Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn của nguyễn minh châu...

Tài liệu Luận văn hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn của nguyễn minh châu

.PDF
120
504
86

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ TIẾP HÖ THèNG BIÓU T¦îNG TRONG TRUYÖN NG¾N CñA NGUYÔN MINH CH¢U Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Văn Phƣợng HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Tiếp LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự động viên giúp đỡ của Ban giám hiệu trường Đại học sư phạm Hà Nội, nơi tôi đã học tập, nghiên cứu và hoàn thành cuốn luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và những người yêu quý đã giúp tôi có được kết quả như ngày hôm nay. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Văn Phượng. Với học vấn uyên thâm, niềm đam mê nghiên cứu khoa học, thầy đã hướng dẫn tôi tìm đề tài, nghiên cứu các thành tựu sáng tác của Nguyễn Minh Châu, định hướng xây dựng những luận điểm khoa học khách quan, chính xác và nhiệt tình, trách nhiệm trong quá trình hoàn thiện luận văn của tôi. Tuy thời gian học tập và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học sư phạm Hà Nội không nhiều, nhưng tôi đã học tập và trưởng thành rất nhiều trong nhận thức, nghiên cứu khoa học của mình. Kết quả của quá trình đào tạo Thạc sĩ sẽ giúp tôi vững vàng hơn trong nghề nghiệp mà tôi gắn bó và cống hiến trọn đời mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 2017 Người viết Nguyễn Thị Tiếp MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 7 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8 7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 8 8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8 Chương 1: BIỂU TƢỢNG VÀ Ý NGHĨA MỸ HỌC - NGHỆ THUẬT CỦA BIỂU TƢỢNG ....................................................................................... 9 1.1. Khái niệm biểu tƣợng .............................................................................. 9 1.1.1. Biểu tượng và sáng tạo nghệ thuật ..................................................... 9 1.1.2. Biểu tượng trong văn học.................................................................. 13 1.2. Sứ mệnh nghệ thuật của biểu tƣợng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ..................................................................................................... 22 1.2.1. Biểu tượng, một nét đặc sắc của trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu ..................................................................................... 24 1.2.2. Biểu tượng và vai trò nghệ thuật của biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ............................................................................ 27 Chương 2: HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU..................................................................... 31 2.1. Cơ sở hình thành .................................................................................... 31 2.1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc .................................................................... 31 2.1.2. Âm hưởng thời đại ............................................................................. 31 2.1.3. Hoàn cảnh lịch sử xã hội và hoàn cảnh riêng .................................. 32 2.1.4. Vốn sống, tài năng và quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ...... 34 2.2. Hệ thống biểu tƣợng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu .... 41 2.2.1. Nhóm biểu tượng thể hiện vẻ đẹp tâm hồn Việt ................................ 41 2.2.2. Nhóm biểu tượng thể hiện vẻ đẹp tính cách Việt .............................. 54 2.2.3. Nhóm biểu tượng thể hiện những vấn đề tư tưởng, triết lý Việt ....... 58 Chương 3: TÍNH GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA THẨM MĨ NGHỆ THUẬT VÀ CÁC VẪN ĐỀ DIỄN GIẢI BIỂU TƢỢNG TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU ............................................................................... 75 3.1. Tính đa trị của biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ...... 75 3.2. Ý nghĩa thẩm mĩ nghệ thuật của biểu tƣợng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ....................................................................................... 80 3.3. Biểu tƣợng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và các vấn đề đặt ra về diễn giải .......................................................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Biểu tượng được xem như là một hình thức tư duy nghệ thuật của nhà văn. Nói đến hình ảnh biểu tượng là nói đến bản chất tượng trưng của hình tượng nghệ thuật. Hệ thống hình ảnh tượng trưng mang tính chất ám ảnh được sử dụng như một mã nghệ thuật để thể hiện cái nhìn độc đáo của nhà văn về thế giới và lưu giữ những dấu ấn riêng của tác giả, thể loại, thời đại, dân tộc, khuynh hướng văn học. Trong văn học, bên cạnh việc tái hiện thế giới như nó vốn có, cần một hệ thống hình tượng vừa cụ thể, vừa khái quát để tái tạo, xây dựng nên một thế giới riêng sinh động giàu tính biểu cảm của tác phẩm. Với tài năng và bản lĩnh sáng tạo của mình, nhà văn xây dựng biểu tượng nghệ thuật tham gia vào kết cấu tác phẩm, mang tính đa nghĩa, đa thanh, đem lại sự mới mẻ, độc đáo cho tác phẩm, tạo dấu ấn phong cách rõ nét cho chính tác giả. Biểu tượng luôn chứa đựng trong nó những giá trị đã được khẳng định, song không phải vì thế mà nó trở thành nơi giam giữ các tầng ý nghĩa cũ mòn. Trái lại, biểu tượng là một thực thể sống động, luôn luôn có sự luân chuyển đắp bồi thêm ý nghĩa liên tục. Sinh thể ấy được nuôi dưỡng bằng tư duy, bằng những tưởng tượng phong phú của con người. Đời sống của con người không bao giờ bớt phức tạp đi và biểu tượng vì thế cũng không bao đơn giản hơn. Những phức tạp của đời sống dội vào tâm tư con người những suy tưởng không cùng, để rồi từ đó chúng ta lại dồn nén vào hệ thống biểu tượng. Đó là con đường tất yếu của đời sống và cũng là xu hướng tồn tại và phát triển của biểu tượng. Nguyễn Minh Châu là nhà văn suốt đời khao khát, khám phá cái đẹp và sự phức tạp chứa đựng trong tâm hồn con người và cuộc sống. Với sự cống hiến hết mình cho nghệ thuật, ông được đánh giá là tiền trạm đổi mới cho văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975, các sáng tác của ông chủ yếu theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng, ông mê mải tìm kiếm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người. Sau năm 1975, bắt nhịp với công cuộc đổi mới và cuộc sống thời bình đầy những vấn đề phức tạp, các sáng tác của ông- đặc biệt là truyện ngắn chủ 1 yếu đề cập tới những vấn đề thế sự mang chiều sâu nhân bản. Sử dụng hình ảnh biểu tượng là một trong những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Nó như một dấu ấn đặc sắc đánh dấu một chất lượng mới của sự phát triển tư duy nghệ thuật. Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là các truyện ngắn sau năm 1975 thường xuất hiện những biểu tượng đa nghĩa góp phần nâng tác phẩm lên tầng ý nghĩa triết học. Có chiều sâu về nội dung phản ánh, hấp dẫn bởi bút pháp thể hiện độc đáo, các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thu hút sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu và phê bình văn học. Tuy nhiên, với số lượng sáng tác rất đồ sộ của ông, chúng tôi nhận thấy nhiều vấn đề trong các sáng tác ấy vẫn còn có thể là những gợi ý để chúng ta nghiên cứu và tìm tòi một cách chuyên sâu. Và đến nay, qua khảo sát, chúng tôi chưa thấy một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của ông. Với công trình này xin được nghiên cứu sâu về Hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn cuả Nguyễn Minh Châu. Với sự trân trọng tài năng nghệ thuật của ông và nhận thấy tính chất hấp dẫn của đề tài, sự cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ biểu tượng, chúng tôi muốn vận dụng lý thuyết về biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật vào khám phá những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong một số truyện ngắn đặc sắc của ông, để từ đó góp thêm phần khẳng định về tài năng sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Đồng thời, chúng tôi hi vọng vấn đề này sẽ góp phần thiết thực vào việc dạy và học các sáng tác của ông trong trường phổ thông. 2. Lịch sử vấn đề Ba mươi năm miệt mài đóng góp cho nền văn học dân tộc, Nguyễn Minh Châu đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với những tác phẩm có nội dung nhân văn cao cả và độc đáo về bút pháp. Dường như cả cuộc đời người nghệ sĩ cách mạng này là cuộc kiếm tìm mê mải với hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người. Ông vừa là cây bút văn xuôi có những đóng góp xuất sắc cho nền văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ lại vừa là một trong những người “mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam từ sau năm 2 1975. Từ phong cách sáng tác mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng sang cảm hứng thế sự, đời tư với những đề tài độc đáo và giàu tính triết lý. Nguyễn Minh Châu là một trong số nhà văn mà sự nghiệp sáng tác phản ánh tương đối trung thành quá trình vận động phát triển của văn xuôi Việt Nam đương đại. Các tác phẩm của ông được lựa chọn giảng dạy trong chương trình ngữ văn Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và Đại học. Đã có hàng trăm bài phê bình, nghiên cứu các tác phẩm độc lập hoặc các phương diện, giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tư tưởng và tài năng của Nguyễn Minh Châu. Hình như nhà phê bình nào, bạn đọc nào cũng có thể tìm thấy ở tác phẩm của Nguyễn Minh Châu những điều tâm đắc và hứng thú. Ở đây, khi tìm hiểu lịch sử nghiên cứu biểu tượng truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, chúng tôi nhận thấy các công trình khoa học, chuyện luận, thảo luận, bài viết…. ít nhiều đều có động chạm tới biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, khi thì bằng cái nhìn hệ thống qua nhiều tác phẩm, khi thì khám phá giá trị của những biểu tượng cụ thể trong từng tác phẩm. Đó là cơ sở, tiền đề, gợi ý cho người viết triển khai hoàn thành luận văn này. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng dự đoán và mong mỏi: “Nhất định rồi sẽ có cả một khoa nghiên cứu về nhà văn hết sức đặc sắc này của một giai đoạn mấy mươi năm của văn học ta” [47; 10]. Và đúng như Nguyên Ngọc dự đoán, trong khoảng mấy thập kỉ gần đây, Nguyễn Minh Châu cùng những sáng tác của ông được sự quan tâm rất nhiều của giới phê bình và giới nghiên cứu văn học. Trong lĩnh vực nghiên cứu các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, chúng tôi có thể kể đến các công trình nghiên cứu có tầm vóc như công trình nghiên cứu của Trần Đình Sử. Trong bài viết Bến quê một phong cách trần thuật giàu tính triết lí, ông cho rằng bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh rồi tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu xuất hiện như một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới. Bài viết này đã chủ ý khẳng định sự độc đáo trong phong cách của Nguyễn Minh Châu nhưng mới chỉ dừng ở mức độ sơ lược chủ yếu đi sâu khám phá phong cách nhà văn từ điểm nhìn trần thuật. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu 3 nhất là thể loại truyện ngắn sau năm 1975 ngay từ đầu ra mắt trên diễn đàn đã thu hút sự chú ý của đông đảo nghệ sĩ, người phê bình và bạn đọc. Có những bài phê bình, những cuộc thảo luận, tranh luận về sáng tác của ông diễn ta ngay khi nhà văn còn sống, chứng kiến và tham dự tạo nên không khí văn chương học thuật sôi nổi, tâm huyết, năng động trong cuộc đổi mới văn học. Tôn Phương Lan trong chuyên luận Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (1999) đã nghiên cứu toàn diện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, trong đó khám phá biểu tượng chỉ là một khía cạnh nhỏ được người nghiên cứu dành cho 3/204 trang chuyên luận. Trong phần giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan có chỉ ra: “Sâu sắc, lắng đọng bởi những câu mang ý nghĩa triết lý, văn Nguyễn Minh Châu còn sâu sắc và đượm chất chữ tình bởi những hình ảnh biểu tượng đó là cơn giông trong truyện ngắn cùng tên, là giếng nước của buổi ban đầu nay gặp lại sau bao năm xa cách trong bên đường chiến tranh, là tiếng xe cút kít não nề, nhẫn lại, dai dẳng trong Khách ở quê ra… Tấm gương soi trong Bức tranh là vật chứng để người nghệ sỹ nhận diện mình trong những cuộc đối thoại giữa cái mặt thật và bóng của cái mặt mình khi đang cắt tóc. Trăng trong truyện của ông có thể nói như là một “nhân vật” có một thứ tiếng nói riêng. “Vầng trăng khuyết mỏng manh sáng trong như một màn bạc” là vầng trăng của kẻ đang yêu (Mảnh trăng). “Mảnh trăng cuối tháng như một chiếc đĩa bằng vàng bị vỡ” trong lần Thai và Lực đi dỡ sắn ở vùng núi Đợi phải chăng là một dự báo về hạnh phúc, để rồi hơn hai mươi năm sau, họ gặp lại nhau trong hoàn cảnh oái oăm thì “trăng trở nên như một chiếc thuyền vàng đi chòng chành giữa nền trời” (Cỏ lau). “Đỏ quạch và đang bốc cháy giữa một vùng ánh lửa chớp bom” là mặt trăng đêm Lữ hy sinh dũng cảm và đau xót trên Đồi không tên (Dấu chân người lính) …. Đặc biệt chúng tôi nhận thấy hình ảnh ngọn lửa, bếp lửa thường trở đi trở lại trong sáng tác của ông với những ý nghĩa biểu trưng khách nhau’’ [41; 181- 182]. Tác giả còn phát hiện và điểm qua biểu tượng đất trong mối quan hệ với con người trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (Cửa sông, Những người đi từ trong rừng ra, Mảnh đất tình yêu, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát, Sống mãi với cây xanh…). Như thế Tôn 4 Phương Lan chủ yếu điểm qua hệ thống biểu tượng, từ đó chỉ ra bản thân biểu tượng mang chứa những ý nghĩa nghệ thuật, giá trị nhân sinh sâu sắc, đa tầng góp phần thể hiện diện mạo, phong cách nghệ thuật của nhà văn. Bên cạnh những chuyên luận, công trình khoa học trên, còn hành loạt các bài viết về các tác phẩm cụ thể, về thành tựu trên các mặt nội dung nghệ thuật… của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Bài viết nào hầu như cũng ít nhiều nhận định sự phong phú và vai trò quan trọng của biểu tượng trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm, tác giả. Đỗ Đức Hiểu khi đọc Phiên Chợ Giát của Nguyễn Minh Châu (1990) đã nhận ra biểu tượng hóa thân người/ bò- biểu tượng của sự tha hóa [30; 179] và Hoàng Ngọc Hiến trong Đọc Nguyễn Minh Châu (từ Bức tranh tới Phiên chợ Giát) (1997) cũng đồng tình, tiếp nối ý kiến này: “Biểu tượng hóa thân bò/ người có tính chất đa nghĩa. Biểu tượng này “mồi” cho sự liên tưởng đến “kiếp trâu bò”, đến thân phận “nửa người nửa vật” của nông dân. Quan trọng hơn cả là biểu tượng này tạo ra nghĩa bóng cho một hình tượng đặc sắc trong truyện” [28; 193]. Năm 1995, Nguyễn Tri Nguyên khi nhận diện Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 khẳng định: “Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt ở truyện ngắn thường xuất hiện những ẩn dụ, biểu tượng đa nghĩa không tham gia và cốt truyện và hành động của nhân vật nhưng nó giãi bày được nhiều suy nghĩ của tác giả, nâng tác phẩm lên ý nghĩa triết học, tượng trưng” [63; 221]. Tác giả gọi tên một số biểu tượng nổi bật trong truyện ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu như: mảnh trăng, giếng nước mát lạnh, cơn giông, cơn mộng du, chiếc xe cút kít, con bò khoang, cái gương soi mặt và bức tranh, bức ảnh… và những khẳng định biểu tượng này đã tạo lên lời ngầm trong tác phẩm của ông, “mang trong đó những dự cảm về những vấn đề nhân sinh, xã hội diễn ra phức tạp hơn trước trong cuộc sống đời thường sau chiến tranh” [63; 222]. Đặc biệt nhạy cảm, tinh tế trong nhận diện, khám phá biểu tượng cụ thể, Chu Văn Sơn khi thẩm bình, tâm đắc một số tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cũng gọi ra ít nhiều đặc điểm và ý nghĩa của việc sử dụng biểu tượng. Từ năm 1990, viết Đường tới cỏ lau, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã khơi những mạch nguồn văn hóa cổ sơ của 5 biểu tượng vọng phu trong tác phẩm: “…ở ta, hai tiếng vọng phu bao giờ cung dội vào tâm tình người Việt những âm vọng riêng, khuấy động những xôn xao vừa linh thiêng, vừa huyền bí. Trong lòng mỗi con người của xứ sở này dường như đều có, khi thì sừng sững, khi thì thấp thoáng ẩn hiện, một hòn núi vọng phu” [68; 196]. “Trong cuộc chiến tranh khốc liệt và dai dẳng vừa qua, vẻ đẹp mẫu tính điển hình nhất của người phụ nữ Việt Nam, do một nhào nặn nào đó, lại có gương mặt vọng phu” [68; 199]. Đến năm 2010, trăn trở với Thi pháp gói rào trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Chu Văn Sơn khái quát thành thi pháp, thành phong cách nghệ thuật trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu: “Yêu cầu gói rào đã khiến Nguyễn Minh Châu kiên trì như một hư chiêu: mài nhẵn hết những cạnh sắc nhô ra, dìm sâu ẩn ý vào vào lòng mỗi hình ảnh. Bởi thế những tượng trưng thông thường dường như đã thành ẩn tượng”. Do không để lộ ý diễn trong thực tại đời sống chính trị xã hội của thời đại, những biểu tượng, ẩn tượng đã giúp nhà văn truyền tải những khám phá, trăn trở, triết lí, dự cảm, khao khát ẩn ý sâu kín và mới mẻ phía sau lớp vỏ ngôn từ. Có thể thấy, các nhà phê bình đều nhận thấy sử dụng biểu tượng là một nét đặc sắc nổi bật và giàu giá trị trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Song trên đây là những bài nghiên cứu phê bình từng tác phẩm độc lập, chưa khám phá, lí giải cụ thể và bao quát diện mạo và giá trị của biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Năm 2007, Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết với công trình nghiên cứu công phu, khoa học, toàn diện về sự nghiệp và đóng góp của nhà văn qua cuốn sách Nguyễn Minh Châu trong cuộc đổi mới văn học sau năm 1975. Công trình khẳng định đóng góp của Nguyễn Minh Châu cho công cuộc đổi mới văn học sau năm 1975: sự đổi mới từ quan niệm và ý thức nghệ thuật tới thế giới nhân vật, kết cấu và nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu. Biểu tượng chỉ được khai thác rải rác nhằm làm sáng tỏ cho sự đổi mới ấy. Đến năm 2000, Dương Thị Thanh Hiên đóng góp một công trình nghiên cứu tập trung, toàn diện, sâu sắc hơn cả về biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn 6 Minh Châu, đó là luận văn thạc sĩ: Hệ thống hình ảnh biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Luận văn đã nghiên cứu hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu với cái nhìn bao quát và sâu sắc, để thấy được cách xây dựng và ý nghĩa, vai trò của biểu tượng với các phương diện, yếu tố của tác phẩm: nhân vật, chủ đề, kết cấu, chất triết lí, chất trữ tình… Năm 2014, tác giả Nguyễn Thị Châm trong công trình luận văn thạc sĩ Ngữ văn với đề tài Biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 nhìn từ lý thuyết của IU. M. Lotman. Với luận văn này, tác giả đã nghiên cứu biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua việc vận dụng lý thuyết của Lotman, từ đó vừa làm sáng tỏ một lý thuyết lý luận văn học hiện đại, vừa khám phá và khẳng định thêm giá trị và tầm vóc của Nguyễn Minh Châu trong bề rộng chiều dài văn học thời đại và dân tộc. Như thế, nghiên cứu về biểu tượng trong văn học nói chung, biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nói riêng không phải là con đường hoàn toàn mới mẻ. Bởi lẽ, biểu tượng là một trong những đặc trưng của văn học nghệ thuật, một trong những thủ pháp tiêu biểu mang dấu ấn riêng của Nguyễn Minh Châu. Các công trình, kết quả nghiên cứu phê bình trên là tiền đề, cơ sở, gợi ý quý báu cho người viết khi thực hiện đề tài. Chúng tôi hi vọng với đề tài luận văn này sẽ góp thêm một cái nhìn khá độc đáo hấp dẫn về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. 3. Mục đích nghiên cứu Qua việc tìm hiểu đề tài Hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, chúng tôi muốn đưa ra một nhận thức mang tính cá nhân về biểu tượng, biểu tượng trong văn học, đồng thời từ đó đi sâu tìm hiểu về ý nghĩa các biểu tượng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Qua đó thấy được những giá trị về nội dung cũng như tư tưởng nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm thông qua các biểu tượng nghệ thuật của mình. Từ đó, chúng tôi thêm một lần khẳng định vai trò, vị trí và những đổi mới của nhà văn trong sự vận động của tiến trình văn học dân tộc. 4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. 7 5. Phạm vi nghiên cứu 5.1. Phạm vi nội dung Tập trung tìm hiểu hệ thống biểu tượng có ý nghĩa phổ quát, xuất hiện nhiều lần, xuyên suốt trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. 5.2. Phạm vi tư liệu Nguyễn Minh Châu để lại một sự nghiệp vô cùng đồ sộ nên trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ chúng tôi không tham vọng tìm hiểu vấn đề biểu tượng nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của ông mà chỉ tập trung vào những truyện ngắn mà biểu tượng được sử dụng với tần suất cao như các truyện: Nguồn suối, Nhành mai, Mảnh trăng cuối rừng, Bức tranh, Bên đường chiến tranh, Cơn giông, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê, Cỏ lau… trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu của Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội in năm 2009. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp hệ thống - Phương pháp thống kê, phân tích - Phương pháp so sánh - Các thao tác: + Khảo sát, thống kê, phân loại + Phân tích, tổng hợp, so sánh 7. Đóng góp mới của luận văn Với đề tài luận văn này, chúng tôi mong muốn đóng góp một cách nhìn (mang tính cá nhân) về biểu tượng và biểu tượng trong văn học. Và từ đó, chúng tôi góp phần làm sáng tỏ những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trên phương diện tạo dựng hệ thống biểu tượng nghệ thuật sinh động. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận gồm ba chương: Chƣơng 1: Biểu tượng và ý nghĩa mỹ học- nghệ thuật của biểu tượng Chƣơng 2: Hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu Chƣơng 3: Tính đa trị, ý nghĩa thẩm mĩ nghệ thuật và các vấn đề diễn giải biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 8 Chương 1 BIỂU TƢỢNG VÀ Ý NGHĨA MỸ HỌC - NGHỆ THUẬT CỦA BIỂU TƢỢNG 1.1. Khái niệm biểu tƣợng 1.1.1. Biểu tượng và sáng tạo nghệ thuật Biểu tượng là một thuật ngữ đã và đang tiếp tục được nghiên cứu trên toàn thế giới, trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Bắt nguồn từ Hy Lạp, thuật ngữ biểu tượng (Symbolon) có nghĩa là kí hiệu (Sign), dấu hiệu, lời nói, tín hiệu, triệu trứng, hợp đồng … Trong tiếng Hán: Biểu có nghĩa là “bày ra”, “trình bày”, “dấu hiệu”, để người ta dễ nhận biết một điều gì đó. Tượng có nghĩa là “hình tượng”. Biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, kí hiệu tượng trưng, nhằm diễn đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng. Theo từ điển Tiếng Việt (GS. Hoàng Phê chủ biên): “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt” [ 58; 19]. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cho rằng: “Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng trong đó xếp hàng đầu là ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo…” [33; 23]. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng theo nghĩa rộng biểu tượng thể hiện “đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật” và theo nghĩa hẹp, biểu tượng là “một phương thức chuyển mã của lời nói” đặt bên cạnh ẩn dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt “có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời” [70; 23]. Trong đời sống, biểu tượng được dùng với ý nghĩa không nhất quán. Nó có thể được hiểu là một hình ảnh tượng trưng mang tính ổn định (chim bồ câu- biểu tượng cho hòa bình); cũng có thể được hiểu là một lôgô, một kí hiệu đã chuyển thành hình họa được thiết kế mang ý nghĩa cố định (Trâu vàng- là biểu tượng của Seagames 22 9 được tổ chức tại Việt Nam); được dùng chỉ dấu hiệu đặc trưng, một cảnh quan thiên nhiên hoặc một công trình kiến trúc nổi bật của một khu vực, quốc gia (tượng Nữ thần tự do của Mỹ, tháp Eiffel của Pháp, Tháp Rùa, chùa Một cột của Hà Nội- Việt Nam); thậm chí biểu tượng được coi là mật mã của sự bí ẩn… Những nhận thức khác nhau này về biểu tượng khiến cho khái niệm này càng trở nên phức tạp. Vì vậy, trước khi đi vào nghiên cứu biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, chúng tôi tìm hiểu nội hàm của nó trong một số ngành khoa học. Dưới góc độ triết học, biểu tượng được hiểu là “hình ảnh cảm tính cụ thể về những hình tượng của thế giới bên ngoài. Biểu tượng cùng với cảm giác, tri giác tạo nên nhận thức cảm tính”. Như vậy, hiểu theo nghĩa triết học, tất cả các sự vật trong thế giới khách quan khi được con người tiếp nhận đều sẽ trở thành biểu tượng. Dưới góc độ tâm lí, biểu tượng là một phạm trù tâm lí gắn liền với trí tưởng tượng, là hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính trực quan. Biểu tượng vừa là kết quả của hoạt động nhận thức, vừa là phương tiện để biểu đạt của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, là một “mật mã” khó cắt nghĩa. Nhà phân tâm học C. G. Jung cho rằng: “Biểu tượng không phải là một phúng dụ, cũng chẳng phải một dấu hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất, ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh”. Trong văn hóa, biểu tượng là một đối tượng được nghiên cứu cơ bản bởi nó là đầu mối để xác định đặc trưng của nền văn hóa cũng như mối quan hệ của các nền văn hóa khác nhau. Biểu tượng trong văn hóa được xem là một yếu tố động, luôn biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội. TS. Nguyễn Văn Hậu cho rằng: “Biểu tượng là một hình thái ngôn ngữ - ký hiệu tượng trưng của văn hóa. Nó được sáng tạo nhờ vào năng lực “tượng trưng hóa” của con người, theo phương thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa kia nhằm để nhận thức và khám phá ra một giá trị trừu tượng nào đó. Biểu tượng được xem là “tế bào” của văn hóa và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu tiên của nhân loại. Nó quy định mọi hành vi ứng xử và giao tiếp của con người đồng thời liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt”. Ông khẳng định những quan niệm hay định nghĩa nêu trên đều gắn biểu tượng với sự thực hiện “khiếu năng tinh thần” đặc biệt chỉ có ở loài người - năng lực 10 tượng trưng hóa. Biểu tượng được hiểu là một hiện tượng vật thể, nhờ thể hiện trong đó một nội dung cụ thể - cảm tính mà hiện tượng này thể hiện, trình ra những ý nghĩa, những giá trị trừu xuất nào đó. Và do đó, ông đã đưa ra quan điểm riêng của mình về biểu tượng như trên. Quan niệm của ông tuy nhiên chỉ dừng lại ở góc độ gắn với văn hóa, đây là một quan điểm đúng đắn nhưng chưa đầy đủ nếu như ta tiến hành nghiên cứu và áp dụng vào việc nghiên cứu văn học. Ở phương diện ngôn ngữ, “Biểu tượng là một ký hiệu tùy thuộc vào đối tượng mà nó biểu hiện do một luật lệ thông thường là một sự liên tưởng chung”. Biểu tượng vì vậy là một sự vật có hình ảnh mang tính chất thông điệp được dùng để gợi ra một cái ở bên ngoài theo một quan hệ ước lệ. Biểu tượng là sự thống nhất giữa cái biểu đạt (hình thức tồn tại) và cái được biểu đạt (giá trị nội dung). Cái biểu đạt khi tác động lên tư tưởng, cảm xúc, nhận thức của con người sẽ gợi lên một số nội dung ý nghĩa nào đó (gợi cái được biểu đạt). Trong văn học, biểu tượng là phương tiện tạo hình và biểu đạt có tính đa nghĩa. Mỗi nhà văn khi sáng tạo đồng thời lại là một nhà tư tưởng. Nhà văn thực hiện việc mã hóa ngôn từ nhằm tạo ra một thế giới hình tượng in đậm cảm quan cá nhân, nói rộng hơn là phong cách của chủ thể sáng tạo. Những hình tượng nghệ thuật có sức sống sẽ vượt lên trên ý nghĩa biểu đạt và làm thành các biểu tượng nghệ thuật độc đáo, đa nghĩa. Trong tác phẩm, biểu tượng chính là hình tượng được hiểu ở bình diện kí hiệu và là kí hiệu chứa đựng tính đa nghĩa của hình tượng. Trở thành biểu tượng, hình ảnh sẽ có chiều sâu, tầng ý nghĩa mới và có tính khái quát. Việc nghiên cứu, sáng tạo ra những biểu tượng nghệ thuật sẽ mang tới cái nhìn sâu sắc, khắc phục sự đơn giản về hình ảnh được sao chép từ cuộc đời thật. Biểu tượng trong văn học mang tính đa nghĩa nên cần phải phát huy nhận thức cùng với sự liên tưởng. Từ quá trình nghiên cứu tìm hiểu,kế thừa quan điểm và kết quả nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi sơ bộ đưa ra quan niệm về biểu tượng như sau: Biểu tượng là một sự vật có hình ảnh mang tính chất thông điệp được dùng để gợi ra một cái ở bên ngoài, theo một quan hệ ước lệ. Quan hệ liên tưởng, tưởng tượng và tính ước lệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong biểu tượng là cơ sở để tạo 11 nên tính đa nghĩa cho biểu tượng. Biểu tượng mang tính khái quát về đối tượng, là hình ảnh tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận một giá trị bên trong hay thế giới ý nghĩa của nó. Chính vì thế, biểu tượng phản ánh được đặc trưng của các sự vật, hiện tượng. Giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học không thể dựa trên một nhận thức nhất định. Cần mở rộng nó theo chiều rộng đồng đại và khám phá nó ở chiều dài lịch sử, gắn kết với cái nhìn văn hóa, không thể bỏ qua đặc trưng phong cách tác giả, đồng thời cần lưu ý ngữ cảnh nảy sinh, bao chứa nó. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, nghệ sĩ là những người khao khát khám phá và thể hiện những ấn tượng độc đáo, tư duy sâu sắc, cảm xúc mãnh liệt, tưởng tượng phong phú về cuộc sống và con người. Con đường để người nghệ sĩ thực hiện tư duy nghệ thuật của chính mình là thông qua hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Trước một hiện tượng đời sống, một khám phá về bản chất và quy luật của cuộc đời, không chỉ những cung bậc cảm xúc rung động trong trái tim mà tâm hồn, trí tuệ của người nghệ sĩ sẽ nảy sinh những tưởng tượng, liên tưởng để tư tưởng, cảm xúc được cụ thể hóa, hữu hình hóa. Nhờ đó, hiện thực đời sống hiện ra trong diện mạo của một hình tượng, một thế giới sống động, nhiều tầng nghĩa… Và những hình tượng nghệ thuật ra đời có sức sống mạnh mẽ vượt lên trên ý nghĩa biểu đạt, trở thành các biểu tượng nghệ thuật đa nghĩa. Có thể nói, biểu tượng giúp nhà sáng tạo nghệ thuật cô đọng cảm xúc, tư tưởng, tìm cho tư duy nghệ thuật của mình một hình tượng sống động, hữu hình, mở ra con đường hữu hiệu nhất để chuyển tải, gửi gắm những khám phá, lí giải sâu sắc về cuộc sống con người. Biểu tượng bước vào những văn bản cụ thể từ ngôn ngữ cho nên biểu tượng mang tính đa nghĩa rõ rệt. Biểu tượng phản ánh được những vấn đề thuộc bản chất của thế giới, quy luật của cuộc đời mở ra những chiều sâu hơn bản thân hiện tượng và hiện thực được phản ánh. Chính vì vậy mà không thể giải mã biểu tượng bằng nỗ lực của lí trí đơn thuần, nó đòi hỏi sự xâm nhập, liên tưởng. Với nhu cầu khái quát, nhận thức, biểu hiện cuộc sống, văn học nghệ thuật tự 12 bản thân nó đã mang tính biểu tượng và đòi hỏi người cầm bút lẫn người thưởng thức phải tư duy bằng biểu tượng. Vì thế, tự bản chất của nghệ thuật ngôn từ đã có quan hệ gần gũi, gắn bó với biểu tượng. Biểu tượng nghệ thuật mang những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ như tính gợi cảm, hàm súc…, mặt khác biểu tượng lại chứa đựng những khả năng hòa nhập với hồi ức, hình ảnh cấu thành trong tiềm thức mỗi người. Cho nên mỗi biểu tượng nghệ thuật đều có khả năng tái sinh liên hồi từ cái biểu đạt đến cái được biểu đạt. Hơn thế, khả năng tái sinh liên hồi ấy phụ thuộc rất nhiều và cá tính, vào năng lực chủ thể sáng tạo. Chính họ mang tới những nội dung phong phú, mới mẻ cho văn học và những biểu tượng ấy góp phần làm giàu tinh thần của chúng ta. Việc xây dựng các biểu tượng trở thành một hình thức tư duy tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao. Dưới sự tổ chức của nhà văn, biểu tượng tham gia vào kết cấu tác phẩm, tạo nên những điểm sáng và được coi là những tín hiệu thẩm mĩ đa chức năng. Về bản chất, mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống tín hiệu thầm mĩ, trong đó hình ảnh biểu tượng là tín hiệu nhỏ trong thế giới lớn ấy. Chúng góp phần tạo nên sự thống nhất hình tượng trong tác phẩm, tạo nên sự đa dạng, phong phú của hiện thực tác phẩm. 1.1.2. Biểu tượng trong văn học Biểu tượng không chỉ tồn tại trong tâm linh nỗi con người, trong nền văn hóa mỗi dân tộc mà còn là hạt giống chắc mẩy được các nhà văn, nhà thơ gieo trên địa hạt văn chương màu mỡ. Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học đã có những kiến giải xác đáng về biểu tượng dưới góc độ văn học. Biểu tượng có thể được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng: “Biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật” [70; 24]. Theo nghĩa hẹp: “Biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện được một quan niệm, một tư tưởng hay triết lý sâu xa về con người và cuộc đời” [70; 24]. 13 Các tác giả cũng dành hơn một trang viết cho thấy những điểm khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ. Những khái niệm này đều “được hình thành trên cơ sở đối chiếu, so sánh các hiện tượng, đối tượng có những phương diện, khía cạnh, những đặc điểm gần gũi trong mối quan hệ tượng đồng nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra một ý niệm cụ thể, sáng tỏ về hiện tượng hay đối tượng đó” [70; 24]. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì ẩn dụ và hoán dụ khác biểu tượng về ba điểm: Thứ nhất, ẩn dụ và hoán dụ đều mang ít nhiều ý nghĩa biểu tượng nhưng biểu tượng không phải bao giờ cũng là hoán dụ, ẩn dụ... [70; 25]. Thứ hai, biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật tượng trưng hoặc hình tượng nghệ thuật. Trong khi đó, ẩn dụ và hoán dụ nhiều khi làm mờ đi ý nghĩa biểu vật, trực quan của lời nói... [70; 25]. Thứ ba, do một ẩn dụ có thể làm nhiều đối tượng khác nhau và một đối tượng cũng có thể diễn đạt bằng nhiều ẩn dụ, hoán dụ khác nhau nên người đọc phải tìm hiểu ý nghĩa của chúng trong ngữ cảnh cụ thể của từng văn bản. Khác với ẩn dụ, ý nghĩa biểu tượng tồn tại ở ngoài văn bản mà chúng ta đang tiếp xúc. [70; 25]. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đề cập đến một phương diện khác nhau của biểu tượng như “ý nghĩa biểu tượng không ngừng được bổ sung” [70; 26] trong lịch sử tồn tại lâu dài, “bên cạnh những biểu tượng thể hiện ý thức chung của xã hội, trong văn học nghệ thuật có rất nhiều biểu tượng in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn, nhà thơ” [18; 26]. PGS.TS. Lê Lưu Oanh trong Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990 khi bàn về những đặc trưng của biểu tượng đã cho rằng: “Biểu tượng có khả năng tái sinh liên hồi từ cái biểu đạt đến cái được biểu đạt. Biểu tượng nghệ thuật là tín hiệu thẩm mĩ mới mẻ, đa chức năng. Biểu tượng vừa mang tính kế thừa vừa mang tính sáng tạo. Giải mã biểu tượng là con đường tư duy nghệ thuật...”. Tổng hợp những quan điểm trên chúng tôi cho rằng: Biểu tượng thường là những hình ảnh cụ thể cảm tính, giàu cảm xúc, chứa đựng những tầng ý nghĩa sâu sắc. Biểu tượng không phải là hiện tượng khép kín mà là một cấu trúc mở có khả 14 năng gợi liên tưởng lớn và khả năng tái sinh đến vô tận. Từ lâu, biểu tượng đã được xem như một phương thức tư duy nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ, mang đến những hình tượng cụ thể, cảm tính, đa nghĩa, được lặp đi, lặp lại và giàu giá trị nghệ thuật. Biểu tượng được các nhà văn, nhà thơ sáng tạo và tham gia vào việc biểu hiện cấu trúc, ý nghĩa tác phẩm. Bởi thế, nó có một vai trò quan trọng trong việc lập mã và giải mã ý nghĩa tác phẩm. Với công việc tiếp nhận văn học, việc nghiên cứu và giải mã biểu tượng chính là chìa khóa để đi sâu vào hành trình khám phá thế giới nghệ thuật. Không những thế, việc tìm hiểu về biểu tượng còn giúp ta giải thích thấu triệt những hiện tượng văn học phức tạp từ ngọn nguồn văn hóa, đồng thời thấy được tài năng, bản lĩnh, phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn cũng như mỗi trào lưu, giai đoạn văn học nhất định. 1.1.2.1. Sơ lược vài đặc điểm, tính chất của biểu tượng Các nhà nghiên cứu đều thống nhất khi cho rằng: biểu tượng dù đa dạng đến đâu vẫn mang tính ổn định, tương đối. Mỗi con người đều có thể tìm thấy trong biểu tượng những ý nghĩa khác nhau, những trải nghiệm tinh thần mang tính cá nhân nhưng vẫn không tách rời bản chất xã hội, cái trung tâm tinh thần chi phối toàn bộ sự vận động của chúng. Đó là một mối quan hệ thuộc bản chất, chứ không phải là sự tưởng tượng hỗn loạn, vô hướng. Các biểu tượng đã tỏ rõ một tính ổn định nào đó trong lịch sử các tôn giáo, các xã hội và lịch sử tâm thức mỗi cá nhân. Cũng chính vì tính ổn định nên có những biểu tượng được khắp nơi trên thế giới dùng và có cùng nét nghĩa chung thống nhất. Chẳng hạn, khi nhắc đến loài chim bồ câu người ta thường nghĩ đến biểu tượng của hòa bình vì đây là loài chim có đặc tính hiền lành, không hay đánh chọi nhau… Bắt nguồn từ ý nghĩa đó, biểu tượng nghệ thuật thường có những hạt nhân bảo lưu và được các thi sĩ đời sau tiếp nối nhau bên cạnh việc bồi đắp thêm ý nghĩa mới. Ví như khi nhắc đến cây cầu trong văn học dân gian Việt Nam thì người ta nghĩ đến khát khao nối kết, khát khao gặp mặt và mong ước cả hai bên đều vượt qua những cản trở, khó khăn trong tình yêu. Tính ổn định của biểu tượng nghệ thuật thường bắt nguồn từ việc bảo lưu nét nghĩa của biểu 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan