DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCT
Bộ Chính trị
JIM 1
Hội nghị không chính thức Jakarta về Campuchia lần thứ nhất
JIM 2
Hội nghị không chính thức Jakarta về Campuchia lần thứ hai
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
XHCN
XHCN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 8
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 8
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
6. Bố cục luận văn ............................................................................................. 9
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-1995 . 10
1.1 Bối cảnh lịch sử ......................................................................................... 10
1.1.1 Tình hình thế giới và khu vực ................................................................ 10
1.1.2 Tình hình Việt Nam .............................................................................. 13
1.2 Quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975-1986 .......................... 18
1.3 Xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại thời kì Đổi mới (1986- 1995) ...22
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 32
CHƢƠNG 2. CÁC HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI PHÁ THẾ BAO VÂY,
CẤM VẬN CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-1995 ............................. 33
2.1. Tích cực đối thoại tìm kiếm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia . 33
2.1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giải quyết “vấn đề Campuchia” .. 33
2.1.2. Thực hiện cam kết rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia ....... 34
2.1.3. Tích cực đối thoại nhằm ký kết Hiệp định Paris (1991) về lập lại hòa
bình ở Campuchia ........................................................................................... 37
2.2 Chủ động cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á và gia nhập
ASEAN............................................................................................................ 42
2.2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về quan hệ với ASEAN ............... 42
2.2.2. Tích cực đối thoại, cải thiện quan hệ với nhóm nước ASEAN ............ 43
2.2.3 Gia nhập ASEAN ................................................................................... 45
2.3 Bình thường hóa và phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc ........... 49
2.3.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về bình thường hóa quan hệ ViệtTrung ............................................................................................................... 49
2.2.2. Nỗ lực nối lại đàm phán với Trung Quốc ............................................. 50
2.2.3. Đàm phán và tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc ......... 51
2.4. Phá bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và các nước
TBCN khác...................................................................................................... 56
2.4.1. Bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ ................................ 56
2.4.2. Khôi phục và xây dựng quan hệ với các quốc gia Liên minh châu Âu 61
2.4.3. Khôi phục và xây dựng quan hệ với Nhật Bản ..................................... 62
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 64
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH PHÁ THẾ BAO VÂY,
CẤM VẬN CỦA VIỆT NAM....................................................................... 65
3.1. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho hoạt động ngoại
giao .................................................................................................................. 65
3.2. Các hoạt động ngoại giao thể hiện sự thức thời, sáng tạo liên tục trong đổi
mới tư duy và đường lối đối ngoại .................................................................. 67
3.3. Giải quyết vấn đề Campuchia là “chìa khóa” để giải tỏa các mối quan hệ
quốc tế ............................................................................................................. 71
3.4. Hoạt động pháthế bao vây, cấm vận đã tạo động lực quan trọng cho việc
đổi mới kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội ........................................... 73
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 82
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thập niên 80 của thế kỉ XX đã chứng kiến những sự kiện làm thay đổi
mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nhân loại. Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, hệ thống XHCN thế giới dần tan rã, từ đó đưa tới sự kết thúc của chiến
tranh Lạnh và sụp đổ của trật tự thế giới hai cực. Toàn cầu hóa dần trở thành
xu thế nổi bật và chi phối sự phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh lịch sử
mới, thay thế cho đối đầu thì hợp tác và cạnh tranh đã trở thành hai dòng chảy
song hành chủ yếu trong quan hệ quốc tế, từ đó buộc các quốc gia phải có sự
điều chỉnh chính sách đối ngoại và các mục tiêu trong phát triển đất nước.
Trước những biến động của tình hình thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra
quyết định lịch sử: Đổi mới toàn diện đất nước trong Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI (1986).
Đối ngoại vẫn thường được xem là cánh tay nối dài của đối nội, góp
phần thực hiện bảo vệ an ninh và phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Ý
thức được điều này nên cùng với việc hình thành đường lối đổi mới toàn diện
đất nước từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, chính sách đối
ngoại và hoạt động ngoại giao phục vụ cho công cuộc đổi mới cũng được
Đảng đề ra và từng bước điều chỉnh qua các Đại hội Đảng. Quá trình đổi mới
tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua
nhằm đáp ứng sự vận động liên tục trong quan hệ quốc tế, từ đó xây dựng môi
trường bên ngoài ổn định phục vụ cho sự phát triển. Trải qua 30 năm đổi mới
đất nước, ngoại giao Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: đưa đất
nước từ chỗ bị bao vây cô lập trên trường quốc tế đến nay đã hội nhập mạnh
mẽ vào khu vực và thế giới, từ đó hỗ trợ đắc lực cho nhiệm vụ trọng tâm “đổi
mới về kinh tế”. Việt Nam hiện nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức
với 185 nước, thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường
1
tại tất cả châu lục; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với nhiều
quốc gia chủ chốt trên thế giới. Tuy nhiên, tình hình quốc tế luôn vận động
không ngừng, các nước lớn luôn có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm
đạt được lợi ích cao nhất của họ. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử ngoại giao nói
chung và các chính sách, hoạt động đối ngoại của Việt Nam nói riêng có ý
nghĩa quan trọng trong việc đúc rút những thành công và hạn chế cũng như
bài học kinh nghiệm cho việc thự hiện nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa hội nhập
quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế hiện nay.
Giai đoạn 1986-1995 là khoảng thời gian quan trọng, đặt nền móng cho
việc đẩy mạnh đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước trong các giai đoạn
sau. Đây cũng là thời kỳ quan trọng đánh dấu việc chuyển đổi tư duy đối
ngoại cũng như hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Bắt
đầu từ đây, Đảng có những thay đổi về nhận thức quốc tế, mối quan hệ giữa
các quốc gia và quốc tế, nhiệm vụ đối ngoại, tiếp xúc quốc tế với những chấn
động lớn trên thế giới… Từ đó, Đảng đã đề đường lối đối ngoại đúng đắn góp
phần đưa đất nước phá thế bao vây, cấm vận và mở rộng quan hệ quan hệ đối
ngoại. Những thành tựu về đối ngoại trên giúp Việt Nam rút ra được những
bài học kinh nghiệm về những vấn đề như: thường xuyên đổi mới tư duy đối
ngoại; giữ vững và phát huy đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; kế thừa và vận dụng sáng tạo
tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh,… Xuất phát từ những lí do trên nên tôi
chọn vấn đề “Qúa trình phá vây trong quan hệ quốc tế của Việt Nam giai
đoạn 1986-1995” là đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lĩnh vực đối ngoại, đã có nhiều công trình nghiên cứu viết về
chính sách đối ngoại cũng như quan hệ song phương giữa Việt Nam với các
quốc gia, khu vực như: Campuchia, Trung Quốc, Mỹ, ASEAN trong thời kì
2
đổi mới. Các công trình này đã đề cập tới một số khía cạnh cụ thể của quá
trình phá vây trong quan hệ quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 1986-1995:
Trước hết, nhiều tác giả đã khái quát quá trình đổi mới tư duy và đường
lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước dựa trên cơ sở phân tích các văn kiện
được đưa ra trong các Đại hội và Hội nghị Trung ương Đảng. Cuốn sách
“Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II” (2004) của tác giả Nguyễn Vũ Tùng,
Nxb Thế giới tập trung nghiên cứu về chính sách đối ngoại từ 1975-2006,
trong đó có phân tích quá trình hoạch định và nội dung của chính sách đối
ngoại trong thời kì đổi mới.
Cuốn sách “Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kì đổi mới” (2013) của
tác giả Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế, Nxb Chính trị - hành chính đã
trình bày về sự đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hơn 25
năm đổi mới qua để hoạch định, hình thành chính sách đối ngoại đúng đắn, từ
đó nêu rõ tư tưởng, nguyên tắc, nhiệm vụ, phương châm chỉ đạo, lập trường
của Việt Nam đối với các vấn đề quốc tế, phương hướng và thành tựu hoạt
động trong công tác đối ngoại của Đảng trong việc phá thế bao vây, cấm vận,
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và hội nhập quốc tế.
Cuốn sách “Qúa trình đổi mới đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế
của Việt Nam 1986-2012” (2013) của tác giả Đinh Xuân Lý, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội đã phân tích quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại
thời kỳ đổi mới, đặc biệt quá trình hình thành nhận thức về hội nhập quốc tế
của Việt Nam trong giai đoạn 1986-2012. Trên cở sở đó, tác giả bước đầu chỉ
ra một số còn tồn tại, bài học kinh nghiệm và đề xuất một vài kiến nghị về
lĩnh vực đối ngoại, hội nhập quốc tế .
Vấn đề đổi mới tư duy và chính sách đối ngoại giai đoạn 1986-1995
cũng được đề cập tới trong một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên
ngành như: Nguyễn Cơ Thạch (1990), Những chuyển biến mới trên thế giới
và tư duy mới của chúng ta, Tạp chí Quan hệ quốc tế số 1 (1-1990); Nguyễn
3
Hoàng Giáp với bài viết "Phát triển quan hệ với các nước lớn trong chính
sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước ta" trên tạp chí Cộng sản (62005); Vũ Khoan (2005), Đổi mới về đối ngoại, Tạp chí Cộng sản số 16 (82005); Nguyễn Ngọc Trường (2006), Ngoại giao Việt Nam trên những chặng
đường đổi mới, Tạp chí Cộng sản số 7 (4-2006).
Bên cạnh đó, với cách tiếp cận lịch sử, những hoạt động đối ngoại cụ thể
trong giai đoạn 1986-1995 như giải quyết vấn đề Campuchia, bình thường
hóa quan hệ Việt Nam-ASEAN, Việt Nam – Trung Quốc và Việt Nam – Mỹ
cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến trong các công trình về lịch sử
ngoại giao Việt Nam nói chung. Cuốn sách “Ngoại giao Việt Nam trong thời
đại Hồ Chí Minh” (2000) do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành đã tập trung vào
các chủ đề: thành tựu ngoại giao Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại
giao, bản sắc ngoại giao Việt Nam hiện đại và mấy vấn đề của ngoại giao Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Cuốn sách này mang đến cái nhìn khái quát về
quan hệ quốc tế của Việt Nam trong hơn 50 năm trên các khía cạnh nền tảng
tư tưởng, cơ sở lý luận,thực tiễn hoạt động cũng như bản sắc riêng của ngoại
giao Việt Nam.
Cuốn sách “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000” (2015) do Nguyễn Đình
Bin chủ biên, của Nxb Chính trị quốc gia đã giành một phần dung lượng (từ
trang 319 đến trang 376) để phân tích về đối ngoại Việt Nam giai đoạn 19862000, trong đó tác giả đã chú trọng nghiên cứu giai đoạn 1986-1995; tuy
nhiên, cuốn sách ít đề cập đến những hạn chế của giai đoạn này.
Cuốn“Cách mạng Việt Nam trên bàn cờ quốc tế lịch sử và vấn đề”
(2016) của tác giả Vũ Dương Ninh, NXB Chính trị quốc gia - sự thật đã đi sâu
nghiên cứu một số vấn đề về quan hệ đối ngoại của Việt Nam, về mối liên hệ
giữa Việt Nam với thế giới, giữa cách mạng Việt Nam với các lực lượng bên
ngoài. Cuốn sách gồm có bốn phần, trong đó phần thứ ba và phần thứ tư, tác
giả đã phân tích vấn đề Campuchia trong việc giải tỏa tình trạng bị bao vây
4
của Việt Nam cũng như việc phân tích và khái quát lại mối quan hệ giữa Việt
Nam – ASEAN, Việt Nam – Hoa Kỳ và thành tựu mà Việt Nam đạt được
trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập, thống nhất đất nước; giải tỏa tình
trạng bao vây cấm vận.
Ngoài ra, vấn đề nghiên cứu cũng được đề cập tới trong các sách tham
khảo, luận văn, luận án, bài viết trên tạp chí chuyên ngành về quan hệ giữa
Việt Nam với các khu vực và quốc gia như: ASEAN, Trung Quốc, Mỹ. Về
quan hệ Việt Nam – ASEAN, một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như
đề tài nghiên cứu khoa học “Quan hệ Việt Nam – ASEAN” (2000) của tác giả
Vũ Dương Ninh, Bùi Hồng Hạnh, Hoàng Khắc Nam đã trình khái quát về tổ
chức ASEAN, phân tích quan hệ Việt Nam – ASEAN qua các giai đoạn lịch
sử để thấy những bước đi, những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa
hai bên. Các hoạt động ngoại giao giải tỏa căng thẳng tiến tới bình thường hóa
quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN cũng được nói đến trong các công trình
như: “Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN” của Đinh Xuân Lý (2001),
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan
hệ đối ngoại với ASEAN (1967-1995)” của tác giả Nguyễn Đình Thực, Việt
Nam gia nhập ASEAN: giải pháp đối ngoại mới từ chính sách khu vực,
Nguyễn Vũ Tùng (9-2007), Luận văn Ths “Quan hệ chính trị - ngoại giao
giữa Việt Nam với các nước ASEAN từ năm 1975 đến năm 1995” của Hoàng
Thị Thơm,… Qua các công trình này, các tác giả đã phân tích một cách có hệ
thống các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước và các hoạt động đối
ngoại về quan hệ Việt Nam – ASEAN qua các thời kỳ, trong đó chủ yếu từ
1986 đến 1995. Từ đó, các tác giả nêu lên những kinh nghiệm và giải pháp
cho việc tiếp tục phát triển mối quan hệ này.
Quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc được
đề cập đến trong các công trình như: “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc trong 30 năm qua” (1979) của Nxb Sự thật, Nguyễn Thị Phương (2014)
5
“Những nhân tố tác động đến quá trình bình thường hóa quan hệ chính trị
Việt Nam – Trung Quốc (1986-1991)”, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số
6(19); Phạm Phúc Vĩnh (2016) “Qúa trình bình thường hóa quan hệ Trung
Quốc theo đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (19861991)”, tạp chí phát triển KH&CN, tập 19;… Trong đó, luận án tiến sĩ của tác
giả Nguyễn Thị Mai Hoa với đề tài “Chủ trương của Đảng Cộng sản trong
quan hệ với Trung Quốc từ năm 1975 đến năm 2001” (2007) đã đi sâu phân
tích chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ với
Trung Quốc từ năm 1975 đến năm 2001. Đánh giá những chính sách đối
ngoại của Việt Nam với Trung Quốc nhằm củng cố quan hệ chính trị - ngoại
giao giữa hai nước và đàm phán những vấn đề lãnh thổ, lãnh hải,.. Qua đó,
nêu lên những thành tựu, hạn chế trong quan hệ giữa hai nước và rút ra những
bài học kinh nghiệm.
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu
trên các khía cạnh: kinh tế, chính trị - ngoại giao,… như: “Quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ hướng về phía trước” (2008) của tác giả Nguyễn Mại (cb), Nxb Tri
thức, Việt Nam – Hoa Kỳ quan hệ thương mại và đầu tư (2004) của Nguyễn
Thiết Sơn, Nxb Khoa học xã hội; Trần Nam Tiến (2010) “Quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ: thực trạng và triển vọng” của Nxb Văn hóa thông tin và truyền
thông; Nguyễn Linh Lan “Qúa trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ:
kinh nghiệm và bài học”,… Trong đó, Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Anh
Cường với đề tài “Đảng lãnh đạo quá trình bình thường hóa và phát triển
quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ (1976 -2006)” (2012) đã trình bày vai trò
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình bình thường hóa và phát triển
quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Khái quát quá trình lãnh đạo của Đảng
tiến tới bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1976 đến
năm 1995 và thời kì phát triển quan hệ giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực từ
năm 1996 đến năm 2006. Tác giả đã chỉ ra được những thành tựu, hạn chế và
6
rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình thiết lập và đẩy mạnh quan hệ giữa
hai nước.
Việc giải quyết vấn đề Campuchia được đề cập tới trong các công trình
nghiên cứu trên các khía cạnh: chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với khu
vực và các nước Đông Dương, kinh tế, chính trị - ngoại giao, quân sự và vấn
đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước như: Phạm Đức Thành (1995) “Lịch sử
Campuchia” Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội; Luận văn Ths của Nguyễn Hải
Anh với đề tài “Quan hệ Việt Nam – Campuchia (1991-2012) (2014) trường
ĐHKH XH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội; “Ngoại giao Việt Nam 1945 –
2000” (2015) do Nguyễn Đình Bin (chủ biên);… tiêu biểu là Luận văn Ths
Lịch sử của Nguyễn Mạnh Linh (2014)“Đảng Cộng sản Việt Nam với quan
hệ của Việt Nam với Campuchia từ năm 1979 đến năm 1997”, trường ĐH
KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng
đối với quan hệ của Việt Nam với Campuchia, dựng lại bức tranh về mối
quan hệ Việt Nam – Campuchia, nêu lên những thành tựu, hạn chế và rút ra
bài học kinh nghiệm trong giai đoạn 1979 -1997.
Như vậy, có thể thấy rằng, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu về việc hoạch định và các hoạt động triển khai thực hiện chính
sách ngoại giao “phá vây” trong giai đoạn 1986-1995 một cách hệ thống và
toàn diện . Mặc dù vậy, các công trình trên đã cung cấp nguồn tư liệu cũng
như nhiều phân tích có giá trị cho tác giả trong quá trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu này phục dựng lại quá trình thực hiện các hoạt động đối ngoại
phá thế bao vây cấm vận trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, từ đó đưa ra
những nhận xét về việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và rộng mở
trong giai đoạn 10 năm đầu của công cuộc Đổi mới đất nước (1986-1995).
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành chủ trương, chính
sách đối ngoại của Đảng trong 10 năm đầu thời kì đổi mới.
7
- Phân tích việc triển khai đường lối đối ngoại mới thông qua các hoạt
động bình thường hóa quan hệ chính trị - ngoại giao với Campuchia, Trung
Quốc, ASEAN, Mỹ và các nước TBCN giai đoạn 1986-1995.
- Rút ra một số nhận xét về quá trình phá vây trong quan hệ quốc tế của
Việt Nam từ năm 1986 đến năm 1995.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu về nội dung và việc triển khai chính sách đối ngoại phá
thế bao vây cấm vận của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm đầu thời kì đổi mới
(1986-1995), cụ thể là các hoạt động nhằm bình thường hóa quan hệ chính trị ngoại giao với Campuchia, Trung Quốc, ASEAN, Mỹ và các nước TBCN.
* Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, luận văn nghiên cứu quá trình phá vây quan hệ quốc tế của Việt
Nam từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước vào năm 1986 cho tới
năm 1995 - thời điểm Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức
với Hoa Kỳ và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu các chủ trương và hoạt động
bình thường hóa quan hệ với Campuchia, Trung Quốc, ASEAN, Hoa K, các
nước TBCN
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu
Để tìm hiểu về quá trình phá vây quan hệ quốc tế của Việt Nam giai
đoạn 1986 – 1995, luận văn dựa vào một số nguồn tư liệu chủ yếu sau đây:
Các văn kiện Đại hội và Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
từ năm 1986 đến năm 1995.
Các sách giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí, luận văn và luận án về
ngoại giao Việt Nam nói chung và quan hệ của Việt Nam với các quốc gia
Campuchia, Trung Quốc, Mỹ và các nước TBCN, tổ chức ASEAN nói riêng.
Các website chính thức của Bộ ngoại giao, đại sứ quán các nước.
8
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nguồn tư liệu thu thập được, phương pháp nghiên cứu chủ
yếu của luận văn là sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp
logic, phân tích nhằm làm sáng tỏ những chủ trương, đường lối quan trọng về
đối ngoại và các hoạt động ngoại giao trong giai đoạn 1986-1995. Các
phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống để được sử dụng để xử lý
các sự kiện, con số với mục đích làm rõ hơn những thành tựu Việt Nam đạt
được trong giai đoạn này. Phương pháp logic, phương pháp lịch sử được sử
dụng tích cực trong nhận xét về quá trình phá vây của Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đem đến nhận thức tương đối toàn diện và có hệ thống về quá
trình đổi mới tư duy đối ngoại và triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ
và rộng mở nhằm phá thế bị bao vây cấm vận của Việt Nam giai đoạn 19861995. Từ đó, xác định đúng đắn vị trí của công tác đối ngoại đối với việc
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của công cuộc Đổi mới đất
nước trong giai đoạn này.
Những nghiên cứu của luận văn có thể góp phần bổ sung và làm phong
phú thêm những tài liệu phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy
chính sách đối ngoại, lịch sử ngoại giao nói riêng và lịch sử Việt Nam nói
chung ở các trường phổ thông, cao đẳng và đại học.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
chia thành ba chương:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử và qúa trình đổi mới đường lối đối ngoại
của Việt Nam giai đoạn 1986-1995
Chương 2: Các hoạt động đối ngoại phá thế bao vây, cấm vận của Việt
Nam giai đoạn 1986-1995
Chương 3: Một số nhận xét về quá trình phá vây, cấm vận trong quan hệ
quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1986-1995
9
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-1995
1.1 Bối cảnh lịch sử
1.1.1 Tình hình thế giới và khu vực
Từ những năm 80 của TK XX trở đi, tình hình chính trị, kinh tế - xã hội
thế giới có nhiều biến chuyển dưới tác động của cuộc khủng hoảng dầu mỏ
1973, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, xu
hướng toàn cầu hóa và hoạt động của các công ty đa quốc gia. Cuộc khủng
hoảng dầu mỏ thế giới năm 1973 đã gây ra sự khủng hoảng toàn diện về cả
kinh tế lẫn chính trị. Giá dầu tăng cao gây áp lực lớn cho nền kinh tế nên
nhiều quốc gia phương Tây đã có sự chuyển hướng hoặc điều chỉnh chiến
lược phát triển, cải cách cơ cấu kinh tế, giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng
lượng dầu mỏ. Trong đó, các quốc gia đặc biệt quan tâm tới việc đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học - kỹ thuật theo chiều sâu nhằm giải quyết khủng hoảng
và tiếp tục phát triển. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đặt trọng
tâm nhiều vào việc nghiên cứu, phát triển các loại năng lượng mới (nguyên
tử, nhiệt hạch, mặt trời, thủy triều, gió…), vật liệu mới (polime, nano…) và
chế tạo công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động…). Những sản
phẩm khoa học kỹ thuật mới đã làm thay đổi tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, tạo điều kiện gia tăng sức sản xuất, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của con người. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã tạo động
lực mạnh mẽ cho hoạt động của các công ty đa quốc gia. Hơn nữa, chính sự
mở rộng hoạt động của các công ty này và tiến bộ khoa học công nghệ đã thúc
đẩy sự phân công, chuyên môn hóa lao động quốc tế cũng như quá trình toàn
cầu hóa, khu vực hóa. Nhờ đó, thị trường thương mại và trao đổi quốc tế về
hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức được hình thành và phát triển
nhanh chóng. Xu thế mới này cũng giúp các nước đang phát triển có cơ hội
10
được hưởng lợi từ việc tham gia vào hệ thống kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó,
toàn cầu hóa đặt ra trước các dân tộc nhiều vấn đề phải giải quyết như việc
đào tạo con người cho nguồn nhân lực chất lượng cao, sự lệ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia, cũng như sự chi phối của các tổ chức kinh tế - tài chính lớn
trên thế giới đối với các quốc gia,… Để giải quyết những vấn đề này, các
quốc gia nhất là những nước đang phát triển phải đổi mới tư duy đối ngoại,
điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế nhằm ổn định tình hình trong nước,
đồng thời giao lưu hợp tác với các nước khác trong xu thế đa dạng hóa hóa,
đa phương hóa xu thế quốc tế.
Trong bối cảnh mới, Liên Xô và nhiều nước XHCN Đông Âu đã không
kịp thời điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế và dẫn tới hậu quả là đất nước
lâm vào khủng hoảng trầm trọng trên mọi lĩnh vực. Năm 1985, Gorbachev
tiến hành cải tổ, tuy nhiên công cuộc cải tổ không thành công, do đó đẩy
nhanh quá trình tan rã của Liên bang Xô viết. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô đã
tác động mạnh mẽ đến Đông Âu, làm cho cuộc khủng hoảng trở nên sâu sắc,
dẫn đến sự tan rã chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu. Sự sụp đổ của Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu đã đưa tới kết thúc Chiến tranh Lạnh, do đó
trật tự hai cực biểu hiện cuộc đối đầu Đông – Tây khốc liệt cũng kết thúc.
Đặc điểm nổi bật trong quan hệ quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh Lạnh là
tính hai mặt. Từ mâu thuẫn đối đầu nhau gay gắt trong thời kỳ chiến tranh
Lạnh, các nước đã chuyển sang mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa
xung đột lại vừa thỏa hiệp, đấu tranh nhưng hạn chế chiến tranh trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia có liên quan. Những chuyển biến kinh
tế có tác động lớn đến cục diện chính trị thế giới, thúc đẩy xu hướng đa dạng
hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế trong quan hệ quốc tế. Sau
chiến tranh Lạnh, tất cả các nước đều cố gắng điều chỉnh chiến lược phát triển
và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển kinh tế, coi đây là cơ sở xây
dựng sức mạnh thật sự của mỗi quốc gia. Do vậy, kinh tế trở thành trọng điểm
11
trong quan hệ quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho
chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong cuộc đọ sức giữa các
cường quốc. Chiến lược đối ngoại của các nước cũng đã thay đổi theo hướng
hòa dịu, tăng cường hợp tác, xây dựng khuôn khổ quan hệ mới ổn định lâu dài
để tạo ra không khí quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế. Hơn nữa, nhiều
vấn đề toàn cầu (ô nhiễm môi trường, dịch bệnh truyền nhiễm…) bước đầu
nảy sinh do tác động của sự phát triển kinh tế đòi hỏi các quốc gia phải có sự
hợp tác chung tay để giải quyết. Tình hình này cũng góp phần đưa đến xu thế
hòa dịu và hợp tác trong quan hệ quốc tế, từ đó tạo cơ sở cho mọi sự hợp tác cả
về trên tất cả các mặt chính trị - kinh tế và văn hóa - xã hội.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng có biến đổi sâu sắc và toàn diện,
Đông Á bước đầu trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao, một số quốc gia
và vươn lên trở thành những con hổ mới về kinh tế như Hàn Quốc, Đài Loan,…
Công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc bước đầu đạt được nhiều thành tựu và
có thể cung cấp nhiều bài học cho công cuộc Đổi mới ở Việt Nam. Trong bối
cảnh hậu chiến tranh Lạnh, các nước trong khu vực đều có nguyện vọng cùng
tồn tại hòa bình, hữu nghị và hợp tác để phát triển. Do vậy, qúa trình hợp tác
ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều tầng, nhiều lớp và dưới nhiều hình thức, như
tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Khu vực thương
mại tự do (ASEAN), Khu vực hợp tác kinh tế Nam Á (SAARC)…
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực đó, các nước Đông Nam Á đã từng
bước điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế. Những quốc gia này đã chuyển hướng hoạt động từ hợp tác an ninh
chính trị sang đề cao hợp tác kinh tế, tăng cường hợp tác với các cường quốc
kinh tế và những tổ chức kinh tế lớn trên thế giới. Từ chỗ là một khu vực bị
phân hóa sâu sắc, nghi kị lẫn nhau từ trong thời kì chiến tranh Lạnh, các nước
ASEAN và Đông Dương bắt đầu chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Hội nghị
cấp cao lần thứ tư của ASEAN tổ chức tại Singapore (1-1992), đánh dấu bước
12
ngoặt quan trọng về quan hệ hợp tác của ASEAN, với việc chuyển mạnh sang
hợp tác kinh tế nội bộ và với bên ngoài từ đầu những năm 90, sức mạnh kinh
tế của các nước ASEAN gia tăng mạnh mẽ, họ bắt đầu đầu tư ra nước ngoài
để “cất cánh” vào đầu thế kỉ XXI với các là nước công nghiệp mới hoặc công
nghiệp phát triển” [41, tr.29]. Từ năm 1967 đến năm 1995, kim ngạch thương
mại của các nước ASEAN tăng từ 10 tỷ đô la Mỹ lên tới 620 tỷ đô la Mỹ. Một
số nước đang thực hiện công nghiệp hóa với tốc độ cao, trở thành một trong
những con rồng của châu Á như Singapore [18, tr.19].
Như vậy, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, tình hình thế giới và
khu vực có những biến động to lớn, tác động mạnh mẽ đến các quốc gia trên
thế giới. Thay vì đối đầu, chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống TBCN và
XHCN, các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau đã dần xây dựng các
mối quan hệ trên cơ sở vừa hợp tác vừa đấu tranh nhằm mục tiêu phát triển
kinh tế và bảo vệ lợi ích quốc gia trên trường quốc tế. Bối cảnh quốc tế trên là
những yếu tố quan trọng chi phối việc xác định các mục tiêu trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam.
1.1.2 Tình hình Việt Nam
Trong mười năm đầu sau khi đất nước được thống nhất (1975-1985),
Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, lạm phát lên
tới mức phi mã. Khó khăn yếu k m đó xuất phát từ những “sai lầm nghiêm
trọng và k o dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược
và tổ chức thực hiện” [19, tr.25 . Nền kinh tế đặt dưới sự quản lí kiểu hành
chính, tập trung, quan liêu bao cấp của nhà nước đã bộc lộ nhiều hạn chế. Các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước nhiều mục tiêu, chỉ tiêu chủ
quan, nóng vội, quá coi trọng số lượng mà không quan tâm tới chất lượng, bởi
mong muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong
khi đất nước mới đang ở chặng đường đầu tiên. Trong bối cảnh đó, cuộc
khủng hoảng ở Liên Xô đã làm sụt giảm viện trợ vốn là nguồn thu ngân sách
13
chủ yếu nhất của Việt Nam lúc này. Đặc biệt, sau hai cuộc chiến tranh biên
giới, Việt Nam bị bao vây, cấm vận càng làm cho kinh tế càng khó khăn hơn.
Đứng trước những khó khăn và thách thức đó, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (1986) của Đảng đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước với trọng
tâm là đổi mới kinh tế. Đại hội đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ
cấu kinh tế (cơ cấu công - nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng;
cơ cấu kinh tế huyện); thực hiện ba chương trình kinh tế (chương trình lương
thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu) và
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đề ra chủ trương nhằm kế thừa,
phát huy những thành tựu đạt được; khắc phục khó khăn, hạn chế mắc phải trong
bước đầu đổi mới; ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó; điều
chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới đề ra từ Đại hội VI để tiếp tục đưa
sự nghiệp cách mạnh tiến lên. Đại hội đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của hoạt động
đối ngoại trong giai đoạn 1991-1995 là giữ vững hòa bình, tranh thủ những điều
kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc,
góp phần tích cực vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Các chương trình kinh tế - xã hội 1986-1990 và 1991-1995 đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Thứ nhất, Việt Nam đã chuyển từ mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung chỉ có hai thành phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang
mô hình mới là kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể
tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của
Việt Nam tăng từ 3,9% trong giai đoạn đầu Đổi mới (1986-1990) lên 8,2%
trong 5 năm tiếp theo (1991-1995) (xem biểu đồ 1.1).
14
12
10
8.7
9.5
8.1
8.8
7.3
8
5.1
5.9
5.1
6
3.5
4
%
2.8
2
0
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Biểu đồ 1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) giai đoạn 1986-1995
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ website Ngân hàng thế giớ
Cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng hiện đại, phát huy tiềm năng
của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế. Tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm 1995 còn 27,2%; cơ cấu trồng
trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hương tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản
phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng dù chưa ổn định song có xu hướng gia tăng,
đến năm 1995 đạt 28,7%. Trong khi đó, khu vực dịch vụ đã chứng kiến đà tăng
nhanh và liên tục từ 33% năm 1986 lên 44,1% năm 1995 (xem bảng 1.2).
15
Bảng 1.2 Cơ cấu tổng sản phẩm trong nƣớc theo giá thực tế phân
theo khu vực kinh tế 1986-1995 (%)
1986
Nông lâm nghiệp và
thủy sản
38.1
Công nghiệp và
xây dựng
28.9
1987
40.5
1988
Năm
Dịch vụ
Tổng
33.0
100
28.4
31.1
100
46.3
24.0
29.7
100
1989
42.1
22.9
35.0
100
1990
38.7
22.7
38.6
100
1991
40.5
23.8
35.7
100
1992
33.9
27.3
38.8
100
1993
29.9
28.9
41.2
100
1994
27.4
28.9
43.7
100
1995
27.2
28.7
44.1
100
Nguồn Tổng cục Thống kê, Việt Nam 20 năm đối mới và phát triển 1986-2005
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=418&ItemID=4326
Các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế thời gian này đều có bước phát
triển khá. Trong nông nghiệp, sản lượng lương thực “năm 1988 đạt 19,5 triệu
tấn, vượt năm 1987 hơn 2 triệu tấn và năm 1989 đạt 21,4 triệu tấn” [21,
tr.107]. Như vậy, từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập lương
thực đến năm 1990 sản xuất nông nghiệp nhất là lương thực đã vươn lên đáp
ứng nhu cầu về gạo trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng
ổn định đời sống nhân dân. Trong công nghiệp, giai đoạn 1991-1995 giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/ năm. Một số ngành bước đầu tăng trưởng
khá: năm 1995 so với năm 1990, công nghiệp nhiên liệu tăng gấp 3,2 lần, điện
gấp 1,6 lần, vật liệu xây dựng gấp 2,7 lần, chế biến thực phẩm gấp 1,9 lần [21,
tr.117]. Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990, bình quân
hàng năm tăng 12%. Giao thông vận tải chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa
tăng 62%. Thị trường hàng hóa trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày
16
càng tăng của xã hội về số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa. Bên cạnh
đó, kinh tế đối ngoại cũng phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô,
hình thức và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội. Trong giai đoạn 1986-1995, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa tăng
gần 4,5 lần. Tuy nhiên, cán cân thương mại vẫn tiếp tục âm, Việt Nam thường
xuyên ở tình trạng nhập siêu từ 1 tỉ USD đến 2,8 tỉ USD (chỉ có năm 1991 là
xuất khẩu cao hơn nhập khẩu). Nguyên nhân, do hàng hóa Việt Nam xuất đi
chủ yếu là các nguyên liệu thô như than đá, dầu thô, các sản phẩm nông-lâmngư nghiệp như gạo, cà phê, cao su, tiêu, thổ sản… Trong khi đó hàng hóa
nhập về lại là những sản phẩm được sản xuất với kĩ thuật cao như ô tô, xăng
dầu, sắt, th p,… [44, tr.39]
Nhờ tăng trưởng kinh tế ổn định, nạn lạm phát đã dần được kiểm soát
hiệu quả. Lạm phát từ mức 774,5% năm 1986 giảm xuống 67,1% năm 1991,
17,5% năm 1992, 15,2% năm 1993, 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995
[21, tr.117]. Chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là
20% thì năm 1989 giảm xuống còn 2,5% và 1990 là 4,4% [19, tr.237].
Những thành tựu về kinh tế nói trên đã giúp Việt Nam đạt được những
thành tựu đáng khích lệ về phát triển xã hội, góp phần vào việc ổn định tình
hình chính trị. Thu nhập bình quân đầu người năm 1988 chỉ đạt 86
USD/người/năm – là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng
liên tục trong các năm sau, đến năm 1995 đạt 289 USD/người/năm. Công tác
xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả ấn tượng tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ
30% năm 1992 xuống còn 15,6% năm 1998 (theo chuẩn quốc gia) [79, tr.5].
Các chỉ số xã hội của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt trong những thập kỷ
qua, không chỉ thu nhập tăng lên mà giáo dục cũng được cải thiện và tuổi thọ
trung bình của người Việt Nam ngày càng tăng từ 69 tuổi (1986) lên 72 tuổi
(1995) tổng hợp từ ngân hàng thế giới.
17
- Xem thêm -