Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn đặc sắc của hai vở chèo “vong bướm” và “truyền thuyết tìm vua” của nguy...

Tài liệu Luận văn đặc sắc của hai vở chèo “vong bướm” và “truyền thuyết tìm vua” của nguyễn huy thiệp

.PDF
101
555
85

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI PHẠM THỊ GƢƠNG ĐẶC SẮC CỦA HAI VỞ CHÈO VONG BƢỚM VÀ TRUYỀN THUYẾT TÌM VUA CỦA NGUYỄN HUY THIỆP Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại Mã số : 60. 22. 01. 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Văn Sơn Hà Nội, 2017 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận đƣợc sự động viên, giúp đỡ của Ban Giám hiệu trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà Nội, nơi tôi đã học tập, nghiên cứu và hoàn thành cuốn luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và những ngƣời yêu quý đã giúp tôi có đƣợc kết quả nhƣ ngày hôm nay. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Chu Văn Sơn. Với học vấn uyên thâm, niềm đam mê nghiên cứu khoa học, thầy đã hƣớng dẫn tôi tìm đề tài, nghiên cứu các thành tựu sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, định hƣớng xây dựng những luận điểm khoa học khách quan, chính xác và nhiệt tình, trách nhiệm trong quá trình hoàn thiện luận văn của tôi. Tuy thời gian học tập và nghiên cứu khoa học tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội không nhiều, nhƣng tôi đã học tập và trƣởng thành rất nhiều trong nhận thức, nghiên cứu khoa học của mình. Kết quả của quá trình đào tạo Thạc sĩ sẽ giúp tôi vững vàng hơn trong nghề nghiệp mà tôi đã gắn bó và cống hiến trọn đời mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2017 Người viết Phạm Thị Gương CAM ĐOAN Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tất cả các ý tƣởng, đề tài và nội dung chính của luận văn đều do sự nghiên cứu trung thực, nghiêm túc của tôi. Khi thực hiện đề tài, tôi có sử dụng các tƣ liệu tham khảo liên quan tới vấn đề nghiên cứu, nhƣng tất cả chỉ là những gợi ý khoa học cần thiết để tôi phát triển ý tƣởng của mình. Tất cả tƣ liệu đƣợc dùng, tôi đều có trích dẫn nguồn gốc một cách rõ ràng. Công trình nghiên cứu này của tôi cũng chƣa đƣợc công bố trên bất cứ phƣơng tiện thông tin đại chúng nào. Tôi xin cam đoan những điều trên là sự thật. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Người viết Phạm Thị Gƣơng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................ 1 2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ........................................................................................... 3 3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................. 7 3.1. Mục đích nghiên cứu................................................................................... 7 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu............................................ 7 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................. 7 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN ................................................................................ 7 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ..................................................................... 8 NỘI DUNG........................................................................................................... 9 CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI CHÈO VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN HUY HIỆP ............ 9 1.1.Vài nét khái quát về thể loại chèo Việt Nam ............................................... 9 1.1.1.Chèo loại hình sân khấu ......................................................................... 9 1.1.2. Chèo loại hình văn học ..................................................................... 14 1.2.Tác giả Nguyễn Huy Thiệp ........................................................................ 16 1.2.1 Nguyễn Huy Thiệp- tài năng lao động nghệ thuật............................... 16 1.2.2. Đóng góp chèo Nguyễn Huy Thiệp .................................................... 18 CHƢƠNG 2: HAI VỞ CHÈO “ VONG BƢỚM” VÀ “ TRUYỀN THUYẾT TÌM VUA” - NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ TƢ TƢỞNG ...................................... 19 2.1 . Tƣ tƣởng riêng trong “ Vong bƣớm” và “ Truyền thuyết tìm vua”............. 19 2.1.1. Tƣ tƣởng riêng trong “ Vong bƣớm” .................................................. 19 2.1.2. Tƣ tƣởng riêng trong “Truyền thuyết tìm vua” .................................. 23 2.2. Tƣ tƣởng chung trong “ Vong bƣớm” và “ Truyền thuyết tìm vua” .............. 33 CHƢƠNG 3: HAI VỞ CHÈO “ VONG BƢỚM ” VÀ “TRUYỀN THUYẾT TÌM VUA” - NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT ................................. 38 3.1. Xung đột chèo ........................................................................................... 38 3.1.1. Khái niệm xung đột chèo .................................................................... 38 3.1.2. Xung đột trên bình diện đạo đức ........................................................ 41 3.1.3. Xung đột trên bình diện nhận thức ..................................................... 45 3.1.4. Yếu tố kì ảo nhƣ một thủ pháp kết cấu nhằm tăng cƣờng kịch tính và giải quyết các xung đột ................................................................................. 51 3. 2. Nhân vật chèo........................................................................................... 54 3.2.1. Vài nét về nhân vật chèo ..................................................................... 54 3.2.2. Đặc điểm của nhân vật trong chèo Nguyễn Huy Thiệp..................... 56 3.2.2.1. Nhân vật đƣợc xây dựng theo phƣơng pháp mô hình hóa và chuyển hóa mô hình ................................................................................... 57 3.2.2.2. Nhân vật đƣợc phân tuyến rõ ràng, thể hiện cái nhìn phân cực về thế giới, có tính chất khái quát hóa cao. .................................................... 58 3.3. Kiến tạo màn cảnh chèo ............................................................................ 66 3.4. Ngôn ngữ chèo .......................................................................................... 74 3.4.1. Ngôn ngữ bắt nguồn từ tiếng nói dân tộc ........................................... 74 3.4.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm .............................................................. 83 3.4.3. Ngôn ngữ có tính năng động, linh hoạt .............................................. 84 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 91 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 95 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo. Nhìn từ mặt loại thể thì chèo là một loại hình nghệ thuật đặc biệt: vừa thuộc về văn học, vừa thuộc về sân khấu. Mỗi tác phẩm chèo chân chính đều thuộc hai đời sống: đời sống văn tự (kịch bản) và đời sống sân khấu (vở diễn). Đời sống văn tự có trƣớc, đời sống sân khấu có sau. Tác phẩm chèo nào trƣớc tiên cũng là một tác phẩm văn học. Nhƣng không phải văn bản chèo nào cũng có thể và có dịp đƣợc dàn dựng thành vở diễn. Do đó, đời sống văn học, giá trị văn học là giá trị trƣớc nhất và cũng là giá trị sâu bền quyết định nhất của một tác phẩm chèo. Cũng vì thế, chèo là một trong những bộ phận cấu thành nên chỉnh thể của nền văn học. Một cách khác, nói đến một nền văn học, không thể không nói đến một bộ phận văn học là chèo. Vì thế, xem xét thành tƣu văn học không thể không xem xét thành tựu chèo. 1.2. Nghệ thuật sân khấu chèo đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài từ thế kỉ thứ X tới nay, đã đi sâu vào đời sống xã hội Việt Nam. Kể từ đó đến nay, qua các chặng đƣờng phát triển, chèo vẫn sánh bƣớc nhẹ nhàng với các bộ phận khác của văn học nghệ thuật và gặt hái đƣợc những thành tựu không nhỏ.Trên hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân tộc nửa sau thập kỉ 80 của thế kỉ XX, nhất là khi nổi lên ngọn gió đổi mới, chèo đã có những bƣớc chuyển mạnh mẽ, tạo ra bƣớc ngoặt quan trọng cho loại hình này. Thế nhƣng nhiều năm gần đây bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, chèo cổ đƣợc cải biên theo xu hƣớng kịch hóa khi nó bị dung tục, tầm thƣờng hóa mà mất đi tính ƣớc lệ và tối giản vốn có. 1 1.3. Nguyễn Huy Thiệp- một trong những chân dung văn chƣơng đƣơng đại nổi bật nhất của Việt Nam. Ông xuất hiện nhƣ là một hiện tƣợng lạ, độc đáo, gây nhiều tranh cãi: “Hiện tượng của Nguyễn Huy Thiệp”. Các sáng tác của ông ngay sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành tâm điểm đáng chú ý của giới nghiên cứu phê bình và những ngƣời yêu văn chƣơng. Đọc những sáng tác của ông có thể nhìn thấy “ một cõi người ta”xù xì, gân guốc, góc cạnh, lẫn lộn giữa tốt và xấu, thật và giả, đen và trắng, cao thƣợng và thấp hèn với những con ngƣời có suy nghĩ, hành động và đời sống nội tâm. Cái thế giới ấy thể hiện một cách nhìn rất thật và sâu sắc của nhà văn về con ngƣời. Ông đã khiến giới dƣ luận trong và ngoài nƣớc tốn không biết bao nhiêu giấy mực, ngƣời khen, kẻ chê, ngƣời say đắm, kẻ hững hờ…Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên còn chủ sự cả một tập “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” trong đó có rất nhiều ý kiến phê bình của nhiều tên tuổi có uy tín nhƣ Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân…Trong cuốn sách này tác giả Phạm Xuân Nguyên từng khẳng định: “ Xưa nay tôi chưa thấy một nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận, càng viết dư luận càng mạnh, truyện chưa ra thì người ta kháo nhau, truyện đăng rồi thì gặp nhau bình phẩm, bàn tán, chốn văn phòng cũng như chốn vỉa hè, đâu đâu cũng kháo chuyện. Văn đàn thời kì đổi mới đã thêm phần khởi sắc, náo động càng thêm náo động bởi những cuộc tranh luận, cả tranh cãi xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp” [ 28,tr.7]. Không chỉ hƣớng ngòi bút của mình và thành công ở thể loại truyện ngắn hay tiểu thuyết mà Nguyễn Huy Thiệp còn thử nghiệm ở cả kịch bản chèo. Nếu truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã đem đến một đời sống thực sự sôi động, hấp dẫn cho văn học vào những năm 80 của thế kỉ trƣớc thì kịch bản chèo Nguyễn Huy Thiệp, ông vẫn giữ đƣợc cái duyên trong cách viết của mình hài hƣớc và thâm thúy. Viết kịch bản chèo đƣợc các đồng nghiệp viết văn nhận xét đây đƣợc coi là thể nghiệm mới của Nguyễn Huy Thiệp. Ông là ngƣời đã có 2 những công lao trong việc bảo lƣu nét nghệ thuật tinh túy chèo – thứ đặc sản văn hóa của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên, hiện nay các công trình nghiên cứu về chèo Nguyễn Huy Thiệp chƣa thực sự sâu sắc và đầy đủ mà mới chỉ dừng lại ở những bài báo, một số bài nghiên cứu, đặc biệt chƣa có công trình nào nghiên cứu về những đặc sắc trong hai vở chèo của ông. 1.4.Với tất cả những lý do trên, mục đích nghiên cứu của luận văn lần này là làm rõ những đặc sắc trong hai vở chèo “Vong bướm” và “Truyền thuyết tìm vua” của Nguyễn Huy Thiệp, chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp trong hai vở chèo nói riêng và trong nghệ thuật chèo Việt Nam nói chung, chúng tôi đã lựa chọn cho luận văn của mình đề tài: “ Đặc sắc của hai vở chèo “Vong bƣớm” và “Truyền thuyết tìm vua” của Nguyễn Huy Thiệp”. 2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Mỗi ngƣời cầm bút khi khẳng định mình thƣờng không chỉ thể hiện tài năng ở một lĩnh vực mà luôn muốn trải nghiệm, làm mới mình ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Và trong chặng đƣờng sáng tác của mình khi đã đạt đến đỉnh cao ở một thể loại, họ lại tìm những mảnh đất mới ở những thể loại khác để thử sức và khẳng định năng lực sáng tạo của mình. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có thể nói, trong văn học thời kì đổi mới Nguyễn Huy Thiệp là một trong những cây bút tiêu biểu nhất và có những đóng góp to lớn cho văn đàn văn học Việt Nam.Với nhiều cách tân táo bạo và một lập trƣờng dân chủ hóa gần nhƣ triệt để, Nguyễn Huy Thiệp đã gây xôn xao dƣ luận trong một thời gian dài. Trong bài: “ Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” trên Website: vietvan.vn, Đỗ Đức Hiểu đã từng khẳng định: Trong hành trình “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỉ XX này và nâng nó lên một tầm cao mới”. [17]. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trở thành mảnh đất màu mỡ hứa hẹn nhiều khám phá, phát hiện độc đáo cho các nhà 3 nghiên cứu văn học và độc giả yêu văn chƣơng. Không chỉ vậy, Nguyễn Huy Thiệp còn hƣớng ngòi bút của mình sang nhiều lĩnh vực khác nhƣ: thơ, tiểu thuyết, tiểu luận phê bình, kịch đặc biệt ông cũng dành nhiều tâm huyết của mình cho thể loại chèo... Về phần mình, Nguyễn Huy Thiệp cho rằng ông viết chèo đơn giản chỉ bởi ông yêu chèo. Cho tới nay đã có nhiều bài viết nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhƣng nhìn chung các công trình nghiên cứu riêng biệt về chèo của ông thì chƣa có. Tuy không đƣợc nổi danh nhƣ truyện ngắn nhƣng chèo cũng là một đề tài chiếm nhiều tâm huyết của ông. Sau khi thành công với thể loại truyện ngắn, kịch. Ngày 23 tháng 2 năm 2012 kịch bản chèo “Vong Bướm” chính thức ra mắt và lần đầu tiên Nguyễn Huy Thiệp chịu xuất hiện trong các cuộc giới thiệu sách của mình. Trong bài viết “Nguyễn Huy Thiệp- “Viết nhƣ một thuật dƣỡng sinh” của Hoàng Anh Lê (Hoàng Anh Lê: Nguyễn Huy Thiệp- Viết nhƣ một thuật dƣỡng sinh http://giaitri.vnexpress.net/). Tác giả đã dẫn lời Nguyễn Huy Thiệp nói ngắn gọn về công việc viết văn của mình: “Viết văn giống như thuật dưỡng sinh, để đi hết trầm luân khổ ải của cuộc đời. Tôi viết, đơn giản là để giải tỏa những nhu cầu nội tâm, viết như là sự sống”. “Tác giả cũng phủ nhận việc mình muốn dấn thân vào làng chèo, hay tham vọng những điều gì lớn lao như cách tân, đổi mới, hay tiên phong trong chèo.” PGT - TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trƣởng Viện Văn học Việt Nam trong buổi ra mắt sách của Nguyễn Huy Thiệp cho rằng: “Vong bƣớm” là một trò chơi công phu của nhà văn để đổi mới thể loại kịch bản chèo, qua việc sắp đặt các không gian, thời gian, thể loại, các tích và những diễn ngôn khác nhau.” Nguyễn Đăng Điệp cũng nhận định, điều mà Nguyễn Huy Thiệp muốn nói ở đây chính là: “cuộc đời vốn bị ràng buộc bởi tham, sân, si. Vậy con ngƣời đã tìm đến Đạo nhƣ thế nào để vƣợt qua những lực cản tham, sân, si đó?” 4 TS Nguyễn Phƣợng đến từ Đại học Sƣ phạm Hà Nội lại đọc đƣợc từ “Vong bƣớm” chất suy tƣởng của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Phƣợng cho rằng, các nhân vật của “Vong bƣớm” mà đại diện là Điệp Lang đứng trƣớc một bối cảnh tri nhận văn hóa Âu châu. Họ bƣớc lên chuyến tàu ngƣợc chiều giữa mỹ học phƣơng Đông và phƣơng Tây để tìm kiếm cái gọi là đích đến của Chân, Thiện, Mỹ. Bản thân họ là một bi kịch, họ đi tìm sự thức tỉnh nhƣng trên hành trình đó, họ rơi vào rất nhiều bi kịch khác. Bi kịch đó cũng là bi kịch của các thế hệ nghệ sĩ Việt Nam vào đầu kỷ 20 trƣớc sự cƣỡng chế của văn hóa Âu châu. Thể nghiệm đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp về kịch bản chèo nhận đƣợc nhiều luồng tranh luận khác nhau ở ranh giới giữa một tác phẩm văn chƣơng và một tác phẩm chèo. Nhà phê bình sân khấu Nguyễn Thị Minh Thái lƣu ý rằng, đây mới chỉ là cái “động”, chƣa phải là cái “dịch”. Con đƣờng đi từ “chữ” đến “chèo” trên sân khấu sẽ còn là một quãng đƣờng còn nhiều chông gai. Với tƣ cách một đạo diễn kỳ cựu của làng chèo Việt Nam, đạo diễn Trần Việt Ngữ hoan nghênh kịch bản chèo của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, theo ông, trong chèo, cái “tích” là quan trọng nhƣng phải gợi đƣợc “trò”. Để ra đƣợc một vở chèo thì còn cần đến sự kết hợp của sân khấu, hình ảnh… Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - ngƣời dẫn chƣơng trình trong buổi ra mắt sách của ông phát biểu: “Tự mỗi người hãy đọc nó trong đêm khuya và có một vở chèo ở trong lòng mình, ở trong tâm mình, chứ đừng đón đợi một vở chèo “Vong bướm” trên sân khấu. Với “Vong bướm”, tất cả hạnh phúc, đau đớn, uất ức, thăng trầm của cuộc sống đã được Nguyễn Huy Thiệp vô tình mà bày ra, thì cái việc viết ở đây nó như là một nguồn sống, chỉ đơn giản là thế thôi”. Các luận văn thạc sĩ nghiên cứu kịch Nguyễn Huy Thiệp nhƣ: Kịch Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn thi pháp thể loại và khóa luận kịch Lƣu Quang Vũ và Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ đặc trƣng loại thể, báo cáo khoa 5 học yếu tố triết lý trong kịch Nguyễn Huy Thiệp ít nhiều nhắc đến hai vở chèo của Nguyễn Huy Thiệp nhƣng chƣa thực sự đầy đủ và sâu sắc. Lý giải việc chuyển sang viết cả thể loại kịch văn học, Nguyễn Huy Thiệp từng chia sẻ với BBC Việt Ngữ trong “Chuyến đi thăm Pháp” trên trang Website:www.dactrung.com: “ Tôi coi nghề viết văn còn là một việc gian khổ, phải bắt đầu như một học trò thành công trong một số truyện ngắn của mình. Và trong bài viết gần đây, tôi cũng đã nói rằng tôi vẫn viết truyện ngắn như một tác phẩm cổ điển không mang tính thời sự trước mắt mà người ta có thể đọc đi đọc lại. Một mặt khác tôi coi nó như một bài tập trong văn chương mà thôi, rồi chuyển sang các thể loại khác. Tôi viết kịch, tiểu luận và cả tiểu thuyết, một phần nó tùy thuộc vào nội tâm của tôi và những vấn đề mà tôi đặt ra nữa. Theo tôi ở xã hội Việt Nam để có thể phát triển một nền văn học toàn diện thì đòi hỏi tất cả các nhà văn đều phải cố gắng, không chỉ trong một thể loại mà ở tất cả các thể loại”. Nhƣ vậy sau kịch của Nguyễn Huy Thiệp thì chèo là một thể nghiệm mới mẻ trong sự nghiệp sáng tác của ông. Trong phạm vi hiểu biết và tìm kiếm của bản thân, tôi chƣa thấy có một công trình khoa học nào nghiên cứu về chèo của Nguyễn Huy Thiệp có chăng chỉ là những bài báo, những bài phỏng vấn về tác giả, những bài luận văn, khóa luận, báo cáo khoa học ít nhiều mới chỉ đề cập đến. Chính vì vậy chúng tôi hy vọng rằng luận văn “Đặc sắc của hai vở chèo “Vong bướm” và “Truyền thuyết tìm vua”của Nguyễn Huy Thiệp” có thể là một thể nghiệm nghiên cứu đầu tiên có tính tập trung chuyên sâu, góp phần lý giải một cách khoa học những thành công, hạn chế và vị thế của kịch bản chèo văn học Nguyễn Huy Thiệp trong sáng tác của riêng ông và trong đời sống sân khấu Việt Nam hiện đại nói chung. 6 3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Mục đích nghiên cứu Qua việc nghiên cứu “Đặc sắc của hai vở chèo “Vong bướm” và”Truyền thuyết tìm vua”của Nguyễn Huy Thiệp” tôi mong muốn khảo sát, phân tích hƣớng tới khẳng định những nét đặc sắc trong hai vở chèo của Nguyễn Huy Thiệp trên phƣơng diện nội dung và nghệ thuật, nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan về những đặc điểm chèo Nguyễn Huy Thiệp. Quá trình nghiên cứu cũng nhằm làm rõ những cách tân độc đáo và những đóng góp của nhà văn đến quá trình vận động, phát triển của chèo nƣớc nhà. 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những đặc sắc trong hai vở chèo của Nguyễn Huy Thiệp trên phƣơng diện tƣ tƣởng và nghệ thuật. Phạm vi nghiên cứu là kịch bản chèo: “Vong bƣớm”,“Truyền thuyết tìm vua”. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phối hợp và linh hoạt các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học sau: - Phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thể loại - Phƣơng pháp phân tích tổng hợp - Phƣơng pháp tiểu sử - Phƣơng pháp xã hội học và các phƣơng pháp liên ngành khác. 5. Cấu trúc luận văn. Ngoài phần mục lục và tài liệu thảm khảo, luận văn của tôi gồm ba phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Trong phần nội dung luận văn tập trung vào 3 chƣơng chính: Chƣơng 1: Thể loại chèo và tác giả Nguyễn Huy Thiệp Chƣơng 2: Hai vở chèo “Vong bƣớm” và “Truyền thuyết tìm vua”- những đặc sắc về tƣ tƣởng 7 Chƣơng 3: Hai vở chèo “Vong bƣớm” và “Truyền thuyết tìm vua” những đặc sắc về nghệ thuật 6. Đóng góp của luận văn. Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích bƣớc đầu giúp độc giả thấy đƣợc những đóng góp của chèo Nguyễn Huy Thiệp với sân khấu chèo Việt Nam, đồng thời thấy đƣợc đặc sắc của hai vở chèo Nguyễn Huy Thiệp trên bình diện tƣ tƣởng và nghệ thuật. Thực hiện luận văn này, tôi muốn đóng góp một chút công sức cho công tác nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam đƣơng đại về cây bút Nguyễn Huy Thiệp. Hơn nữa từ trƣớc tới nay việc tìm hiểu chèo Nguyễn Huy Thiệp chƣa có nhiều.Tính đến thời điểm luận văn này đƣợc tiến hành thì chƣa có công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về đề tài này ra đời. Do đó, chúng tôi đã dụng công nghiên cứu để có thể bổ sung thêm một số nhận định xác đáng và có giá trị bên cạnh những ý kiến đã có trƣớc đây về vấn đề này. 8 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI CHÈO VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN HUY HIỆP 1.1.Vài nét khái quát về thể loại chèo Việt Nam 1.1.1.Chèo loại hình sân khấu Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam, sân khấu là loại hình nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Đây đƣợc coi là loại hình nghệ thuật thứ sáu của nhân loại đƣợc hình thành và phát triển rất sớm. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngày nay nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu vô cùng to lớn và trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu của ngƣời dân Việt Nam. Khi nói tới loại hình nghệ thuật sân khấu Việt Nam thì không thể không nhắc đến nghệ thuật chèo. Chèo là một bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc và có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Ngay từ khi ra đời, chèo đã chiếm đƣợc cảm tình và sự yêu mến của nhân dân lao động. Ngƣời ta cƣời khóc cùng với “ chiếu chèo”, say sƣa với những làn điệu quen thuộc. Ngƣời xem vẫn lƣu luyến mãi với tiếng trống chèo văng vẳng trong tiềm thức: Tôi yêu chiều vụng dại trước bến sông Hoa cải đắng rụng trắng dòng trôi dạt Để giờ đây quê người nghe em hát Tiếng trống chèo dào dạt sóng Đồng Châu (Quê người nghe điệu chèo em hát – Tô Hoàng Hải) Có cô gái thôn quê nào đã từng gửi gắm niềm thƣơng nỗi nhớ vào những hội làng, trong cái ngóng trông của đoàn chèo làng Đặng: Đã thấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay (Mưa xuân – Nguyễn Bính) 9 Các con trai làng nào mà không say mê Thị Màu khi đôi mắt tình tứ của ngƣời con gái ấy không chỉ chăm chú nhìn vào thầy tiểu mà còn đi tìm chuyện trò với bao đôi mắt khác trong đám hội ngƣời xem. Chèo đã là một loại hình sân khấu dân gian, trở thành món ăn tinh thần, là tình yêu của ngƣời dân lao động. Cho đến nay, việc xác định thời điểm ra đời của sân khấu chèo vẫn chƣa thật sự thống nhất. Có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà nghiên cứu về nguồn gốc và sự hình thành của chèo, tuy nhiên có thể tổng hợp lại thành hai nhóm, hai quan niệm chính khác nhau. Một số ngƣời cho rằng: Nói chèo ra đời nghĩa là một loại hình sân khấu ra đời thì khi đó chèo đã đạt tới mức hoàn chỉnh một loại hình nghệ thuật sân khấu, phải có đủ các thành phần trong nghệ thuật tổng hợp này là kịch bản, âm nhạc, diễn xuất và mỹ thuật. Vở diễn đã hoàn thành có tích trò, có văn, có nghệ. Với quan niệm đó ngƣời ta cho rằng chèo ra đời từ thời Trần thế kỉ XIII, sau sự kiện Lý Nguyên Cát truyền cho đào kép Đại Việt vở diễn “Tây Vƣơng Mẫu hiến bàn đào” của tạp kịch đời Nguyên (theo chính sử ghi). Một số nhà nghiên cứu khác lại quan niệm rằng có thể xem nhƣ chèo ra đời khi những trò diễn đầu tiên đƣợc trình diễn theo đặc trƣng ngôn ngữ của chèo về làn điệu, lối diễn…cho dù còn ở mức sơ khai chƣa hoàn chỉnh. Với quan niệm đó, ngƣời ta cho rằng chèo ra đời từ thời Đinh mà hình thức sơ khai ban đầu là những trò diễn kết hợp trò nhại và múa hát dân gian đƣợc chèo hóa còn dấu tích là khổ trống lƣu không trong quân ngũ thời Đinh đƣợc nghi bằng phép hài thanh ở sách “Đà cổ lục” và đoạn ghi về huyền nữ Phạm Thị Trân trong “ Hý phƣờng phả lục”. Và tiếp nữa là văn bia tháp “ Sùng thiện diên linh”. Đa số các nhà nghiên cứu chèo tán thành quan niệm của nhóm thứ hai mà ngƣời thủ xƣớng là phó giáo sƣ Hà Văn Cầu từ năm 1964 khi ông còn là một cán bộ của Ban nghiên cứu chèo Trung Ƣơng. Vì tán đồng ý kiến cho rằng chèo ra đời từ thời Đinh cho nên các nhà nghiên cứu mới cho rằng chèo đã có một nghìn năm lịch sử. 10 Suốt từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX sử sách ghi chép vô cùng ít ỏi về sân khấu dân tộc. Bởi vì các sử gia, học giả, phải quan tâm đến những sự kiện trọng đại của quốc gia qua bao biến thiên thăng trầm của lịch sử, bao sự đổi thay chế độ chính trị xã hội, bao chuyện tày đình tác động đến chuyện sống còn của dân tộc, số phận của trăm họ, muôn dân. Mặt khác trong quan niệm chính thống của ngƣời xƣa, nghề xƣớng ca, kẻ làm nghề xƣớng ca còn bị coi khinh, không đƣợc xếp hạng vào thang thứ bậc trong các đẳng cấp trong xã hội phong kiến, cho nên các học giả, sử gia càng ít lƣu tâm. Có thể xem nhƣ suốt từ thời Đinh cho đến cuối đời Trần (khoảng 300 năm) chèo mới ở thời kì sơ khai, chƣa có vở diễn dài hoàn chỉnh. Hình thức phôi thai của chèo là những trò diễn đƣợc các nhà nghiên cứu gọi chung là “trò nhại”. Trò nhại tức là những trò diễn bắt chƣớc cử chỉ, hành vi thể hiện những đức tính tốt đẹp, công lao của các vị thần (trong dịp tế lễ, hội làng) hay của một vị hào phú (trong dịp giỗ tết, khai vọng cho con cháu họ thuê đào kép sắm vai). Các “trò nhại” này có sử dụng các làn điệu hát, khuôn múa mà sau này dần dần phát triển thành các điệu chèo. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì khoảng cuối thế kỉ XIV mà hình thức “Chèo thuyền bản” hay “Chèo thuyền bát nhã” rồi tiến tới một vở diễn đầu tiên tƣơng đối hoàn chỉnh của chèo cả về tích chuyện, nhân vật, trò diễn và hát múa dù là còn ở mức giản đơn đã ra đời đó là trò diễn “Mục Liên báo ân” còn gọi là “Huyết hồ trò” hay “Mục Liên địa tạng”. Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định chèo phát triển tới mức hoàn chỉnh là một loại hình sân khấu vào thời Hồng Đức nhà Lê và phát triển tới đỉnh cao, có nhiều tinh hoa độc đáo vào khoảng Lê Mạc- Nguyễn rồi tiếp tục bổ sung vào thành tựu của chèo bằng sự bồi đắp thêm cho các tác phẩm tiêu biểu nhƣ Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ, Từ Thức. Tôn Mạnh- Tôn Trong… vào cuối thế kỉ XIX. 11 Sự ra đời của nền văn hóa và nghệ thuật Việt Nam trƣớc ngƣỡng cửa thế kỷ XX do những điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể của một đất nƣớc thuộc địa nửa phong kiến quyết định. Thực dân Pháp thúc đẩy quá trình thâm nhập và phổ biến rộng rãi những kiến thức mới, những tƣ tƣởng chính trị, triết học và nghệ thuật mới cũng nhƣ những thành tựu khoa học – kỹ thuật ở Việt Nam. Xu hƣớng chính trị trong sự phát triển của xã hội Việt Nam là sự khát khao thoát khỏi tình trạng biệt lập kéo dài (kể cả trong lĩnh vực văn hóa) và trở thành bộ phận của một cộng đồng thống nhất của thế giới. Quá trình này bắt đầu vào cuối thế kỉ XIX và mạnh lên vào đầu thế kỷ XX, đƣợc đánh dấu bởi cao trào yêu nƣớc, và mặt khác là phong trào vì văn hóa mới mà sau này biến thành công cuộc hiện đại hóa văn hóa. Trƣớc thế kỉ XX, nghệ thuật sân khấu Việt Nam tồn tại đƣợc với hai thể loại sân khấu âm nhạc truyền thống là tuồng và chèo bên cạnh cải lƣơng và kịch nói để thích ứng với điều kiện xã hội nửa phong kiến và thuộc địa. Dƣới tác động của những nhân tố lịch sử mới, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã hình thành rõ nét sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Ứng với hai khu vực đó là hai lớp ngƣời có những nhu cầu tinh thần hoàn toàn khác nhau. Kịch nói sinh ra ở thành thị thì ở nông thôn, vào thời điểm này, ngƣời dân vẫn chỉ biết có tuồng, chèo. Nếu kịch nói trở thành nhu cầu riêng, món ăn riêng, thỏa mãn “gu” thƣởng thức riêng của ngƣời thành thị thì ở vùng nông thôn vào những ngày tháng nông nhàn, những buổi tiệc tùng đình đám, nỗi đam mê vẫn là những tích chèo thâu đêm suốt sáng nhƣ Quan âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ… Khán giả trung thành vẫn là những ngƣời răng đen hạt huyền, áo nâu chân đất, những trai tráng lực điền, những nàng “môi cắn chỉ” và cả những ngƣời “ăn no rồi lại nằm khoèo, nghe tiếng trống chèo bế bụng đi xem”. Suốt nhiều năm trong lịch sử, âm nhạc, và các làn điệu, điệu thức của chèo từng hấp dẫn bao thế hệ công chúng. Vậy vào thời kì này, chèo dƣờng nhƣ cũng trễ nải, 12 phờ phạc trƣớc làn sóng Âu hóa và trƣớc sức tấn công vô cùng mạnh mẽ của các loại hình nghệ thuật khác. Từ năm 1907 trở đi “Chèo văn minh” đƣợc khởi xƣớng bằng một số cải cách về lớp lang, phông cảnh và phục trang sân khấu. Năm 1914, Hội Sán Nhiên thành lập Sán Nhiên đài. Lần đầu tiên, từ sàn diễn sân đình, chèo đƣợc đƣa lên sân khấu. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm nhƣ Tô Thị, Nhị Độ Mai. Cấu trúc vở diễn đƣợc chỉnh lý, sắp xếp lại. Yếu tố thời gian và không gian vốn ƣớc lệ trong chèo cổ đã đƣợc xác định rõ hơn. Nhƣng rút cục, những thay đổi theo hƣớng “văn minh” đó vẫn chƣa giành đƣợc sự mến mộ của công chúng thị dân, của các bà, các cô, các cậu đang háo hức quay cuồng trong nhịp sống, nhịp yêu đƣơng mới. Nhất là những năm hai mƣơi trở đi, khi nghệ thuật cải lƣơng ở các tỉnh miền Nam du nhập ra Bắc thì “Chèo văn minh” lại càng thƣa thớt, vắng khách. Trƣớc nguy cơ đó, nghệ sĩ Nguyễn Đình Nghị (1883- 1954) lại cải tiến chèo và lấy tên là “Chèo cải lương”. Với loại chèo này, ông và các đồng sự chủ trƣơng chỉ giữ lại những đặc trƣng cơ bản nhất của chèo cổ, tƣớc bỏ những yếu tố lai tạp từ tuồng, bổ sung, dung nạp những hình thức diễn xƣớng và các làn điệu dân ca chủ yếu trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, khai thác triệt để yếu tố hài trong chèo cổ, phát triển lên thành những màn diễn độc lập. Những động tác cách điệu, ƣớc lệ trong vũ đạo truyền thống cũng nhƣ trang phục, đạo cụ…đã đƣợc thay thế bằng những động tác chân thực, những lối ăn mặc theo kiểu tân thời. Dàn nhạc “Chèo cải lương” cùng đƣợc tăng cƣờng một số nhạc cụ mới. Vở diễn bắt đầu có màn, có cảnh, nội dung hƣớng vào những vấn đề của cuộc sống đƣơng đại. So với “Chèo văn minh” và “Chèo cổ”, “Chèo cải lương” đã tạo nên môn nghệ thuật truyền thống này một sắc diện mới.Tuy nhiên, với “Chèo cải lương”, cụ Nguyễn Đình Nghị một phần chƣa tận dụng và phát huy hết cái hay, cái đẹp của chèo cổ, một phần chƣa thỏa mãn đƣợc những đòi hỏi mới của thực tế xã hội cũng nhƣ của 13 lớp công chúng thị dân, trí thức tiểu tƣ sản, thanh niên học sinh đô thị. Vì thế nó không tránh khỏi bị làn sóng Âu hóa cho điêu đứng. Cho đến đầu thế kỉ XX chèo đã để lại một di sản khá đồ sộ về số lƣợng vở diễn làn điệu chèo với những tinh hoa độc đáo nhƣ các mảnh trò Thị Màu lên chùa, Mẹ Đốp- Xã Trưởng, Súy Vân giả dại… Hiện nay chèo có các vở diễn kinh điển nhƣ: Oan khuất một thời, Ngọc Hân công chúa, Linh khí Hoa Lư, Nàng Sita, Tấm áo bào Hoàng đế, Trang chủ Sơn Đông, Thái hậu Dương Vân Nga, Chiếc bóng oan khiên, Cô gái làng chèo, Đồng tiền vạn lịch, Chiến trường không tiếng súng… Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nƣớc của ngƣời Việt. Mỗi khi vụ mùa đƣợc thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh để phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống trèo. Chiếc trống là một phần của văn hóa cổ Việt Nam, ngƣời nông dân thƣờng đánh trống để cầu mƣa và biểu diễn chèo. 1.1.2. Chèo loại hình văn học Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu mang tính tổng hợp, cũng giống nhƣ tuồng, cải lƣơng, vừa có tính chất văn học vừa có tính chất trình diễn tức là nó vừa thuộc về văn học, vừa thuộc về sân khấu. Đời sống văn tự có trƣớc, đời sống sân khấu có sau. Tác phẩm chèo nào trƣớc tiên cũng là một tác phẩm văn học. Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh và môi trƣờng hình thành, phát triển, chèo là một loại hình sân khấu dân gian truyền thống, thƣờng đƣợc biểu diễn khi hội hè và lúc nông nhàn. Mọi ngƣời trong phƣờng hát tụ tập nhau lại, gánh gồng đi các nơi. Cái gọi là “kịch bản” họ mang theo trong dạ hơn là trong hòm. Họ ghi nhớ, nhập tâm theo kiểu “ghi lòng tạc dạ”. Nghĩa là trƣớc khi có văn bản chính thống, kịch bản chèo thƣờng đƣợc lƣu truyền theo phƣơng thức truyền miệng. Kịch bản có thể hiểu nôm na là phần tích diễn, thƣờng gọi là “bản trò”, gồm những qui định ghi chép lại trên giấy, về một sự tích đã đƣợc chọn lựa 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan