Luận văn tốt nghiệp
LỜI GIỚI THIỆU
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá Du lịch đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu được- một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Du lịch Việt
Nam đang có những bước triển biến rõ rệt, lượng khách Du lịch trong nước và
nước ngoài ngày càng gia tăng. Ngành đã đóng góp rất lớn vào nền kinh tể
nước ta và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện CNH- HĐH đất nước, cải
thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập từ các hoạt động kinh doanh Du lịch
ngày càng cao đã đưa Du lịch trở thành một ngành “công nghiệp không khói”
đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Mặc dù vậy nhưng ngành Du lịch ở nước ta vẫn còn đơn giản, lạc hậu,
chưa thực sự được chú trọng khai thác hết tiềm năng. Chúng ta phải có một cơ
sở pháp lý rõ ràng, chi tiết để Nhà nước có thể quản lý chặt chẽ hơn và như
vậy các công ty du lịch hoạt động nghiêm túc, hiệu quả hơn giúp cho khách
du lịch thuận tiện, thoải mái và an toàn khi đi du lịch ở Việt Nam.
Ngoài ra để phát triển ngành Du lịch cần phải hội nhập với thế giới.
Đối với nước ta một nước đang phát triển thì hội nhập là con đường tốt nhất
để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tốt hơn
những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Vấn đề đặt ra với Việt Nam không phải là có hội nhập hay không mà là hội
nhập như thế nào ? tiến trình và cách thức để áp dụng tốt nhất. Thực tế cho
thấy không có một quốc gia nào có thể tự lực xây dựng một nền kinh tế nội
địa có hiệu quả mà không cần đến bên ngoài. Vì vậy hội nhập trong giai đoạn
hiện nay là rất cần thiết và được bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Việt Nam luôn là điểm đến an toàn, tin tưởng của du khách quốc tế, vì
vậy chúng ta phải xây dựng và bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm
thúc đẩy ngành du lịch phát triển và hội nhập với thế giới, giúp bạn bè thế
Luận văn tốt nghiệp
giới đến với Việt Nam nhiều hơn, thông qua đó mở rộng các mối quan hệ hợp
tác kinh doanh, tận dụng các điều kiện bên ngoài để phát triển kinh tế trong
nước nói chung và ngành Du lịch nói riêng.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu :” Cơ sở pháp lý về Du lịch và
vấn đề hội nhập quốc tế về Du lịch tại Việt Nam” có ý nghĩa rất quan trọng,
qua đó có thể khắc phục được những điểm yếu hiện nay và nắm vững cơ sở
nhằm phát triển du lịch Việt Nam lên tầm cao mới.
Trong khuôn khổ bài Luận văn em đã đề cập tới các nội dung sau:
Lời giới thiệu.
Chương 1: Du lịch và tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế
quốc dân
Chương 2: Cơ sở pháp lý của du lịch tại Việt Nam.
Chương 3: Hợp tác quốc tế về du lịch ở Việt Nam
Kết luận.
Do thời gian và khả năng có hạn, mặc dù em đã cố gắng thu thập tài
liệu, phân tích tổng hợp các thông tin để làm bài luận văn được tốt nhưng
cũng không tránh khỏi các thiếu sót . Em rất mong nhận được các ý kiến đóng
góp quý báu của các thầy cô để đề tài nghiên cứu này thực sự có hiệu quả.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa và đặc biệt là
thầy giáo TS. Hồ Phong Tư đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành bài
Luận văn này.
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I
DU LỊCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA DU LỊCH
TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã
hội và đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp
sống sinh hoạt trong xã hội hiện đại. Có nước coi Du lịch là nguồn thu chủ
yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi Du lịch như một
ngành kinh tế mũi nhọn, có sức hút đối với nhiều ngành. Ở Việt Nam, ngay từ
những năm 1960 ngành Du lịch đã ra đời đánh dấu nhận thức của Đảng và
Nhà nước về triển vọng kinh tế này.
Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập, Du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc,
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển Du lịch với các nước trong
khu vực trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
1.2. Khái niệm về Du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại , Du lịch đã được ghi nhận như một
sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch
đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước
phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy
nhiên, cho đến nay, nhận thức về nội dung du lịch trên thế giới vẫn chưa
thống nhất. Bởi hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ
nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau.
Đúng như một chuyên gia đã nhận định “đối với du lịch có bao nhiêu tác giả
nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Luận văn tốt nghiệp
Trong giáo trình Thống kê Du lịch , Nguyễn Cao Thường và Tô Đông
Hải chỉ ra rằng: Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ
phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các
hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
Nhưng theo hai học giả Hoa Kỳ - Mathieson và Wall thì du lịch là sự di
chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ là những
hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để
đáp ứng những nhu cầu của họ.
Còn theo nhà địa lý học Michaud lại cho rằng: Du lịch là tập trung
những hoạt động sản xuất và tiêu thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủ ít nhất
một đêm người nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khoẻ, hội
họp, thể thao hoặc tôn giáo.
Như vậy, dưới mỗi góc độ nghiên cứu đều có một cách nhìn nhận khác
nhau về khái niệm Du lịch. Chính vì vậy, trong pháp lệnh Du lịch của Tổng
cục du lịch Việt Nam cũng đưa ra khái niệm: Du lịch là hoạt động của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất đinh.
1.3. Tầm quan trọng của ngành Du lịch đối với nền kinh tế quốc dân
Dựa vào định nghĩa chúng ta thấy về phương diện kinh tế, Du lịch là
một ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó dựa trên và bao gồm sản phẩm có
chất lượng cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau.
Vì vậy, Du lịch ngày nay không chỉ là ngành kinh tế mang lại hiệu quả
kinh tế cao mà là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác,
tạo ra tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế, là phương tiện quan trọng để thực
hiện các chính sách mở cửa, là chiếc cầu nối giữa thế giới bên ngoài và bên
trong.
Du lịch có ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phát triển của nền kinh tế đất
nước thông qua việc tiêu dùng của du khách. Và để hiểu rõ vai trò của Du lịch
Luận văn tốt nghiệp
trong quá trình tái sản xuất xã hội trước hết, ta quan tâm tới việc tiêu dùng của
Du lịch, đó là những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức,
học hỏi, vãn cảnh thư giãn, nghỉ ngơi....
Du lịch nhằm thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá vật chất
và các hàng hoá phi vật chất. Do đó, nhu cầu về dịch vụ rất được du khách
quan tâm.
Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng Du lịch và
tiêu dùng các hàng hoá khác là việc tiêu dùng sản phẩm Du lịch xảy ra cùng
một lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện được quá
trình tiêu thụ sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu
dùng tại chỗ. Vì vậy, sản phẩm du lịch mang tính độc quyền và không thể so
sánh giá của sản phẩm Du lịch này với sản phẩm Du lịch kia một cách tuỳ tiện
đựơc.
Như vậy, ảnh hưởng kinh tế của Du lịch được thể hiện thông qua tác
động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm Du lịch . Quá
trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến
những lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trên bình diện chung, hoạt động Du lịch có tác dụng biến đổi cán cân
thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất
nước mà họ đi Du lịch , làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến, ngược lại
phần thu ngoại tệ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người Du lịch
nước ngoài. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động Du lịch làm xáo động
hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi được thực hiện giữa
các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh
tế của đất nước, song có tác dụng điều hoá nguồn vốn từ vùng kinh tế phát
triển sang vùng kém phát triển hơn kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng
sâu vùng xa.
Luận văn tốt nghiệp
Khi khu vực nào đó trở thành một điểm Du lịch , du khách từ mọi nơi
đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một
số lượng lớn vật tư, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành kinh
tế có liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến......Bên cạnh đó
các hàng hoá vật tư cho Du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về
chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu cầu hàng hoá
phải được sản xuất trên một công nghệ cao, trình độ tiên tiến...để sản xuất ra
các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách.
So với ngoại thương ngành Du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du
lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều
khâu nên tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người
mua không quá cao.
Qua đây, ta thấy Du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh
tế của nền kinh tế đất nước. Ngược lại, nó cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực,
rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng hoá tăng cao, nhiều
khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa phương, nhất là của những
người mà thu nhập của họ không liên quan đến Du lịch .
Việt Nam, với chủ trương mở cửa “làm bạn với tất cả các nước” nền
kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự chú ý của các doanh
nghiệp nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng
triệu lao động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước tăng trưởng
với nhịp độ cao, mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, giá cả
trong nước ổn định.
Du lịch quốc tế còn là phương tiện tuyền truyền và quảng cáo không
mất tiền cho nước ta. Cụ thể, khi khách hàng đến một khu du lịch nào đó,
khách có điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó. Khi trở về đất nước
họ, khách bắt đầu tìm kiếm những thứ đó ở thị trường địa phương và nếu
không thấy, khách có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập những mặt hàng
Luận văn tốt nghiệp
đó. Theo cách này, du lịch quốc tế đã góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất
của nước ta, mà nhất là trong khi chúng ta chưa có điều kiện truyền quảng bá
rộng rãi nhiều sản phẩm, mặt hàng trong nước ra thị trường nước ngoài.
1.4. Đường lối đổi mới trong sự nghiệp phát triển Du lịch của Đảng ở Việt
Nam và những thành tựu về du lịch trong những năm qua
Sau khi giành được độc lập tự do trên một phần của đất nước, mặc dù
còn có rất nhiều vấn đề quan trọng cần giải quyết dong Đảng ta đã có sự quan
tâm đến hoạt động du lịch. Chỉ 6 năm sau ngày chiến thắng Điện Biên Phủ,
với Nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội đồng Chính phủ, Công ty du lịch
Việt Nam đầu tiên của nước ta được thành lập. Đây là lần đầu tiên ở nước ta
có một cơ quan chuyên trách về vấn đề du lịch. Là một Công ty trực thuộc Bộ
Ngoại thương, nhiệm vụ cơ bản của Công ty Du lịch là phục vụ các đoàn
khách của Đảng và Chính phủ. Tuy gặp nhiều khó khăn do trình độ chuyên
môn, cơ sở vật chất non kém gây nên nhưng tổ chức này đã đặt nền móng cho
sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Như vậy, quyết định
này của Đảng và Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hình
thành ngành Du lịch Việt Nam. Chính vì vậy, ngày 9 tháng 7 được coi là ngày
thành lập của ngành Du lịch Việt Nam.
Ngày 23/1/1979, Thủ tướng đã ban hành Nghị định 32/CP chính thức
thành lập Tổng cục Du lịch. Sự ra đời của Tổng cục Du lịch cho thấy Đảng và
Nhà nước đã đánh giá cao vai trò của du lịch trong giai đoạn mới. Điều đó đã
tạo ra bước ngoặt mới đối với hoạt động du lịch Việt Nam. Với cơ sở vật chất
lớn mạnh, quyền hạn được mở rộng, giai đoạn này Tổng cục Du lịch trực tiếp
quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với hàng trăm khách sạn,
nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn CBCNV có trình độ và
kinh nghiệm để phục vụ khách trong và ngoài nước.
Luận văn tốt nghiệp
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu cho một
giai đoạn mới của đất nước. Đó là đường lối đổi mới. Luồng gió này đã đem
lại một nguồn sinh lực mới cho tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội như
kinh tế, văn hoá, giáo dục, quản lý… Với chính sách mở cửa: Việt Nam muốn
là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, du lịch nước ta đã thựuc
sự có điều kiện khởi sắc. Có thể nói, đây là mốc thứ ba trong lịch sử phát triển
Du lịch Việt Nam hiện đại. Từ sau Đại hội VI, nền kinh tế đất nước đã bắt đầu
có sự chuyển đổi về cơ bản. Thêm vào đó, năm 1990 được chọn là Năm Du
lịch Việt Nam đã góp phần thúc đẩy một cách đáng kể hoạt động du lịch nước
nhà. Hoạt động kinh doanh du lịch đã mở ra ở nhiều ngành, nhiều cơ quan,
không chỉ trong phạm vi các thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả những
thành phần kinh tế khác. Trước xu thế đó, du lịch không chỉ còn được coi là
một hoạt động văn hoá xã hội thuần tuý nữa mà đã được khẳng định còn là
một ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Ngày 9 tháng 4 năm 1990, Hội
đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 119 HĐBT về việc thành lập Tổng Công ty
Du lịch Việt Nam. Tên đối ngoại của Tổng Công ty du lịch Việt Nam là
Vietnamtourism. Tổng Công ty có các chi nhánh là các công ty ở TP. Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng. Sự xuất hiện của Tổng Công ty Du lịch Việt Nam
trong hoạt động du lịch quốc tế đã thu hút được sự quan tâm của bè bạn và du
khách năm châu. Kể từ đây hoạt động du lịch quốc tế của nước ta mới chính
thức được ghi nhận. Số lượng du khách quốc tế vào Việt Nam năm 1990 là
250.000 lượt, năm 1992 đã lên đến 440.000 lượt. Tốc độ tăng trưởng trung
bình năm khá cao, đạt khoảng trên 30%.
Sau nhiều thử nghiệm, trăn trở tìm mô hình tổ chức quản lý phù hợp
với con đường phát triển kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 26 tháng 10 năm 1992, Chính phủ đã ra Nghị
định số 05/CP về việc thành lập lại Tổng cục Du lịch như một cơ quan độc lập
ngang Bộ thuộc Chính phủ - quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cả nước.
Luận văn tốt nghiệp
Sự kiện này đã tạo ra một cơ hội to lớn cho sự phát triển của Du lịch Việt
Nam. Mười bốn Sở Du lịch đã được thành lập ở các tỉnh có tài nguyên du lịch
phong phú và hoạt động du lịch sôi động nhất. Sau thời điểm này, ngành Du
lịch Việt Nam đã thực sự có những chuyển biến đáng kể. Số lượng khách, kể
cả khách quốc tế và nội địa tăng lên nhanh chóng. Chúng ta thật đáng tự hào
cho con số 1.018 nghìn du khách quốc tế năm 1994, sớm hơn 4 năm so với dự
tính của các chuyên gia WTO. Tốc độ tăng trưởng trung bình năm của du
khách quốc tế giai đoạn 1992-1994 đạt trên 60% đã làm nhiều đối tác và
chuyên gia về du lịch của WTO phải ngạc nhiên.
Chỉ thị 46CT-TW ngày 14 tháng 10 năm 1994 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo đổi mới và phát triển du
lịch trong tình hình mới là một bằng chứng sinh động về sự quan tâm kịp thời
và có hiệu quả của Đảng đối với du lịch. Chỉ thị đã xác định rõ chức năng của
du lịch không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần, kịp thời chỉ ra những
khuyết điểm, yếu kém của du lịch, đồng thời cũng vạch ra những nguyên
nhân của nó. Chỉ thị cũng thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng trong việc phát
triển du lịch. Đó là coi việc phát triển du lịch là một hướng chiến lược trong
đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần
thực hiện CNH, HĐH đất nước. Quan điểm thứ hai là phải coi việc phát triển
du lịch là nhiệm vụ và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân
dân và các tổ chức xã hội. Quan điểm này là chỗ dựa vững chắc cho ngành Du
lịch trong việc huy động, liên kết với các ngành kinh tế, văn hoá để đi lên.
Quan điểm thứ 3 đặc biệt nhấn mạnh, đồng thời với phát triển du lịch quốc tế
cần phải chú trọng phát triển du lịch nội địa. Quan điểm này chỉ ra vai trò hết
sức quan trọng của du lịch trong phát triển xã hội, khẳng định du lịch không
chỉ nên coi là một ngành kinh tế đơn thuần mà phải được coi là một ngành
kinh tế mang tính xã hội sâu sắc lấy mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, lòng yêu nước, tăng cường sức
khoẻ… là nhiệm vụ quan trọng.
Luận văn tốt nghiệp
Ngày 24/12/199 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khoá VIII đã ra Nghị quyết 02-NQ/HNTW về định hướng chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm
2000. Trong Nghị quyết chỉ rõ: Một trong những nhiệm vụ nghiên cứu trọng
tâm là nghiên cứu các vấn đề lịch sử, dân tộc tôn giáo, ngôn ngữ, văn học,
nghệ thuật, tư tưởng, triết học… xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Dưới góc độ du lịch. Nghị quyết này đã làm phong phú thêm
nguồn tài nguyên du lịch, góp phần thu hút du khách, phát triển du lịch nước
nhà.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng đã dành rất nhiều
thời gian và sự quan tâm tới lĩnh vực du lịch. Để phát triển du lịch Việt Nam
theo quan điểm bền vững, về mặt tài nguyên, Đại hội chỉ rõ cần phải: bảo tồn
và khai thác vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử để phát triển
du lịch.
Một trong những nội dung cơ bản của thời kỳ CNH, HĐH trong những
năm trước mắt Đại hội khẳng định là: phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ…
phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm
du lịch, Thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đó, Đại hội xác định cần phải: triển
khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng
du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch to lớn của đất nước theo hướng
du lịch văn hoá, sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và các điểm
du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh. Huy
động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng kết cấu hạ
tầng ở những khu vực du lịch tập trung ở các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ
văn hoá và chất lượng phục vụ phù hợp với các loại khách du lịch khác nhau.
Như chúng ta đều biết tiêu dùng du lịch là loại tiêu dùng cao cấp. Trong
khi đó điều kiện kinh tế của nước ta còn khá hạn chế. Để giải quyết mâu
Luận văn tốt nghiệp
thuẫn này, Đại hội đã vạch ra những biện pháp rất cụ thể như: 1. Đẩy mạnh
việc huy động vốn trong nước đầu tư vào khách sạn; 2. Cổ phần hoá một số
khách sạn hiện có để huy động các nguồn vốn vào việc đầu tư cải tạo, nâng
cấp; 3. Liên doanh với nước ngoài xây dựng các khu du lịch và các khách sạn
lớn, chất lượng cao đòi hỏi nhiều vốn; 4. Chuyển các nhà nghỉ, nhà khách
sang kinh doanh khách sạn và du lịch.
Sự ra đời của Pháp lệnh du lịch tháng 2 năm 1999 đã tạo cơ sở pháp lý
quan trọng cho hoạt động du lịch. Về mặt học thuật, Pháp lệnh là văn bản
quan trọng trong việc thống nhất một số khái niệm cơ bản của du lịch. Với 9
chương, 56 điều, Pháp lệnh Du lịch là chỗ dựa pháp lý cho các doanh nghiệp
và người làm du lịch Việt Nam.
Hoạt động du lịch có liên quan chặt chẽ với nhiều ngành khác nhau. Để
yểm trợ cho hoạt động này, đưa chủ trương của Đảng coi việc phát triển du
lịch là trách nhiệm của các cấp, các Ban, Ngành vào cuộc sống. Ban chỉ đạo
Nhà nước về Du lịch do Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm (nay là Phó Thủ
tướng Vũ Khoan) làm Trưởng Ban đã được thành lập. Nhờ có Ban chỉ đạo,
nhiều vướng mắc trong hoạt động du lịch đã được giải quyết kịp thời, tạo
được những điều kiện thuận lợi nhất cho du khách.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, Đảng ta đã xác định cần phát
triển du lịch văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát
triển nhanh du lịch quốc tế và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình
độ phát triển du lịch của khu vực.
Chủ trương này đã và đang mang lại hiệu quả rõ rệt. Hiện nay, về cơ
bản chúng ta đã đáp ứng đủ nhu cầu lưu trú của du khách. Hơn một nửa số
buồng phòng đã đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Dưới sự chỉ đạo nhạy bén của Đảng và Chính phủ đặc biệt từ sau thời
kỳ đổi mới Du lịch Việt Nam đã đạt được kết quả rất khả quan. Ngoài việc
Luận văn tốt nghiệp
tăng trưởng về số lượng khách du lịch, thu nhập du lịch tăng bình quân trên
60% năm chiếm khoảng 4% GDP của cả nước.
Năm 2004, năm có ý nghĩa đăc biệt quan trọng đối với du lịch Việt
Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2001-2005 và Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứu IX phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều bất ổn, nhưng với sự nỗ lực
của toàn Ngành, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành
của Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, Ngành và địa phương, sự hưởng ứng
của toàn xã hội nên Du lịch Việt Nam vẫn đạt được nhịp độ tăng trưởng cao.
Năm 2004, hoạt động du lịch diễn ra sôi động với hàng loạt sự kiện: Năm Du
lịch Điện Biên Phủ, Festival Huế, Liên hoan Văn hoá - Du lịch Đà Nẵng,
tháng Du lịch Hội An "Cảm xúc mùa hè", lễ hội "Nhịp cầu xuyên Á", lễ hội
giao lưu văn hoá du lịch Việt - Nhật, lễ hội "Sắc hoa Đà Lạt"… So với năm
2003 khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 2,93 triệu lượt, tăng 20,5%;
khách du lịch nội địa đạt 14,5 triệu lượt, tăng 11,5%; thu nhập du lịch đạt
26.000 tỷ đồng, tăng 18,1%. Mười thị trường dẫn đầu khách quốc tế đến Việt
Nam vẫn tiếp tục được duy trì đó là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan,
Hàn Quốc, Australia, Pháp, Campuchia, Anh, Đức.
Hoạt động du lịch sôi động, tăng diện và quy mô, nhưng vẫn đảm bảo
được an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Những việc đã làm, những kết quả bước đầu đã đạt được, những kinh
nghiệm đã tích luỹ là hành trang của Du lịch Việt Nam trên con đường trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Năm 2005 du lịch Việt Nam bước sang tuổi 45
đầy sức sống sẽ phải vươn lên mạnh mẽ trên tất cả các mặt phấn đấu. Để đạt
được mục tiêu đề ra từ 3-3,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế vào năm 2005, từ
6-7 triệu lượt khách quốc tế và 25 triệu lượt khách nội địa vào năm 2010, đem
lại thu nhập xã hội từ Du lịch có giá trị tương đương với xuất khẩu từ 2-3 tỷ
USD mỗi năm còn nhiều việc phải làm ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Trước mắt,
Luận văn tốt nghiệp
cần tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình Hành động Quốc gia về
Du lịch và xây dựng Chương trình tiếp theo cho giai đoạn 2006-2010. Đồng
thời, cần tập trung giải quyết vướng mắc về phát triển nguồn nhân lực, nghiên
cứu sáng tạo sản phẩm mới, đặc thù, mang bản sắc văn hoá riêng của Việt
Nam, có tính cạnh tranh cao, đổi mới hoạt động xúc tiến du lịch, mở rộng hợp
tác và thu hút đầu tư. Tin rằng, từ những căn cứ và tiền đề tạo ra, được sự ủng
hộ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đồng bào cả nước, Du lịch Việt Nam
sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp CNH và HĐH đất
nước.
Có thể nói rằng du lịch Việt Nam đã có những thành tựu hết sức to lớn trở thành một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân - Những thành tựu
trong những năm qua là sự cố gắng chung của toàn dân, toàn ngành. Nhưng
có thể thấy rằng: Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với du lịch
là một tiền đề hết sức quan trọng cho những đổi mới của Ngành. Đây là nhân
tố rất quan trọng làm nền tảng cho sự phát triển của Du lịch Việt Nam. Có thể
tin tưởng rằng, dưới đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
tương lai không xa, Du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xứng đáng
trong xã hội và nền kinh tế nước nhà.
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ PHÁP LÝ TRONG DU LỊCH
2.1. Vài nét về tình hình pháp luật về Du lịch trước năm 2005
Ngành Du lịch ở Việt Nam ra đời năm 1960 trên cơ sở Nghị định 26/CP
của Chính phủ. Những năm đầu tiên với mục đích phục vụ chủ yếu cho khách
nội địa đó là những công dân có thành tích trong chiến đấu, học tập, lao động
được đi nghỉ mát, điều dưỡng.
Đến ngày 12/9/1969, ngành Du lịch giao cho Bộ Công an và Văn phòng
Thủ tướng trực tiếp quản lý. Năm 1977 du lịch được giao cho ngành Công an
quản lý.
Do tính chất, nhiệm vụ của đất nước mà du lịch chưa có điều kiện để
phát triển.
Năm 1978, BTN Quốc hội ban hành Nghị định 282/NQQ QHK6 thành
lập Tổng cục Du lịch trên cơ sở một Vụ của Bộ Nội vụ trực thuộc Hội đồng
Bộ trưởng. Sự kiện này đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá
trình phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Bởi vì sự kiện này đã phản ánh
mức độ nhận thức về tầm quan trọng và vai trò hiệu quả kinh tế - xã hội của
nó đối với sự phát triển của nước nhà.
Chính sự thay đổi về mặt tổ hức này đã mở rộng thẩm quyền và chức
năng của cơ quan quản lý du lịch. Giai đoạn này, bộ máy tổ chức và quản lý
của Tổng cục Du lịch dần được hoàn thiện, ngày 23/1/1979 Hội đồng Bộ
trưởng ra Nghị định 32/CP quy định chức năng và nhiệm vụ của ngành Du
lịch, năm 1981 ban hành Nghị định 137/CP quy định phương hướng phát triển
của ngành. Cũng năm 1981 Du lịch Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ
chức Du lịch thế giới (WTO). Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành cũng được
Luận văn tốt nghiệp
mở rộng bằng việc xây dựng khánh sạn mới ở miền Bắc, tiếp quản các khách
sạn của chế độ cũ sau ngày miền Nam giải phóng.
Năm 1986 một sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra, đánh dấu sự khởi
đầu cho một giai đoạn cho một giai đoạn mới của đất nước. Đó là đường lối
đổi mới nền kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đề ra. Với chính sách
mở cửa: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, du lịch Việt Nam đã thực
sự có điều kiện khởi sắc. Tuy nhiên, phải 4 năm sau, tức là năm 1990 chúng ta
mới thấy được những bước chuyển mình của du lịch Việt Nam.
Trong thời kỳ này, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, ngành Du
lịch Việt Nam đã từng bước khắc phục những khó khăn để ra sức phấn đấu
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
Trải qua nhiều thay đổi về tổ chức của ngành, từ chỗ ngành Du lịch
được giao cho Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch quản lý Nhà
nước theo Quyết định số 244/QĐ - HĐNN của Hội đồng Nhà nước ngày
31/3/1990 cho đến tháng 12/1991 Chính phủ quyết định chuyển sang chức
năng quản lý Nhà nước đối với ngành du lịch sang Bộ Thương mại và Du
lịch. Tới ngày 26/10/1992 Chính phủ có Nghị định 05 CP về việc thành lập
Tổng cục Du lịch. Ngày 27/12/1992 Chính phủ có Nghị định số 20/CP và
ngày 7/8/1995 Chính phủ có Nghị định 53 - CP quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Bắt đầu từ đây, Du
lịch Việt Nam chuyển sang trang mới, đó là công tác quản lý Nhà nước về du
lịch được tăng cường, quy hoạch tổng thể về du lịch được triển khai thực hiện.
Hệ thống doanh nghiệp được sắp xếp lại theo hướng chuyên môn hoá ngành
nghề, nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động du lịch. Cơ sở vật chất của
ngành từng bước được nâng cao và xây dựng mới bằng vốn đầu tư nước ngoài
và huy động trong dân. Mối quan hệ quốc tế về du lịch theo hướng đa
phương, đa dạng hoá trên nền tảng "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước". Ở nhiều tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, nhiều Sở Du lịch
Luận văn tốt nghiệp
hoặc Sở Thương mại và Du lịch được thành lập thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về du lịch ở địa phương. Hiện nay trong cả nước có 12 Sở Du lịch
và 49 Sở Thương mại - Du lịch. Tổng cục Du lịch gồm 8 Vụ chức năng, 6 đơn
vị sự nghiệp, 17 doanh nghiệp trực thuộc. Toàn ngành có khoảng gần 1.000
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Mô hình tổ chức quản lý Nhà
nước về du lịch được thể hiện ở sơ đồ sau:
CHÍNH PHỦ
CÁC CƠ QUAN CẤP BỘ
KHÁC
TỔNG CỤC DU LỊCH
UBND THÀNH PHỐ,
TỈNH
SỞ DU LỊCH HOẶC
SỞ THƯƠNG MẠI VÀ DU
LỊCH
DN du
lịch
Nhà
nước
do TW
quản
lý
DN du
lịch
Nhà
nước
do địa
phươn
g quản
lý
DN du
lịch có
vốn
đầu tư
nước
ngoài
DN du
lịch
hợp
tác xã
DN du
lịch
công ty
trách
nhiệm
hữu
hạn
DN du
lịch tu
nhân
Hộ
kinh
doanh
dịch
vụ du
lịch
DN du
lịch
công ty
cổ
phần
Mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về du lịch ở Việt Nam hiện nay
Được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, với chính sách mở cửa của
Nhà nước, sự phối hợp hỗ trợ của các cấp ngành, đoàn thể và sự cố gắng nỗ
lực của cán bộ công nhân viên toàn ngành, nên du lịch Việt Nam đã đạt được
các kết quả tiến bộ đáng kể.
Khi nói đến cơ sở pháp lý về du lịch - không thể không đề cập đến một
sự kiện quan trọng làm cơ sở thay đổi bộ mặt du lịch ở Việt Nam. Đó là:
tháng 2 năm 1999, UBTV Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Du lịch - Lần đầu
Luận văn tốt nghiệp
tiên ở Việt Nam Du lịch được điều chỉnh bằng những nguyên tắc, quy phạm
pháp luật trong một văn bản thống nhất có hiệu lực cao.
Với 9 chương, 56 điều, Pháp lệnh Du lịch đã từng bước đi vào cuộc
sống, hướng và điều chế các quan hệ Việt Nam theo đường lối đổi mới của
Đảng trên cơ sở thực hiện Pháp lệnh du lịch - Du lịch Việt Nam đã thu được
nhiều thành quả to lớn. Do đó không thể không đề cập đến một số nét của
Pháp lệnh này.
Cách đây gần 1 năm Tổng cục Du lịch và bước đầu tổng kết 4 năm triển
khai Pháp lệnh du lịch để đánh giá mặt "được" mặt "chưa được" của Pháp
lệnh và các văn bản pháp lý khác có liên quan thấy được những hạn chế, bất
cập của chúng nhằm tạo nên cơ sở pháp lý khoa học hơn, vững chắc hơn cho
du lịch - Đó là Luật Du lịch. Tham khảo kết quả đánh giá 4 năm thực hiện
Pháp lệnh cho ta một cái nhìn khái quát hơn về Du lịch Việt Nam.
2.2. Đánh giá chung sau 5 năm thực hiện Pháp lệnh du lịch
* Về việc công tác triển khai, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Du lịch
Từ khi ban hành Pháp lệnh Du lịch đến nay Tổng cục Du lịch đã trình
Chính phủ ban hành được 5 Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, đó là
Nghị định số 39/2000/NĐ-CP ngày 24/8/2000 của Chính phủ về cơ sở lưu trú
Du lịch; Nghị định số 27/2001/NĐ-CP ngày 05/6/2001 của Chính phủ về kinh
doanh lữ hành, hướng dẫn Du lịch; Nghị định số 47/2001/NĐ-CP ngày
10/8/2001 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của
Thanh tra Du lịch; Nghị định số 50/2002/NĐ-CP ngày 25/4/2002 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Du lịch và Nghị định số
94/2003/NĐ-CP ngày 19/8/2003 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch. Phối hợp với Bộ Thương mại trình
Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính
phủ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và doanh
nghiệp Du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài; Nghị định số
Luận văn tốt nghiệp
45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ quy định về Văn phòng đại
diện, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài và của doanh nghiệp Du lịch
nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời, Tổng cục Du lịch đã ban hành và phối
hợp ban hành 7 Thông tư và 2 Quyết định hướng dẫn các Nghị định trên. Như
vậy, các mảng hoạt động chính của Du lịch như lữ hành, hướng dẫn Du lịch,
lưu trú, thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Du lịch ... đã có
hướng dẫn cụ thể, tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt động Du lịch
phát triển.
Công tác phổ biến, quán triệt Pháp lệnh Du lịch và các văn bản hướng
dẫn thi hành cũng được triển khai sâu rộng tới từng đơn vị, địa phương, cơ sở
quản lý, kinh doanh Du lịch thông qua các hội Nghị định phổ biến, quán triệt
văn bản do Tổng cục Du lịch và các Sở quản lý Nhà nước nước về Du lịch tổ
chức để việc thi hành các văn bản Pháp lệnh Du lịch Luật Du lịch về Du lịch
được đầy đủ, thống nhất cho mọi đối tượng liên quan.
* Về quản lý lữ hành:
Trước khi triển khai thực hiện Nghị định 27 về kinh doanh lữ hành,
hướng dẫn Du lịch và Thông tư 04, toàn ngành có 107 doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành quốc tế, trong đó có 97 doanh nghiệp Nhà nước, 7 doanh
nghiệp liên doanh và 3 công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Đến nay, Tổng
cục đã thực hiện cấp, đổi 250 giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế cho các
doanh nghiệp, trong đó có 122 doanh nghiệp Nhà nước, 96 công ty TNHH và
20 công ty cổ phần, 3 doanh nghiệp tư nhân và 9 liên doanh lữ hành (hoạt
động theo giấy phép đâu tư). Các địa phương có nhiều doanh nghiệp lữ hành
quốc tế là Thành phố Hồ Chí Minh (85 doanh nghiêp), Hà Nội (82 doanh
nghiệp), Quảng Ninh (12 doanh nghiệp), Đà Nẵng (12 doanh nghiệp), Hải
Phòng (07 doanh nghiệp). Như vậy, so với thời điểm trước khi ban hành
Nghị định 27, hiện nay số doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế đã tăng
143 doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là công ty TNHH.
Luận văn tốt nghiệp
Nghị định 27 được ban hành và triển khai với những điều kiện, thủ tục
cấp phép đã đơn giản đến mức tối đa, giải quyết được sự không nhất quán
giữa một số quy định của Pháp lệnh Du lịch so với Luật Doanh nghiệp, do
Pháp lệnh Du lịch ban hành trước Luật Doanh Nghiệp.
Qua theo dõi kết quả kinh doanh cho thấy, bên cạnh một số doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động lữ hành quốc tế lâu năm vẫn giữ vai trò chủ lực
trong kinh doanh lữ hành và một số doanh nghiệp liên doanh lữ hành, các
doanh nghiệp được cấp phép mới, đặc biệt là một số công ty TNHH đã hoà
nhập nhanh vào môi trường kinh doanh lữ hành của nước ta, chủ động nghiên
cứu, tiếp cận thị trường, góp phần mở rộng thị trường quốc tế và thu hút được
nhiều khách từ các thị trường này tới Việt Nam trong 2 năm qua.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, sự tăng nhanh chóng của các doanh
nghiệp lữ hành quốc tế đi liền với tình hình vi phạm đang có chiều hướng
tăng lên và đa dạng hơn. Do điều kiện cấp phép rất đơn giản, dễ dàng, số
lượng doanh nghiệp lữ hành quốc tế tăng nhanh nhưng hiệu quả kinh doanh
và chất lượng dịch vụ không tăng theo tương xứng. Nhiều doanh nghiệp đăng
ký kinh doanh hoặc xin phép song trên thực tế không hoạt động do không có
đủ thực lực, từ đó phát sinh hiện tượng tiêu cực như cho người nước ngoài
núp bóng, trốn thuế, vi phạm chế độ quản lý, báo cáo, giành giật khách giữa
các công ty lữ hành, cạnh tranh khônglành mạnh.v.v....
Ngoài ra, do một số quy định trong Pháp lệnh chưa rõ ràng liên quan
đến việc tổ chức tour Du lịch, các dịch vụ trọn gói, dịch vụ từng phần, do đó
trên thực tế, đặc biệt ở TP. Hồ Chí Minh, nhiêu doanh nghiệp thực chất kinh
doanh lữ hành quốc tế song lại đăng ký kinh doanh các dịch vụ từng phần,
trốn tránh sự quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch.
Về kinh doanh đón khách Du lịch tự do (khách Du lịch lịch ba lô): Hiện
nay, xu hướng đi Du lịch tự do trên thế giới ngày càng nhiều. Trong những
năm gần đây, lượng khách Du lịch tự do vào Việt Nam ngày càng tăng. Để
Luận văn tốt nghiệp
đáp ứng nhu cầu của đối tượng khách này, một số doanh nghiệp lữ hành nội
địa, đặc biệt ở TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Khánh Hoà đã tổ chức phục vụ đón
khách. Tuy nhiên, theo Pháp lệnh Du lịch và Nghị định 27, doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành nội địa không được kinh doanh lữ hành quốc tế...Do đó, có thể
nói quy định này là gò bó đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội
địa trong khi các doanh nghiệp lữ hành quốc tế lại không hướng tới việc phục
vụ đối tượng khách này.
Trong quá trình triển khai các quy định pháp luật về kinh doanh lữ hành
còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại dưới đây:
- Về kinh doanh lữ hành nội địa:
Hiện nay, cả nước có hàng nghìn doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội
địa, trong đó hai địa bàn có nhiều doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa
nhất là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Theo Nghị định 27 và Thông tư 04, kinh
doanh lữ hành nội địa là ngành kinh doanh có điều kiện không cần giấy phép.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp vẫn tiến hành hoạt động
kinh doanh lữ hành nội địa trong khi chưa đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh
lữ hành nội địa, đặc biệt là điều kiện nộp tiền ký quỹ theo quy định. Tình
trạng này là do công tác kiểm tra và xử lý vi phạm các điều kiện về kinh
doanh lữ hành nội địa của nhiều Sở quản lý Nhà nước về Du lịch chưa đựơc
triển khai thường xuyên, nghiêm túc. Công tác phối hợp của Sở quản lý Du
lịch địa phương với Cơ quan đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch đầu tư địa
phương không cập nhật được số lượng doanh nghiệp đã đăng ký tại cơ quan
đăng ký kinh doanh. Trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành nội địa gần đây đã
xuất hiện nhu cầu cần có hướng dẫn viên trong khi khái niệm hướng dẫn viên
theo Pháp lệnh chỉ bao gồm hướng dẫn viên lữ hành quốc tế. Điều này đòi
hỏi có nghiên cứu thêm về khái niệm hướng dẫn viên và sự cần thiết của
hướng dẫn viên lữ hành nội địa.
- Tình trạng núp bóng: Hiện nay, tình trạng núp bóng trong hoạt động
kinh doanh lữ hành vẫn tồn tại và hoạt động ngày càng tinh vi hơn. Một số
- Xem thêm -