Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Luận văn giáo dục đạo đức cách mạng hồ chí minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp h...

Tài liệu Luận văn giáo dục đạo đức cách mạng hồ chí minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh an giang hiện nay

.PDF
112
495
122

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- NGUYỄN HỒNG CHÂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CỐT CÁN CẤP HUYỆN TẠI TỈNH AN GIANG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Triết học HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- NGUYỄN HỒNG CHÂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CỐT CÁN CẤP HUYỆN TẠI TỈNH AN GIANG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60.22.03.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ VĂN ĐOÁN HÀ NỘI - 2017 Mục lục STT Nội dung Trang Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài 01 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 03 3. Mục đích nghiên cứu 07 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 08 5. Giả thuyết khoa học 08 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 08 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 09 8. Phương pháp nghiên cứu 09 9. Các quan điểm cơ bản và đóng góp của luận văn 10 10. Cấu trúc luận văn 11 Chương 1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và yêu cầu cấp bách giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ cốt cán cấp huyện tại tỉnh An Giang hiện nay 12 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng 12 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 12 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức 21 1.1.1.2. Khái niệm đạo đức cách mạng 28 1.1.1.3. Người cán bộ cách mạng 1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng 33 1.1.2.1. Truyền thống đạo đức dân tộc Việt Nam 33 1.1.2.2. Tinh hoa đạo đức nhân loại 39 1.1.2.3. Đạo đức cộng sản được thể hiện trong học thuyết Mác-Lênin và phong trào cộng sản quốc tế 33 1.1.2.4. Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh 1.1.3. Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng 34 35 1.1.3.1. Trung với nước, hiếu với dân 35 1.1.3.2. Yêu thương con người, sống có tình nghĩa. 38 1.1.3.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư 41 1.1.3.4. Có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. 45 1.2. Yêu cầu cấp bách về giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay 47 1.2.1. Những nhân tố tác động đến đạo đức cách mạng 47 1.2.2. Những yêu cầu cấp bách về giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay 52 Tiểu kết Chương 1 54 Chương 2 Giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp 56 2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 56 2.1.1. Những thành quả đạt được 56 2.1.1.1. Quá trình triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện các quy định của Trung ương và địa phương 60 2.1.1.2. Những chuyển biến trong nhận thức về tư tưởng 63 2.1.1.3. Những chuyển biến từ trong hành động 65 2.1.1.4. Đánh giá chung kết quả thực hiện 68 2.1.1.5. Nguyên nhân kết quả đạt được 69 2.1.2. Những khó khăn, hạn chế 72 2.1.2.1 Những hạn chế, khuyết điểm trong chỉ đạo và triển khai cuộc vận động 72 2.1.2.2. Những hạn chế trong nhận thức và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 74 2.1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm 74 2.2. Nhóm giải pháp trọng tâm, cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện tại tỉnh An Giang hiện nay 78 Khuyến nghị 87 Tiểu kết Chương 2 89 Kết luận 91 Danh mục tài liệu tham khảo LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu trường, quý thầy, cô giảng viên Khoa Triết học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thầy PGS.TS Lê Văn Đoán, người đã dành nhiều thời gian, tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn về phương pháp khoa học và cách thức thực hiện các nội dung của đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo các phòng, ban ngành, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh An Giang đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp các thông tin, số liệu cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này. Xin trân trọng An Giang, tháng 6 năm 2017 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Hồng Châu MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới. Người soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, tư tưởng của Người là di sản tinh thần vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc ta. Người đã tiếp thu tinh hoa giá trị đạo đức nhân loại của phương Đông, phương Tây và Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã thấm nhuần tư tưởng đạo đức Mác-xít; Đó là thứ đạo đức đích thực, cốt lõi và người đã vận dụng vào điều kiện cách mạng Việt Nam để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xã hội, mang lại tự do, ấm no, bình đẳng, hạnh phúc thật sự cho con người, vì sự tiến bộ, phát triển xã hội, đưa nhân loại từ chỗ bị tha hóa đến sự tự do, chủ nghĩa nhân đạo đích thực. Xin được trích dẫn lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 14/01/1991, tại Hội nghị Quốc tế Hồ Chí Minh Việt Nam - Hòa bình thế giới, tổ chức tại thành phố Can-cút-ta (Ấn Độ) nhân kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới: “Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi” khẳng định giá trị lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với toàn nhân loại. Một trong những bài học quan trọng nhất mà Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra từ quá trình đổi mới là “kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [29, tr.70]. Thực hiện theo Di chúc của Người, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình, theo Hội nghị Trung ưởng sáu (lần 2), yêu cầu của công vận động này là: “Bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống cho Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng - dân một ý chí, thực hiện lời dạy của Bác: “Đảng là đạo đức, là văn minh” [109, tr.13]. Các bản Văn kiện, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại các Đại hội Đảng luôn luôn kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc, do đó “Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá 2 nhân. Chống tư tưởng cơ hội thực dụng”. Đó là con đường duy nhất đúng đắn đưa Việt Nam đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [32, tr.139, 163]. Trong điều kiện hiện nay Đảng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Học tập, quán triệt những quan điểm cơ bản và vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống xã hội toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta là nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thành công của sự nghiệp cách mạng trong hơn 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức, yếu kém cần phải vượt qua. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định một trong bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, đó là “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”. Tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, với những diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, gây bức xúc và âu lo trong toàn Đảng, toàn dân, những suy thoái này còn kéo theo những suy thoái về đạo đức trong gia đình, nhà trường và trong xã hội. Những sự suy thoái đó đang là “nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”. Vấn đề đặt ra là, vì sao Đảng ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn đảng, đồng thời phát động cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định thực hiện nhiều biện pháp giáo dục, chương trình hành động nhưng tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Phải chăng quyết tâm chưa đủ cao, chúng ta đã làm qua loa; nhận diện chưa đầy đủ những nguy cơ; xác định chưa chính xác nguyên nhân suy thoái, hay giải pháp cách thức tổ chức thực hiện chưa đúng tầm, kế hoạch thực hiện chưa sâu sát với thực tiễn. 3 Trong bối cảnh đó, trên nền tảng kiến thức đã được học tập, nghiên cứu và những kinh nghiệm thực tiễn nơi mình công tác cùng với sự tâm đắc về ý nghĩa thiết thực của đề tài, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay”, làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Triết học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Vấn đề đạo đức, đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta đã có rất nhiều tác phẩm, tài liệu và công trình nghiên cứu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo của Đảng đặc biệt quan tâm trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhiều bài viết, bài nói của Người để lại được tập hợp và đó là những công trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng như: 2.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Những tác phẩm mà Người viết: Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Nhà xuất bản Sự thật, xuất bản năm 1948; tác phẩm Cần kiệm liêm chính, xuất bản năm 1949; Bài viết Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu năm 1952; Bài viết về "Đạo đức cách mạng", đăng trên báo Nhân dân, số 460, ngày 06/6/1955 và tạp chí Học tập, số 12, năm 1958, bài viết "Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân", đăng trên báo Nhân dân, số 5409, năm 1969. Các tác phẩm, bài viết của Người đã trực tiếp đề cập đến thuật ngữ, nội dung đạo đức cách mạng đối với người cán bộ, đảng viên cũng như tầm quan trọng của đạo đức cách mạng trong việc hoàn thiện nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong các tác phẩm, bài viết trên, Người nhấn mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên muốn giữ gìn được phẩm chất, đạo đức cách mạng của mình thì phải không ngừng học tập, rèn luyện, giáo dục một cách thường xuyên và kiên nhẫn, xem nó như việc rửa mặt hàng ngày vậy. - Tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu con người”, của GS.VS.TSKH. Phạm Minh Hạc, PGS.TS. Phạm Thành Nghị, TSKH. Trịnh Thị Kim Ngọc (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 4 năm 2003, tác phẩm được phát hành nhân dịp kỷ niệm 112 năm ngày sinh của Chủ tịch Hổ Chí Minh. Nội dung tác phẩm hướng cho bạn đọc nghiên cứu sâu hơn về tư tưởng vĩ đại đầy tính nhân văn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hổ Chi Minh" do Ban Chấp hành Trung ương Đảng phát động, nội dung cuốn sách vẫn được giữ nguyên như lần in đầu, nhưng dược chia làm hai tập, Tập 1 với tiêu đề “Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và văn hóa", và tập 2 "Hồ Chí Minh từ đạo đức truyền thống đến đạo đức cách mạng". - Tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” của GS.TS. Đinh Xuân Dũng, Nhà xuất bản Giáo dục năm 2008. Tác phẩm này là tập hợp những bài nghiên cứu, những trích dẫn tiêu biểu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và một số mẩu chuyện chân thật, sinh động, ngắn gọn về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để phục vụ việc học tập của cán bộ, đảng viên, quảng đại quần chúng nói chung và đối với cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên trong các nhà trường nói riêng. - Tác phẩm “Học tập đạo đức Bác Hồ”, Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. Nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và Những vấn đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của nhân dân ta ngày nay, góp phần thúc đẩy sự chuyển biến mạnh mẽ trong ý thức tu dưỡng, rèn luyện và hành động theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, chính trị, lối sống; xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. - Bài viết của Tiến sĩ Triết học Lê Trọng Ân, Trường Đại học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, viết bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, đăng trên Tạp chí Triết học, số 1 (164), Hà Nội, năm 2005 (trang 16-20). Bài viết tập trung làm rõ những nội dung cơ bản, ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng của Người về đạo đức; đồng thời khẳng định sự cần thiết phải học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên. 2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đã được một số tác giả nghiên cứu và trên cơ sở học tập đạo đức, phong cách làm việc của Người, đề xuất các giải pháp xây dựng đạo đức mới: 5 - Tác phẩm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2006. - Tác phẩm: “Tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là đạo đức, là văn minh”, của nhiều tác giả, Nhà xuất bản Lao động - xã hội, năm 2012. Nội dung tác phẩm là sự tập hợp theo chủ đề nội dung các bài nghiên cứu tiêu biểu, đã được xã hội hóa liên quan đến tất cả các mặt công tác xây dựng Đảng theo các quan điểm của Hồ Chí Minh; lựa chọn giới thiệu một số tấm gương điển hình trong quá trình làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm giữ gìn biểu tượng cao đẹp trong sáng và lan tỏa các giá trị văn hóa, đạo đức của Đảng trong điều kiện hiện nay. - Tác phẩm: “Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viện hiện nay và đời sau theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, của nhiều tác giả, Nhà xuất bản Thời Đại, năm 2012. Tác phẩm giúp cho cấp ủy các cấp và cán bộ làm công tác Đảng, các Đảng viên tìm hiểu về tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng hiện nay về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng; tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng cho Đảng viên hiện nay và đời sau,… Bên cạnh các công trình trên, vấn đề đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng được nghiên cứu ở một số luận văn, luận án và bài viết được đăng trên tạp chí…. Trong đó có thể kể đến: - Bài viết của đồng chí Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Khả Phiêu: “Học tập, rèn luyện tư tưởng và đạo đức cách mạng, thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, và là bài Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 109 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện Di chúc của Người, được tổng hợp trong tác phẩm “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện Di chúc của Người”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2001. Trong dịp lễ kỷ niệm 109 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 30 năm thực hiện Di chúc của Người và đồng thời trong bối cảnh cả nước quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu (lần 2) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, đây là cuộc vận động chính trị lớn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phát động sâu rộng trong toàn Đảng xây dựng, 6 chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình. Cuộc vận động này nhằm tạo thêm nguồn lực mới cho Đảng và tăng thêm niềm tin của nhân dân với Đảng. - Bài viết Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Một số nội dung trong tư tưởng nhân văn, đạo đức, văn hóa Hồ Chí Minh”, được đăng trên Tạp chí Cộng sản số 6, năm 1997. Trong những công trình của mình, các tác giả đã nêu lên yêu cầu khách quan đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để trở thành những cán bộ, đảng viên chân chính, cách mạng. 2.3. Một số tác giả có các bài viết về mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức đồng thời khẳng định các giá trị đạo đức luôn chịu tác động hai mặt từ môi trường kinh tế. Các tác giả cũng chỉ ra sự phức tạp của các vấn đề đạo đức xã hội: Đạo đức mới vừa phải đấu tranh với các hệ thống đạo đức khác, vừa phải đấu tranh tự đổi mới trong điều kiện mới: - Bài viết "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002. - Bài viết "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5, năm 2002. - Nguyễn Thế Thắng: “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, cán bộ công đoàn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2004. - Tác phẩm “Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” của PGS.TS. Vũ Văn Phúc, PGS.TS. Ngô Văn Thạo (Đồng chủ biên), Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật, 2011, Hà Nội. Tác phẩm làm rõ cơ sở lý luận của việc phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, nêu kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết vấn đề này của một số nước khác; 7 làm rõ nguyên nhân, thực trạng công tác phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; Các giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ, khả thi và điều kiện cần thiết trong cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, lâu dài này. Những công trình của các tác giả đi trước là tài liệu có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài về đạo đức cách mạng và việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã nghiên cứu và giải quyết ở từng mức độ khác nhau những vấn đề liên quan đến đề tài luận văn, có giá trị tham khảo tốt, góp phần làm rõ lý luận về đạo đức, vai trò của việc giáo dục đạo đức, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, sự biến đổi thanh giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một số thực trạng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay. Nhưng thực tế cho thấy tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong những năm qua không giảm. Vấn đề đặt ra là nguyên nhân sâu xa nào khiến cho những giải pháp của chúng ta đề ra chưa được thực hiện hiệu quả. Vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu tập trung, toàn diện đề cập trực tiếp, cụ thể từ thực tiễn cấp cơ sở, từ đó có thể hệ thống hóa sâu sắc những quan điểm của Đảng về Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giai đoạn đổi mới; quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện các biện pháp tổ chức, những thành tựu, những khó khăn, mặt còn hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan và bài học kinh nghiệm trong công tác này. Vì vậy, thực hiện đề tài này, tác giả hy vọng góp phần phản ánh về thực trạng và giải pháp để nâng cao việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ cốt cán trong cả nước ta nói chung và cấp huyện ở tỉnh An Giang nói riêng hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, góp 8 phần làm rõ thêm tư tưởng đạo đức cách mạng của Người. trên cơ sở đó, khẳng định việc kế thừa, vận dụng và phát triển của Đảng ta trước những yêu cầu của lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối với công tác giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ nói chung và cho cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay nói riêng. Từ đó đánh giá đúng thực trạng, rút ra những bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó xác định các giải pháp đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nói chung, của Đảng bộ tỉnh An Giang nói riêng. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu: Lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh. 4.2. Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng về đạo đức cách mạng, giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay. 5. Giả thuyết khoa học Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được hình thành gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của người. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người cán bộ cốt cán phải có phẩm chất đạo đức cách mạng làm nền tảng, thì là nhân tố trung tâm, giữ vai trò then chốt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đi lên xã hội chủ nghĩa của đất nước. Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay nói riêng, của cả nước nói chung, là nhiệm vụ mang tính cấp bách, mang tính sống còn của sự nghiệp cách mạng Giả định kết quả nghiên cứu đề tài giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay nếu được thực thi sẽ góp phần định hướng đúng đắn việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện tại tỉnh An Giang thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của tỉnh nhà nói riêng và của cả nước nói chung. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 9 Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Chương 1 tập trung nghiên cứu hệ thống những vấn đề lý luận từ góc độ triết học đạo đức học, về đạo đức cách mạng theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những khái niệm cơ bản, nguồn gốc hình thành, nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, những vấn đề mang tính cấp bách về giáo dục đạo đức cách mạng và quan điểm của Đảng đối với công tác giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ nói chung và cho cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay nói riêng. - Chương 2 tập trung mô tả, phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề, những nguyên nhân khách quan, chủ quan tác động đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện tại tỉnh An Giang hiện nay. - Đề xuất, khuyến nghị các biện pháp, giải pháp góp phần cung cấp cơ sở thực tiễn, nhằm mang tính tham khảo, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, giải pháp nâng cao chất lương, hiệu quả việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện tại tỉnh An Giang hiện nay. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Về cơ sở lý luận: Những vấn đề lý luận liên quan tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, những khái niệm cơ bản, nguồn gốc hình thành, nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và quan điểm của Đảng đối với những vấn đề mang tính cấp bách về công tác giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ nói chung và cho cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay nói riêng. - Về cơ sở thực tế của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán nói chung và cho cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay nói riêng. Tác giả sẽ chọn ra một số huyện khó khăn, khu vực miền núi, biên giới, dân tộc để khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá. 8. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng 10 cộng sản Việt Nam, đồng thời có tham khảo những công trình nghiên cứu của các tác giả có nội dung liên quan đến đề tài những tư liệu trong và ngoài nước sẽ được sưu tập và nghiên cứu tổng hợp để hệ thống hóa những nội dung nghiên cứu có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu và trình bài nội dung của luận văn có kết hợp chặt chẽ phương pháp logic với phương pháp lịch sử, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng và tính khoa học. 9. Các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn 9.1. Các luận điểm cơ bản - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, có giá trị thực tiễn to lớn đối với cuộc cách mạng nước ta hiện nay. Những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ cách mạng, trải qua từng giai đoạn thực tiễn của cuộc cách mạng, đã tôi luyện cho ra đời một đội ngũ cán bộ cách mạng đủ sức gách vác trọng trách của đất nước, đi đến từ thành công này đến thành công khác, từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người cán bộ cách mạng phải thấm nhuần chuẩn mực đạo đức cách mạng, bởi đó là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, với vận mệnh của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt và có ý nghĩa quyết định trong công tác xây dựng, hoàn thiện và phát triển mọi mặt của hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. - Giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay sẽ tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ về ý nghĩa, giá trị tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh, từ đó nhận thức sâu sắc và thái độ tích cực trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 9.2. Đóng góp mới của luận văn - Về mặt lý luận: Luận văn trên cơ sở hệ thống hóa chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về đạo đức cách mạng, sắp xếp thành hệ thống. Làm rõ thêm lý luận, tính kế thừa, tính cấp bách phải vận dụng và phát triển của Đảng ta trước những yêu cầu của lý luận và thực tiễn. - Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục 11 đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay, đề xuất khuyến nghị những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác cán bộ ở địa phương, trong công tác tập huấn chuyên ngành, hoặc làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các khóa học sau. Đồng thời, luận văn còn góp phần cung cấp những cơ sở khoa học giúp chính quyền địa phương tham khảo trong việc hoạch định những chủ trương chính sách phù hợp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh An Giang hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn cũng góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai trò của việc giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện ở tỉnh An Giang hiện nay. 10. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn gồm 2 chương 4 tiết. 12 Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ YÊU CẦU CẤP BÁCH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CỐT CÁN CẤP HUYỆN HIỆN NAY 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức Trong các học thuyết triết học từ thời cổ đại đến nay, vấn đề đạo đức luôn đặt vào trung tâm trong các lĩnh vực nghiên cứu học thuyết. Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức đã được xuất hiện cách đây hơn 2.600 năm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hi Lạp cổ đại. Theo tự điển Hán - Nôm đạo đức là "Chỉ chung những điều dựa theo lẽ phải và nết tốt của con người, mà ai cũng phải theo để sống có ý nghĩa". Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố trong tính cách và giá trị của một con người. Theo khái niệm trong tự điển Hán - Việt: “Đạo là đường đi, nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào trong lòng người là đức, đạo đức là cái lý pháp người ta nên noi theo” [1, tr.215]. Như vậy, Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những công trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Theo tự điển tiếng Việt, Đạo: là phép tắc đối xử trong xã hội, ai cũng phải biết và phải tuân thủ, giữ gìn (đạo làm người); Đức: cái thể hiện tốt đẹp về tính cách, tư tưởng, hành động của con người. Đạo đức là phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể [146, tr.248-249, 283]. Đạo đức có thể được nhìn thấy theo các góc độ sau: Nghĩa hẹp: Đạo đức thể hiện nét đẹp trong phong cách sống của một người hiểu biết và rèn luyện ý chí theo các bậc tiền nhân về các quy tắc ứng xử, các đường lối tư duy thanh tao tốt đẹp. Nghĩa rộng hơn: Nghĩa rộng hơn, đạo đức trong một cộng đồng thể hiện qua những quy tắc ứng xử được áp dụng từ việc hợp với đạo lí xưa nay và phong tục của địa phương, cộng đồng đó. Tạo thành nét đẹp truyền thống văn hóa. Nghĩa rộng: Đạo đức của cả một xã hội thường được xét đến khi 13 xã hội đó bị hỗn loạn và thiếu chuẩn mực. Khi đó những bậc trí giả sẽ định ra những chuẩn mực cơ bản nhất để tạo dựng nên nền tảng đạo đức. Khi đã đạt đạo đức cơ bản nhất thì đó là đạo đức xã hội. Từ đó học tập đi lên thành các thành phần cao cấp hơn. Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại từ phương Tây đến phương Đông. Đạo đức theo triết học phương Tây Tư tưởng đạo đức phương Tây “bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lí” thường xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói; tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học" [121, tr.5]. Tư tưởng đạo đức phương Tây thể hiện trong tư tưởng của các Triết gia, phạm trù đạo đức được xem là hơn thở của cuộc sống, nổi danh là các Triết gia Platin, Aristote và Socrate. Platôn xây dựng đạo đức học “trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận tôn giáo, là bộ phận quan trong nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc” [77, tr.52]. Còn Arixtốt là học trò xuất sắc của Platon, Ph.Angghen xem Arixtot là người có bộ não bách khoa trong số những Triết gia Hy Lạp cổ đại, ông là cha đẻ của lôgíc học, ông xây dựng các phạm trù, phương pháp luận đề, phản bác các nhà biện thuyết, một phần trong siêu hình học, và cuối cùng là đạo đức học. Arixtốt không xem chính trị như một khoa học riêng rẽ, tách rời khỏi đạo đức, mà chỉ là một thành tố trong tổng thể các hoạt đông xã hội, mà mục tiêu là hạnh phúc của con người. Nhà nước là sự phát triển từ gia đình thông qua cộng đồng. Nói khác đi, nhà nước là một tổ chức thuộc về đạo đức thực sự tiến bộ, phát triển con người. 14 Theo Socrate, xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, quan điểm triết học của ông bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã hội mà trước hết là hành vi đạo đức, ông cho rằng: “Hiểu biết là cơ sở của điều thiệt, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến là cơ sở của đạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai muốn tuân theo cái thiện phổ biến thì phải nắm bắt được nó…”. [47, tr.97-98]. Đạo đức học Socrate hiểu như “phương tiện dạy con người sống”, đã góp phần làm cho triết học vượt qua sự bế tắc, đi sâu vào những vấn đề nhân sinh, xã hội. Con người giờ đây không chỉ là chủ thể, mà còn trở thành đối tượng, thành điểm xuất phát và mục đích của các tư tưởng triết học. Đạo đức trong tôn giáo ở phương Tây chủ yếu Cơ đốc giáo và Thiên chúa giáo, trường phái này xem đạo đức là nguyên tắc bình đẳng trước Chúa, bác ái là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt ai dù người đó là kẻ bóc lột, người bị bóc lột, kẻ thù, bạn, lòng yêu thương trong sự nhẫn nhịn, khuất phục,… hướng tư tưởng đạo đức theo hướng thần học thiếu tính hiện thực. Từ đây đã làm xuất hiện những trường phái đạo đức trần thế chống lại đạo đức thần học tiêu biểu là Heghel, Feuerbach… Đạo đức theo triết học phương Đông Ở phương Đông, các học thuyết của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo đều lấy đạo đức làm trung tâm trong các mối quan hệ, đối nhân xử thế, các nguyên tắc ứng xử, các chuẩn mực trong cuộc sống. Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trong Quốc thời cổ đại, “Các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, trong đó quan niệm về đạo và đức của họ được biểu hiện khá rõ nét. Đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng của triết học Trung Quốc cổ đại.….lần đầu tiên xuất hiện trong "Kim văn" đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều để chỉ những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo” [121, tr.5-6]. Trong Nho giáo tư tưởng đạo đức thể hiện thông qua các quan điểm về “tu thân”, hay các nguyên tắc “tam cương”, “ngũ thường”, “tam tòng”, “tứ đức”. Hay những chuẩn mực “trung, hiếu, nghĩa”, “nhân, lễ, nghĩa, tri, tín”, “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” và “công, dung, ngôn, hạnh”. Đây là những quy tắc ứng xử trong mối quan hệ xã hội giữa “vua - tôi”, “cha - con”, “chồng - vợ”, “anh - em”, “bạn - bè” … và những giá trị đạo đức này đã thâm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng