LUẬN VĂN:
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành
trong thi hành án dân sự tại Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới
của
Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyề
n xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, n
ước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến
nội
dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực
nhà
nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh qu
yền
lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu
cầu
hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà n
ước,
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của
các
cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp
năm
1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực p
háp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị
lực
lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải ngh
iêm
chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt đ
ộng
thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm
minh
của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan tr
ọng
đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa á
n và
các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc c
ông
lý được thực hiện trong cuộc sống.
Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên c
ạnh
những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc không có điều kiện
thi
hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc tr
ách,
vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp
luật
của một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của
dư
luận xã hội… Còn về phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ
cho
Chấp hành viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tò
a án
và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, muố
n tổ
chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia c
ông
tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ s
ự an
toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không thể tổ chức cư
ỡng
chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên
nói
riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối
hợp
của các ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công a
n và
một số cơ quan chuyên môn khác…. Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên về p
háp
luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết định đã có hiệu
lực
pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
hoạt
động của công tác thi hành án dân sự, làm công tác thi hành án dân sự trong những
năm
qua chưa đạt được kết quả như sự mong đợi của xã hội.
Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
tám
(Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án t
heo
hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ
Tư
pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và xây dựng các quy định pháp luật về C
hấp
hành viên trong thi hành án dân sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị phá
p lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết trong c
ông
cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác n
hau
liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án
dân
sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu sâ
u và
toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án
dân
sự.
Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh của về
địa
vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời thực tiễn cũng đ
ặt ra
yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của C
hấp
hành viên trong thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở
đó
đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luậ
t về
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay.
Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa phươn
g và
hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi hành án dân sự (đào
tạo
nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ đang làm công tác thi hành án dâ
n sự
trong các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nà
o để
các Chấp hành viên chủ động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu
quả
nhất, góp phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứ
u đề
tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về địa vị
pháp
lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Cũng đã có những công trình liên
quan
đến đề tài luận văn ở cấp độ rộng hơn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về
đổi
mới hoạt động tổ chức thi hành án của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước "Luận cứ khoa
học
và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt nam trong
giai
đoạn mới" mã số đề tài: 2000-58-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm đề tài;
Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”
của
Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Luận văn thạc sỹ
Luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003 “Đổi mới tổ chức thi hàn
h án
dân sự ở Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sỹ Luật học tại Trường
Đại
học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Công Long với đề tài “Các biện pháp cưỡng ch
ế thi
hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, của tác giả Trần Văn Quảng với đề tài “Một số
vấn
đề về tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật
Hà
Nội của tác giả Lê Xuân Hồng, với đề tài “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án
dân
sự”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả Lê Anh T
uấn,
với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành dân sự Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, Học viện C
hính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ s
ở lý
luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện n
ay”;
Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Ho
àng
Thế Anh, với đề tài “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn tiế
n sỹ
luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Ngu
yễn
Thanh Thủy với đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện n
ay”.
Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ
Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền với đề tài "Năng lực của Chấp hành viên tron
g thi
hành án dân sự ở Việt Nam”.
Với đề tài “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dâ
n
sự tại Việt Nam”, ngoài chương cơ sở lý luận của đề tài, luận văn sẽ tập trung nghiên
cứu
một cách chi tiết, những nhiệm vụ cụ thể của Chấp hành viên trong quá trình tổ chứ
c thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy
định.
Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các quy định hiện hành về quyền hạn, nhiệm vụ
của
Chấp hành viên, trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế t
rong
quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các
quy
định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam
góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực
hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành
viên
trong thi hành án dân sự cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm c
ơ sở
cho việc hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong
thi
hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư p
háp
đến năm 2020.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của C
hấp
hành viên trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp n
hằm
hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án
dân
sự tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, pháp luật về địa vị pháp lý
của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên
và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết đị
nh ở
Việt Nam từ năm 2004 đến nay.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của C
hấp
hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ Luật học, với đề tài Hoàn thiện địa vị phá
p lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, luận văn tập trung nghiên
cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên
trong hoạt động thi hành án dân sự; Những quy định về địa vị pháp lý của Chấp h
ành
viên và thực trạng thực hiện những quy định đó trong hoạt động thi hành án dân s
ự tại
Việt Nam từ năm 2004 đến nay; đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý
của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung,
địa
vị pháp lý của Chấp hành viên, xác định các tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của C
hấp
hành viên, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị phá
p lý
của Chấp hành viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Na
m.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện ch
ứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải các
h tư
pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương p
háp
hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương p
háp
luật học so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Chấp h
ành
viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
- Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên tron
g thi
hành án dân sự; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối việc xác định đị
a vị
pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Luận văn đã phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành
án dân sự thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những đ
iểm
tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đư
a ra
những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ
của
Chấp hành viên trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam từ năm 2
004
đến nay, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến ngh
ị cụ
thể để hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại
Việt
Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật c
ũng
như về các biện pháp bảo đảm cho Chấp hành viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩ
a vụ
của mình trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định
khác do pháp luật quy định.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên
cứu
hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả
thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu
và học tập các môn học thi hành án dân sự, Luật tố tụng dân sự v.v… tại các cơ sở
đào
tạo Luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của l
uận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước là
một
trong những nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mọi hành vi vi phạm pháp luật,
mọi
tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Tòa án xem xét giải quyết theo thẩm quyề
n và
theo trình tự tố tụng. Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền, lợi ích hợp p
háp
của mình, họ có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc xem xét giải quyết của
Tòa
án là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự
(cá
nhân, tổ chức, Nhà nước). Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải quyết về nội dung vụ
việc
và xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Các quyền và nghĩa vụ
này
muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án. Thực chất, việc thi hàn
h án
là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ qua
n tài
phán khác được thực hiện trên thực tế. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định:
Các
bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dâ
n tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được nh
ững
người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án và người phải thi h
ành
án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự nguyện, bản án, quyết địn
h có
hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của p
háp
luật thi hành án dân sự. Các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đư
a ra
thi hành đó là: Bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền
, tài
sản thu lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản
án,
quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án và Q
uyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của
Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là
bản
án, quyết định) quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, Điều 2 Luậ
t thi
hành án dân sự còn quy định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự
đưa
ra thi hành, bao gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản
án,
quyết định của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo h
oặc
kháng nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của ng
ười
được thi hành án đó là, bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao độ
ng,
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường th
iệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm v
iệc
và Quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án là
văn
bản pháp lý nhân danh Nhà nước giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân
sự,
kinh doanh thương mại và hành chính. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc c
ạnh
tranh và Trọng tài thương mại Việt Nam cũng là những văn bản pháp lý do các
tổ
chức phi chính phủ (cơ quan tài phán) giải quyết các việc dân sự hoặc kinh do
anh
thương mại theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có quyền lợi bị xâm hại. Những p
hán
quyết của Tòa án cũng như những phán quyết của các cơ quan tài phán muốn được thự
c thi
trên thực tế phải qua giai đoạn thi hành án dân sự.
Có thể nói thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình
bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các hành vi pháp lý nhằ
m thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan khác do Nhà n
ước
quy định.
Theo Từ điển Luật học, thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có t
hẩm
quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện
các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [41, tr.705]. Công tác thi hàn
h án
dân sự thuộc về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là cơ q
uan
thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Công tác thi hành án dân sự là loại việc có những nét đặc trưng riêng xuất phá
t từ
việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng, nhưng chủ yếu là nh
ững
quyết định mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự; xuất phát từ nguyên tắc
tôn
trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp dâ
n sự.
Người được thi hành án giữ vai trò chủ động trong thi hành án và họ có quyền quyết
định
đưa ra những yêu cầu thi hành các quyết định trong các bản án, quyết định dân sự có
liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, như: quyền yêu cầu cơ quan thi hàn
h án
dân sự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án; quyền yêu cầu không tiếp tục thi hàn
h án,
quyền cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án...
Trong quá trình thi hành án, các bên đương sự (người được thi hành án và người
phải
thi hành án) có thể tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án, tuy nhiên việc thỏa thuận
này
phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội (Điều 6 Luật Thi hành án d
ân sự
năm 2008). Theo đó, các đương sự thỏa thuận về các vấn đề như: thời gian, địa đ
iểm,
phương thức thi hành án... Cơ quan thi hành án dân sự nói chung, Chấp hành viên nói r
iêng
có trách nhiệm theo dõi, giám sát và chứng kiến ghi nhận sự thỏa thuận thi hành của các
bên
đương sự. Về phía Nhà nước, luôn luôn khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hàn
h án
hoặc thỏa thuận với nhau về việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các q
uyết
định của Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Do các bản án, quyết định dân sự rất đa dạng, mặc dù phải thực hiện theo trìn
h tự,
thủ tục do luật định, song thi hành án dân sự cũng đòi hỏi rất cao tính linh hoạt. Tùy t
ừng
trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quy
ết các
vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức thi hành án, sao cho việc thi hành án đạt được
mục
đích và hiệu quả cao nhất.
Trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ có cơ quan thi hành án và Chấp hành viê
n là
người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành và tổ chức thi hành các bản án, q
uyết
định. Khi thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nh
iệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Vì những đặc trưng trên, pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức thi hành
các
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật chỉ thuộc thẩm quyền của cơ q
uan
nhà nước là các cơ quan thi hành án dân sự. Từ đó, hoạt động thi hành án dân sự h
iện
nay được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành t
heo
một thủ tục, trình tự nhất định được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản
án,
quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, Nghị quyết của Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/200
8 về
việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã chủ trương xã hội hoá một số công việc
liên
quan đến thi hành án dân sự, cụ thể như sau:
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong lĩnh vực tư p
háp
nói chung, lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng nhằm từng bước giảm bớt gánh nặng
cho
bộ máy, biên chế, ngân sách của Nhà nước phục vụ công tác thi hành án dân sự thì
chủ
trương xã hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự được coi là một trong nh
ững
giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Chủ trương này đã được quy định tại Nghị quyết
49NQ/TW của Bộ Chính trị đó là “Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định nh
ững
hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện mộ
t số
công việc thi hành án…; nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên), trước
mắt
có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm trên cơ sở tổng kết, đánh
giá
thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Trong quá trình thảo luận tại các kỳ họp của Quốc
hội
cũng có ý kiến đại biểu cho rằng nên đưa quy định xã hội hoá hoạt động thi hành án
dân
sự thành một điều trong Luật thi hành án dân sự để có cơ sở pháp lý triển khai thực
hiện
trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội thì để thực hiệ
n có
hiệu quả chủ trương này cần phải có bước đi thích hợp, trên cơ sở làm thí điểm sau
đó
tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá khả năng thực hiện và hiệu quả của việc thực
hiện
xã hội hoá hoạt động thi hành án. Hơn nữa, do hiện nay việc thực hiện xã hội hoá
hoạt
động thi hành án (cụ thể là việc tổ chức thí điểm chế định Thừa phát lại) chưa được t
riển
khai nên chưa có cơ sở thực tiễn để đánh giá và áp dụng. Do vậy, nhiều quy định v
ề xã
hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự chưa nên đưa vào trong Luật thi hàn
h án
dân sự mà chỉ nên quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật thi h
ành
án dân sự. Cuối cùng, Quốc hội đã nhất trí quy định trong Nghị quyết về việc thi h
ành
Luật thi hành án dân sự, giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm
chế
định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực
hiện
từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2009 đến n
gày
01/7/2012). Từ kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá thực tiễn, báo cáo Q
uốc
hội xem xét, quyết định. Thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội, Bộ Tư Pháp đã k
hẩn
trương xây dựng và trình Chính phủ xem xét phê duyệt Nghị định về “Tổ chức và
hoạt
động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh”[39]. Và n
gày
24/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động Thừa phá
t lại
*
thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh , trong đó quy định những công việc
của
Thừa phát lại (Điều 3 của Nghị định) gồm:.Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của
Tòa
án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan
, tổ
chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chứ
c thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Như vậy, việ
c tổ
chức thi hành án dân sự không chỉ giao cho cơ quan Nhà nước mà còn giao cho tổ c
hức
khác đó là Tổ chức Thừa phát lại, tuy nhiên đây mới chỉ hoạt động thí điểm tại Th
ành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian 03 năm kể từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012.
Như vậy, có thể khái quát về thi hành án dân sự trong điều kiện mới như sau:
Thi
hành án dân sự là hoạt động có định hướng của Nhà nước được thực hiện bởi các
chủ
thể do pháp luật quy định, nhằm mục đích thực hiện trên thực tế các quyết định dân s
ự có
hiệu lực thi hành bằng cách áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với pháp luậ
t và
tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2.1.1.2. Bản chất của thi hành án dân sự
Trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về
khái
niệm, bản chất của thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng, thi hành án là một giai đ
oạn
của quá trình tố tụng, diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử, được pháp luật tố tụng quy đ
ịnh.
Thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ pháp luật, phù hợp với hoạt động của tố tụn
g tư
pháp, với hai lý do cơ bản như sau: thứ nhất, có xét xử thì phải có thi hành án, thi hàn
h án
dựa trên cơ sở và kết quả của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống
nhất
của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự; thi hành án dân sự là nhằm mục đích thực
thi
*
Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh có hiệu lực thi hành n
gày
09/9/2009.
các phán quyết của Tòa án, bảo đảm triệt để các quyền, lợi ích hợp pháp của công dâ
n, tổ
chức và Nhà nước. Không có hoạt động thi hành án thì mọi phán quyết của Tòa án c
ũng
như các các quyết định khác chỉ là trên bản giấy mà thôi. Hoạt động thi hành án gắn
liền
với quá trình xét xử và chịu sự chi phối của quá trình xét xử. Cho nên thi hành án kh
ông
*
thể tách ra khỏi quá trình tố tụng mà phải coi nó là giai đoạn tố tụng ; Thứ hai, thủ tụ
c tố
tụng do nhiều cơ quan tiến hành, chẳng hạn như hoạt động điều tra vụ án hình sự d
o cơ
quan Kiểm lâm, Hải quan tiến hành được coi là hoạt động tố tụng hình sự, trong khi
các
cơ quan này chỉ là các cơ quan hành chính được giao quyền điều tra cho nên hoạt đ
ộng
của cơ quan thi hành án dân sự cũng cần được coi là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự.
- Xem thêm -