các nhà nho đương thời hợp thành bộ Tứ thư tập chú. Người có công nghiên cứu, lý giải công trình này là Chu Hy (1130 -1200) nhà nho thời Tống. Ông đã dành gần hai mươi năm cuộc đời để nghiên cứu về bộ kinh sách này, đồng thời trong đó ông có dẫn thêm những lý giải của Trình Hạo, 12 Trình Di (hai người thầy mà Chu Hy rất ngưỡng mộ). Bộ Tứ thư sau này được truyền bá và ảnh hưởng chủ yếu ở nước ta chính là bộ Tứ thư tập chú này của Chu Hy. Đó là bộ kinh sách kết hợp tư tưởng Nho giáo nguyên thủy với những tư tưởng Nho giáo thời Tống (đã có nhiều biến đổi và khắt khe hơn). Như vậy, Tứ thư được truyền vào nước ta từ rất lâu, đặc biệt có ảnh hưởng sâu rộng từ khoảng thế kỷ XII. Tứ thư là bộ sách hữu ích không chỉ cho các nhà Nho mà còn cho những người đi học ở nước ta thời xưa. Hơn nữa liên quan tới bộ Tứ thư từ trước đến nay ở nước ta có rất nhiều nghiên cứu, bản dịch trên những phương diện khác nhau. Điều đó đã chứng tỏ sức ảnh hưởng của bộ sách này ở nước ta. Không chỉ vậy, trên nhiều nước khác ở khu vực Châu Á hay phương Tây Tứ thư cũng rất được quan tâm nghiên cứu và biên dịch. 1.1.2. Vài nét về Đại học và Trung dung Thứ nhất về sách Đại học: Xét về nguồn gốc sách Đại học chính là một chương (chương bốn mươi hai) được chép ra trong sách Lễ ký. Cho tới thời Tống sách Đại học mới được tách riêng ra và đưa vào Tứ thư cùng với các sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung. Người viết ra sách này được cho là Tăng Tử, ông đã viết sách này nhằm truyền đạt những tư tưởng của Khổng Tử để lại. Nói đến ý nghĩa của tên sách Đại học thì có nhiều quan điểm khác nhau như: Trịnh Huyền (đời nhà Hán) cho rằng Đại học là sách ghi chép lại sự bác học; Lưu Huyền (Đời Tùy) cho rằng Đại học là sự học rộng lớn; Tư Mã Quang (đời Tống) cho rằng Đại học chủ yếu là nói về việc “tu thân, tề gia, trị quốc”; Chu Hy lại cho rằng Đại học là cái học của đại nhân, tức là sách lấy làm chuẩn mực để đem ra dạy người. Tuy mỗi người có những quan điểm, sự phân tích riêng nhưng tất cả bổ sung cho nhau tao nên cái nhìn đầy đủ về sách Đại học mà trong sách Ngữ văn Hán nôm (tập 1 Tứ thư) đã viết: 13 “Về nghĩa của hai chữ Đại học, Trịnh Huyền… (đời Hán) nói: Đại học là chép sự bác học, có thể lấy đó làm chính sự; Lưu Huyền… (đời Tùy) cho là: Lấy sự học rộng lớn của thánh nhân làm nghĩa; Tư Mã Quang… (đời Tống) lại nói: Tầm chương trích cú, giải thích nghi vấn, đó là cái học nhỏ; chính tâm tu thân, tề gia, trị quốc cho đến thịnh đức tỏa sáng trong thiên hạ, sự học đó là lớn, vì vậy gọi là Đại học. Nhưng Chu Hy trong bài Đại học chương cú tự nói rõ hơn; ông nói: Sách Đại học xưa lấy làm phép dạy người. Ông lại nói: Đại học là cái học của đại nhân” [44; tr.13]. Xét về nội dung, thông qua Đại học thể hiện rất nhiều tư tưởng cả về chính trị, xã hội, đạo đức, luân lý. Tư tưởng xuyên suốt quyển này chính là ba cương lĩnh: Minh minh đức (làm sáng tỏ đức sáng); Thân dân; Chỉ chí thiện. Và còn có tám điều mục quan trọng: Cách vật (hiểu rõ sự vật); Trí tri (đạt tới chỗ hiểu biết); Thành ý (chân thành trong ý nghĩ); Chính tâm (giữ lòng ngay thẳng); Tu thân (tu dưỡng bản thân); Tề gia (làm cho gia đình có nề nếp); Trị quốc (làm cho đất nước yên ổn); Bình thiên hạ (làm cho khắp nơi trong thiên hạ được bình trị). Như vậy, toàn bộ sách Đại học là một thể thống nhất của những tư tưởng triết học, tư tưởng về chính trị - xã hội, kết hợp với luân thường đạo lý. Trong đó sách Đại học nhấn mạnh một cách rõ ràng tính thống nhất mối quan hệ chặt chẽ giữa việc tu thân (tu dưỡng đạo đức cá nhân) với việc tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Đó là tư tưởng đại diện cho quan điểm chính trị và đạo đức của Nho giáo. Thứ hai về sách Trung dung: Trung dung là một trong bốn quyển của bộ Tứ thư, nó nằm ở thiên ba mươi mốt của bộ sách Lễ ký. Tuy có nhiều ý kiến về tác giả của sách Trung dung vì những lý do khác nhau như vấn đề một số tư tưởng, tên địa danh chưa trùng khớp với thời đại của Tử Tư. Nhưng đa số, sách này được cho là do Tử Tư (hay Khổng Cấp) cháu nội của Khổng Tử viết. Trung dung là sự kế thừa tư tưởng về 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan