MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội và cũng là bản chất
của Nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước đó đã thực
thi một nền dân chủ rộng rãi khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
có dân chủ trong giáo dục, bởi “không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng
không nói gì đến kinh tế văn hóa”, giáo dục là một mặt trận quan trọng. Thực
hiện dân chủ trong giáo dục nhằm thúc đẩy giáo dục phát triển. Giáo dục là
hoạt động liên quan đến vấn đề nguồn nhân lực cho sự phát triển của một quốc
gia, cho nên thiếu dân chủ trong giáo dục sẽ kìm hãm sự phát triển của nguồn
nhân lực- động lực quan trọng nhất, quyết định nhất của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thiếu dân chủ trong giáo dục sẽ làm giảm chất lượng của
nguồn nhân lực, nó sẽ đi ngược lại với xu thế phát triển của thời đại - xu thế
đầu tư vào con người.
Trong giai đoạn đổi mới và phát triển của đất nước, dân chủ không chỉ
là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, là chủ trương,
đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời
kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo
dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo
dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay. Dân chủ nhất thiết phải gắn
liền với kỷ cương, vì thế song song với việc phát huy dân chủ cần nghiêm
khắc đối với những trường hợp vi phạm hoặc mất dân chủ trong hoạt động
giáo dục bằng những chế tài nhất định. Đó là tiền đề, là cơ sở cho mọi năng
lực, sáng kiến, tiến bộ của chúng ta luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng
xứng đáng là một nền giáo dục mới Việt Nam.
Trong những năm gần đây, việc thực hành dân chủ trong giáo dục ở nhà
trường của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tuy nhiên vẫn tồn tại
những hạn chế, bất cập. Trong các nhà trường vẫn còn tình trạng mất dân chủ,
dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn hoặc lợi dụng dân chủ để trục lợi cá nhân,
xúi giục những hành động vi phạm pháp luật, vi phạm dân chủ.
Nhằm tạo cơ sở hướng tới sự phát triển của nền giáo dục nước nhà nói
chung, giáo dục THPT nói riêng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, tuy
nhiên chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu một cách
có hệ thống về vấn đề dân chủ trong cộng đồng giáo viên ở các trường THPT.
Vì vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Các biện pháp nâng cao dân
chủ trong cộng đồng giáo viên các trường THPT ở thành phố Móng Cái,
tỉnh Quảng Ninh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, ánh giá thực trạng và chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng
đến vấn đề dân chủ trong cộng đồng giáo viên các trường THPT tại thành phố
Móng Cái từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao dân chủ trong cộng đồng giáo
viên các trường THPT tại thành phố Móng Cái.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nâng cao dân chủ trong các trường THPT tại thành phố
Móng Cái tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Biện pháp nâng cao dân chủ trong cộng đồng giáo viên các trường
THPT tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
- Cộng đồng giáo viên và dân chủ trong cộng đồng giáo viên các trường
THPT tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Việc triển khai các biện pháp nâng cao dân chủ trong cộng đồng giáo viên
các trường THPT trên địa bàn thành phố Móng Cái đã được quan tâm, thực hiện
tương đối đầy đủ cả về nội dung và hình thức. Tuy nhiên, quá trình triển khai còn
bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Nếu đề xuất và thực hiện được các biện pháp phù
hợp với điều kiện thực tế của mỗi trường thì việc nâng cao dân chủ trong cộng
đồng giáo viên các trường sẽ đạt được kết quả tốt hơn từ đó phát huy được vai trò
trách nhiệm của các giáo viên, góp phần cải thiện chất lượng giáo dục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về: dân chủ; dân chủ trong cộng
đồng giáo viên các trường học và triển khai các biện pháp nâng cao dân chủ
trong cộng đồng giáo viên các trường THPT.
5.2. Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện công tác dân chủ trong cộng
đồng giáo viên các trường THPT ở thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao dân chủ trong cộng đồng giáo
viên các trường THPT ở thành phố Móng Cái.
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp nâng cao dân chủ trong cộng
đồng giáo viên ở 3 trường THPT: THPT Trần Phú, THPT Lý Thường Kiệt, THPT
Chu Văn An tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh từ năm học 2014 đến nay.
Khách thể khảo sát: 120 Cán bộ quản lý và giáo viên, 100 phụ huynh học
sinh và 200 học sinh các trường THPT thành phố Móng Cái, Tỉnh Quảng Ninh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp nghiên cứu các tài liệu về dân chủ và các biện pháp
thực hiện dân chủ ở các trường THPT. Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp
luật về dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ trong ngành giáo dục và đào tạo.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động của nhà trường khi triển
khai thực hiện dân chủ để có thể hiểu rõ hơn tác dụng của dân chủ trong các hoạt
động của nhà trường.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Để nhận định, đánh giá rõ các mặt
mạnh, mặt yếu và tìm ra nguyên nhân của hạn chế, yếu kém và những yếu tố ảnh
hưởng đến vấn đề thực hiện dân chủ ở các trường THPT thành phố Móng Cái;
khảo nghiệm ý kiến đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về tính cần thiết và
tính khả thi của các biện pháp nâng cao dân chủ cơ sở ở các trường THPT. Đây
là phương pháp chính của đề tài này.
- Phương pháp chuyên gia: Trưng cầu ý kiến các chuyên gia nhằm đánh
giá mức độ thực hiện dân chủ ở các trường THPT.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tiến hành sưu tầm, nghiên cứu, phân
tích các kinh nghiệm thực hiện dân chủ ở các trường THPT trong thời gian qua.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu
Để lượng hóa kết quả nghiên cứu, đề tài xử lý số liệu thu được bằng thống
kê toán học và phân tích các số liệu, các thông tin trong quá trình nghiên cứu,
điều tra thu thập. Phương pháp này sẽ giúp xác định một cách khách quan về
việc thực hiện dân chủ ở các trường THPT.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài ở đầu, kết luận và khuyến nghị, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện dân chủ trong cộng đồng
giáo viên các trường THPT.
Chương 2. Thực trạng dân chủ trong cộng đồng giáo viên các trường
THPT trên địa bàn thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3. Các biện pháp nâng cao dân chủ trong cộng đồng giáo viên
các trường THPT trên địa bàn thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG CỘNG
ĐỒNG GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Dân chủ, dân chủ ở cơ sở, Quy chế dân chủ ở cơ sở là vấn đề được nhiều nhà
khoa học, những người làm công tác lý luận chính trị quan tâm ở những góc độ,
những khía cạnh khác nhau. Hệ thống chính trị của nước ta dựa trên thiết chế
quan trọng đó là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Việc
phát huy, thực hiện dân chủ phải được tiến hành một cách thực sự có hiệu quả,
không tách rời thiết chế trên với sự quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam và hệ thống pháp luật là công cụ quan trọng nhất để đảm bảo thực thi
quyền dân chủ của nhân dân. Nhà nước cũng quan tâm chú trọng tới việc phát
huy dân chủ, bên cạnh đó các tổ chức đoàn thể có vai trò quan trọng trong việc
trong việc phát huy quyền dân chủ ở cơ sở.
Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Nghị định số
04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã ra Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 01-3-2000 về việc
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của trường học. Mục đích
của việc thực hiện dân chủ trong nhà trường là nhằm phát huy quyền làm chủ và
huy động tiềm năng trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán bộ,
viên chức trong nhà trường thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với
đường lối, chủ trương của Đảng và luật pháp của Nhà nước.
Sau khi ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường, đã có một số bài viết cũng như công trình nghiên cứu của một số tác giả
đề cập đến vấn đề này, như: Luận văn thạc sĩ Các biện pháp của Hiệu trưởng
thực hiện dân chủ hóa trong quản lý hoạt động tổ chuyên môn ở các trường
THPT tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2007 của tác giả Nguyễn Thị
Thiệp; Một số biện pháp của hiệu trưởng nhằm tăng cường việc thực hiện dân
chủ trong nội bộ trường THPT; Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học-
công nghệ cấp cơ sở tại trường Bồi dưỡng cán bộ Giáo dục và Đào tạo - Hà Nội
năm 2001 của chủ nhiệm đề tài Nguyễn Thị Minh;...Các công trình đã đề cập
đến một số vấn đề lí luận về dân chủ trong nội bộ nhà trường, tìm hiểu về thực
trạng của việc thực hiện dân chủ trong nội bộ trường THPT hiện nay, như:
- Làm tốt vai trò quản lý nhà nước của hiệu trưởng, kết hợp đúng đắn chế
độ thủ trưởng và nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường.
- Phát huy quyền chủ động, tự chủ của nhà trường, thực hiện dân chủ,
công khai trong việc quản lý nhà trường đi đôi với việc giữ vững nền nếp, kỷ
luật, kỷ cương trong nhà trường.
- Nâng cao vai trò của các tổ chức chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội
khác trong việc thực hiện dân chủ ở nhà trường và phối hợp cùng nhau đẩy
mạnh phong trào thi đua "dạy tốt - học tốt".
- Xây dựng mô hình "Trường học có đời sống văn hoá tốt". Đẩy mạnh
việc thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục ở nhà trường.
Trong luận văn thạc sĩ: Một số biện pháp xây dựng phong cách quản lý
dân chủ của hiệu trưởng các trường THPT thành phố Hải Phòng của tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh (2004), Khoa Sư phạm- Trường Đại học quốc gia Hà Nội,
đã nghiên cứu cơ sở lí luận và đi sâu tìm hiểu thực trạng phong cách quản lý dân
chủ của hiệu trưởng trường THPT thành phố Hải Phòng:
- Tác giả chú trọng đến biện pháp tác động đến nhận thức của hiệu trưởng,
làm sáng tỏ lí do của sự cần thiết phải có phong cách quản lí dân chủ trong
trường học.
- Cung cấp công cụ để các hiệu trưởng tự đánh giá phong cách quản lí của
bản thân. Đặt ra định hướng sự rèn luyện của hiệu trưởng.
- Tổ chức các hoạt động trong nhà trường theo tinh thần dân chủ hoá.
Trong bài viết Thực hiện quy chế dân chủ ở trường học của tác giả
Nguyễn Thị Xuân Mai, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Tạp chí Giáo
dục, số 100, 11/2004), tác giả đưa ra một số giải pháp tăng cường vai trò lãnh
đạo của chi bộ Đảng, tính gương mẫu của đảng viên trong các nhà trường; trách
nhiệm của hiệu trưởng nhà trường trong việc triển khai, tổ chức thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở. Tổ chức công đoàn trong các trường học thực hiện tốt chức
năng của mình trong phối hợp, giám sát, đôn đốc việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Đề tài "Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cơ sở ở nước
ta hiện nay" do hai tác giả Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông đồng chủ trì. Có thể
tìm hiểu khái quát về công trình nghiên cứu này qua cuốn sách cùng tên do NXB
Chính trị quốc gia ấn hành năm 2003. Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước về
"Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển của nước ta hiện nay" do PGS.TS Hoàng Chí Bảo - Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, nghiệm thu 2002. Đề tài "Hệ thống chính trị cấp
cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta" - TS. Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000. Đề tài "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và
giải pháp" của TS. Vũ Hoàng Công - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2002. "Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"
của PGS. TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Dân chủ
với phát triển cộng đồng của PGS. TS Trần Quang Nhiếp, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, 2006. Dân chủ và giáo dục của John Dewey, NXB Tri thức, Hà Nội, 2008.
Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở
Việt Nam, của GS.TSKH Đào Trí Úc - PGS.TS Trịnh Đức Thảo - TS Vũ Công Giao
- TS Trương Hồ Hải, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2014. Các công trình nghiên
cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu về việc thực hiện Quy chế dân chủ gắn với tăng
cường hệ thống chính trị ở cơ sở nói chung, ở cơ sở nói riêng. Ở các công trình
này, các tác giả cũng chỉ ra phương hướng và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện
dân chủ cơ sở.
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu, những bài viết đã nêu, các tác
giả cũng đã ít nhiều bàn đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đưa ra những
biện pháp thực hiện dân chủ ở các trường học từ cấp mầm non đến cấp
THPT hoặc của một đơn vị sự nghiệp hay một địa phương nào đó. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở một cơ sở trường học
cụ thể chưa nhiều. Các công trình đi sâu nghiên cứu thực hiện dân chủ ở cơ sở
trong các trường THPT cũng còn rất hạn chế. Vì ậy, đề tài nghiên cứu về công
tác dân chủ trong cộng đồng giáo viên trường THPT tại thành phố Móng Cái,
tỉnh Quảng Ninh sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cả về lý luận và thực tiễn vấn đề
thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Cộng đồng
1.2.1.1. Khái niệm
Cộng đồng là tập hợp người có sức bền cố kết nội tại cao, với những tiêu
chí nhận biết và quy tắc hoạt động, ứng xử chung dựa trên sự đồng thuận về ý
chí, tình cảm niềm tin và ý thức cộng đồng, nhờ đó các thành viên của cộng
đồng cảm thấy có sự gắn kết họ với cộng đồng và với các thành viên khác của
cộng đồng [53].
Trung tâm Nghiên cứu và Tập huấn PTCĐ quan niện rằng: Cộng đồng
là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con người sống chung ở một
địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh học nào đó và cùng
chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào đấy.
“Cộng đồng là tập thể người sống trong cùng một khu vực, một tình hoặc
một quốc gia và được xem như một khối thống nhất”; “Cộng đồng là một nhóm
người có cùng tín ngưỡng, chủng tộc, cùng loại hình nghề nghiệp, hoặc cùng
mối quan tâm”; “Cộng đồng là một tập thể cùng chia sẻ, hoặc có tài nguyên
chung, hoặc có tình trạng tương tự nhau về một số khía cạnh nào đó” [75].
1.2.1.2. Phân loại cộng đồng
Cho đến nay đã có nhiều cách phân loại cộng đồng được đề xuất áp dụng trong
các nghiên cứu về cộng đồng, tuy nhiên phổ biến nhất vẫn là những loại sau đây:
- Cộng đồng địa lý: Bao gồm các cộng đồng láng giềng, như xóm, phố,
làng xã, thành phố, vùng quốc gia, thậm chí cho tới toàn bộ hành tinh. Những
cộng đồng này được gọi là cộng đồng địa vực.
- Cộng đồng văn hóa: bao gồm các loại phe phái, tiểu văn hóa, nhóm tộc
người, các cộng đồng tôn giáo, cộng đồng đa văn hóa hay các nền văn minh đa
nguyên cho tới thậm chí là cộng đồng văn hóa toàn cầu. Loại cộng đồng này còn
có thể bao gồm cả những cộng đồng về nhu cầu hay bản sắc, như cộng đồng
người khuyết tật hay cộng đồng người cao tuổi ...
- Cộng đồng tổ chức: Bao gồm gia đình, dòng họ, các mạng lưới, cho tới
các tổ chức chính thức, kể cả kết cấu của hệ thống hoạch định chính sách, các
tập đoàn kinh tế, hiệp hội nghề nghiệp ở các qui mô nhỏ, dân tộc hay quốc tế.
- Cộng đồng tính:
+ Là dạng thể hiện mối quan hệ xã hội trong đó có những đặc trưng được
xác định như: Tình cảm, ý thức về chuẩn mực xã hội (dòng họ, dòng tộc, đẳng
cấp hay tầng lớp xã hội).
+ Đặc trưng: Quan hệ mang tính chất thân tình, thân thiện mang độ cố kết
có ý nghĩa tự nhiên và thể hiện tính cộng đồng cao. Tính cộng đồng là bền vững,
được khẳng định theo thời gian và chính thời gian là yếu tố kết dính các thành
viên trong cộng đồng.
- Cộng đồng thể:
+ Là dạng cộng đồng mà được xác định là nhóm người cụ thể, những
nhóm xã hội có liên kết với nhau theo các mối quan hệ xã hội, nghề nghiệp các
mối quan tâm … ở nhiều qui mô khác nhau.
+ Đặc trưng: Có tính cá nhân cao; có tính nhạy cảm trong quan hệ xã hội;
quan hệ xã hội theo nội qui, sự thỏa thuận giữa các thành viên về quyền lợi và
nghĩa vụ; các vị thế của các thành viên có được là do sự phấn đấu của họ.
1.2.1.3. Các đặc tính của cộng đồng
- Đoàn kết xã hội
Theo quan điểm của C.Mác thì cộng đồng thể hiện mối quan hệ qua lại
giữa các cá nhân được sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các thành viên
về điều kiện tồn tại và các hoạt động của con người hợp thành cộng đồng đó nên
cộng đồng mang tính đoàn kết xã hội. Đoàn kết thể hiện ở chỗ gần gũi giữa các
cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ thống giá trị cũng như những quan điểm chủ
quan của họ về các mục tiêu và các phương tiện hoạt động.
Sự liên kết xã hội thể hiện sự tương quan giữa cá nhân này với cá nhân
khác có tính kết hợp hay phản ứng tương hỗ theo đó con người được gần nhau
và phối hợp chặt chẽ với nhau hơn.
- Cơ cấu xã hội
Có mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã hội. Các cộng
đồng xã hội (dân tộc, giai cấp, nhóm nghề nghiệp…) là những thành tố cơ bản.
Mỗi cộng đồng xã hội lại có cơ cấu phức tạp với những tầng lớp bên trong
và những mối liên hệ giữa chúng.
Là mô hình của các mối liên hệ giữa các thành phần cơ bản trong một hệ
thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả các xã hội loài
người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các mối quan hệ của chúng luôn
biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của
cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm và các thiết chế.
Là tổng thể các nhóm xã hội có liên hệ tác động qua lại với nhau, cũng
như các thiết chế xã hội và các mối quan hệ của chúng. Cơ chế tồn tại và phát
triển của cơ cấu xã hội được chứa đựng trong hệ thống hoạt động của con người.
Sự phân công lao động xã hội như nguồn gốc sâu xa nhất của các khác
biệt xã hội, là chìa khoá để giải thích lịch sử các mối quan hệ xã hội, nó mang
tính nguyên tắc đối với quá trình cấu tạo nhóm.
1.2.1.4. Các yếu tố tạo thành cộng đồng
- Yếu tố địa vực
Bao gồm các cộng đồng láng giềng, như xóm, phố, làng xã, thành phố,
vùng quốc gia, thậm chí cho tới toàn bộ hành tinh.
- Yếu tố kinh tế
Chủ yếu là các hoạt động nghề nghiệp hoặc các hoạt động kinh tế khác.
Nó không chỉ bảo đảm về vật chất cho sự tồn tại của cộng đồng mà nó còn có ý
nghĩa về mặt tinh thần.
- Yếu tố văn hóa
+ Tộc người: Gồm tộc người chủ thể trong một quốc gia và các tộc người
thiểu số.
+ Tôn giáo, tín ngưỡng: Là yếu tố củng cố sự liên kết cộng đồng trên cơ
sở niềm tin.
+ Hệ thống giá trị chuẩn mực: Mỗi cộng đồng xác định cho mình một giá
trị chuẩn mực riêng với tính chất là các định chế xã hội qui định các nhận thức
và hành vi.
1.2.2. Phát triển cộng đồng
1.2.2.1. Khái niệm
Phát triển cộng đồng là một phương pháp của công tác xã hội được xây
dựng trên những nguyên lý, nguyên tắc và giả định của nhiều ngành khoa học xã
hội khác như: Tâm lý xã hội, xã hội học, chính trị học, nhân chủng học…, được
áp dụng ở nhiều nước và đã phát huy vai trò trong việc giải quyết các vấn đề của
các nhóm cộng đồng nghèo, các nhóm yếu thế trong thời gian qua. Đó là phương
pháp giải quyết một số vấn đề khó khăn, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng
tới sự phát triển không ngừng về đời sống vật chất và tinh thần của người dân
thông qua việc nâng cao năng lực, tăng cường sự tham gia, đoàn kết, phối hợp
chặt chẽ giữa người dân với nhau, giữa người dân với các tổ chức và giữa các tổ
chức với nhau trong phạm vi một cộng đồng [75].
1.2.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của phát triển cộng đồng
Là sự tham gia và tự quyết của nhân dân; tin vào khả năng của người dân
và phát huy nội lực của chính cộng đồng. Phương pháp này luôn đánh giá cao
vai trò của người dân và coi đây là nhân tố quyết định tới sự thành công trong
việc phát triển cộng đồng yếu thế.
1.2.2.3. Các thể chế tác động đến phát triển cộng đồng
+ Sự tự quản của cộng đồng
+ Sự quản lý của nhà nước
+ Sự tác động của cơ chế thị trường
1.2.2.4. Các định hướng phát triển cộng đồng
+ Phát triển cộng đồng phải xuất phát từ nhu cầu của người dân.
+ Phải đồng bộ dựa trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội…
+ Sự tham gia của quần chúng là yếu tố cơ bản của đường lối phát triển
cộng đồng. Các tổ chức chính quyền đóng vai trò hỗ trợ để huy động và củng cố
các tổ chức quần chúng ở cộng đồng.
+ Phát triển cộng đồng phải chú ý về tạo sự chuyển biến trong nhận thức và
hành vi của người dân.
+ Phát triển cộng đồng phải chú ý đến phát triển tiềm năng con người.
1.2.2.5. Mục tiêu phát triển cộng đồng
+ Hướng tới cải thiện chất lượng sống của cộng đồng (vật chất, tinh thần…).
+ Củng cố các thiết chế để tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến xã
hội và sự tăng trưởng.
+ Tạo ra sự bình đẳng tham gia của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng, đặc
biệt là các nhóm thiệt thòi.
+ Tạo ra sự bình đẳng tham gia tối đa của người dân vào tiến trình phát triển.
+ Đề cao việc phát triển con người: Coi con người vừa là chủ thể vừa là
mục tiêu của sự phát triển.
1.2.3. Cộng đồng giáo viên Trường Trung học phổ thông
Theo tác giả Phạm Hồng Tung thì những người cùng làm một nghề hoặc
cùng liên quan tới một nghề là cộng đồng nghề nghiệp [78].
Như vậy, những người thực hiện hoạt động giáo dục, trong một khối gắn
bó, giữa họ có sự liên kết và hợp tác với nhau để cùng thực hiện lợi ích của mình
và lợi ích chung của xã hội ở bậc THPT là cộng đồng giáo viên trường THPT.
1.2.3.1. Đặc trưng của cộng đồng giáo viên
Giáo viên không có địa bàn quần cư chung nhưng đều làm việc trong mối
quan hệ tình cảm dựa trên những chuẩn mực, giá trị chung của nghề dạy học.
Các thành viên trong cộng đồng giáo viên có sự đoàn kết giúp đỡ nhau, có tính
tập thể rất cao. Mỗi cá nhân giáo viên hằng ngày đều phải tự làm mới mình, tự
bồi bổ hiểu biết, nâng cao trình độ của mình để đủ sức khai sáng thế hệ trẻ mỗi
ngày một khác, mỗi ngày một phát triển theo đà tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Nghề dạy học đòi hỏi người thầy phải giàu tình cảm, phải sống được
“nhiều cuộc đời” - nghĩa là phải biết hóa thân vào thân phận từng học trò của
mình để hiểu hoàn cảnh, động cơ, mục đích hành động của trò từ đó nghĩ ra cách
dạy, cách nâng đỡ, cách tha thứ và cách thuyết phục thành công. Người thầy
giàu tình cảm luôn được trò thương, trò nhớ, gia đình học trò biết ơn.
Chính vì thế mà hành vi cá nhân chịu ảnh hưởng rất lớn từ dư luận cộng
đồng. Mỗi người hành động phải chú ý đến người khác, đến cộng đồng. Họ không
thể tùy tiện hành động theo ý muốn của mình. Trước dư luận, họ phải tuân theo
những chuẩn mực, khuôn mẫu chung của cộng đồng. Ở đây tác động của dư luận,
của tiểu môi trường xã hội mạnh hơn so với sự kiểm soát thực tế của cá nhân. Do
đó các hành động của cá nhân luôn theo ý muốn chung của cộng đồng. Dư luận xã
hội có sự chi phối mạnh mẽ tới quyết định của cá nhân [76].
1.2.3.2. Mối quan hệ của cá nhân trong cộng đồng giáo viên
Cá nhân là số ít, là một cá thể với những suy nghĩ và cuộc sống riêng. Cộng
đồng là khái niệm dung để chỉ tập thể của nhiều cá nhân cùng tham gia. Giữa cá
nhân và cộng đồng phải có mối quan hệ nhất định: trong cá nhân có cộng đồng,
trong cộng đồng có cá nhân. Cộng đồng có nhiều cá nhân cùng tham gia, trong
cộng đồng có tiếng nói cá nhân. Một cộng đồng mạnh khi có nhiều cá nhân xuất
sắc, một tổ chức ổn định thì đời sống cá nhân cũng ổn định, vững vàng…
Trong nhiều tổ chức, nhiều tập thể vẫn có những cá nhân hết lòng cống
hiến sức khoẻ, năng lực, tâm huyết để dựng xây cơ quan, đơn vị mình công tác.
Họ có thể là những người lãnh đạo của cơ quan, họ cũng có thể là các nhân viên,
bảo vệ, là các bạn cán bộ lớp, các thành viên trong lớp… Đơn vị đó vì vậy mà
không ngừng lớn mạnh góp thêm vào việc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội,
phong trào của nhà trường…
Nhưng trước những biến động và đổi thay không ngừng của nền kinh tế thị
trường, nhu cầu cuộc sống cá nhân ngày một khác đã trở thành khá phổ biến những
quan niệm cho rằng trước hết phải vì cuộc sống của chính mình, vì lợi ích của riệng
mình. Vì vậy trước tập thể nhiều cá nhân đã không đóng góp hết mình và dựa dẫm,
ỉ lại vào số đông theo suy nghĩ “Nước nổi thì bèo nổi”. Họ tìm cách để thu vào túi
mình những nguồn lợi lớn nhất để ổn định cuộc sống gia đình và hưởng thụ, họ thờ
ơ trước những thay đổi của đơn vị mình, thờ ơ trước những khó khăn của mọi
người xung quanh. Họ không dám đấu tranh trước những cái sai, cái xấu, bàng
quan và vô ưu vì sợ liên luỵ đến mình, ảnh hưởng đến danh tiếng, chức sắc, thu
nhập… Có thể nói mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống ngày nay
có phần xấu đi, dường như mọi người chỉ còn làm việc theo trách nhiệm và làm
vừa đủ, vừa đúng thậm chí chưa hoàn thành công việc của mình…Trước hiện trạng
đó, mỗi cá nhân chúng ta cần phải xác định lại quan điểm đúng đắn về mối quan hệ
giữa cá nhân và cộng đồng, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, tinh thần
trách nhiệm của mỗi người trong tổ chức, đơn vị mình công tác và sinh hoạt. Cộng
đồng phải bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân, bênh vực cá nhân, động viên, khích lệ
họ vượt lên mọi hoàn cảnh để có nhiều đóng góp vì lợi ích chung…
Giáo viên là người dạy dỗ, giáo dục con người, tham gia các tổ chức
chính trị - xã hội. Tất cả các thành viên nhìn chung đoàn kết với nhau, tạo ra một
không khí đạo đức chung, lành mạnh trên cơ sở phát huy truyền thống tốt đẹp
của nhà trường. Mỗi người chỉ thực hiện một nhiệm vụ, một khâu nào đó trong
giáo dục. Vì vậy người thầy trong hoạt động của mình càng phải chú ý phối hợp
hoạt động của các thành viên khác trong cộng đồng của mình.
1.2.3.3. Vai trò của cộng đồng giáo viên
- Đối với tập thể sư phạm và ban lãnh đạo nhà trường
Người thầy giáo chấp hành nhiệm vụ được giao của các tổ chuyên môn,
của ban giám hiệu nhà trường và các tổ chức giáo dục khác. Phải thường
xuyên phối hợp hoạt động của mình với các giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiêm lớp.
- Đối với các tổ chức của học sinh
Có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức của học sinh như chi đoàn
thanh niên, ban cán sự lớp... để tổ chức các hoạt động nội, ngoại khóa, tổ
chức rèn luyện, tu dưỡng và vui chơi, giải trí...có hiệu quả, tạo ra bầu không
khí dân chủ, cở mở đoàn kết, thân ái, vui tươi, lành mạnh trong việc học tập
và rèn luyện.
- Đối với cha mẹ học sinh
Người thầy giáo, đặc biệt là thầy giáo chủ nhiệm cần có mối quan hệ
chặt chẽ, thường xuyên với cha mẹ học sinh. Chúng ta rất coi trọng sự phối
hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường, nhưng ở các lớp trong nhà trường
trung học, trong thực tế, sự phối hợp này thường chỉ thông qua một đầu mối là
giáo viên chủ nhiệm và diễn ra vài ba lần trong một năm qua các buổi họp phụ
huynh. Vì vậy, cần tổ chức các buổi họp cha mẹ học sinh sao cho có chất
lượng và hiệu quả.
- Quan hệ với các tổ chức xã hội khác
Ở các trường phổ thong khu vực thành thị thì liên hệ giữa nhà trường và
các tổ chức xã hội thường do ban giám hiệu đảm nhiệm. Nhưng, ở khu vực nông
thôn trong quá trình giáo dục thì giáo viên, đặc biệt là các giáo viên chủ nhiệm
thường có quan hệ chặt chẽ với cộng đồng, với cha mẹ học sinh, với các tổ chức
xã hội...để phối hợp công tác giáo dục có hiệu quả.
1.2.4. Dân chủ
1.2.4.1. Khái quát chung về dân chủ
Theo từ điển bách khoa Việt Nam [dẫn theo53] thì: Dân chủ là "hình
thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân
là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân
chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết
chế chính trị nhất định. Với tư cách là hình thức tổ chức chính trị của Nhà
nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Khác với các
hình thức khác của thiết chế nhà nước trong thiết chế dân chủ, quyền của đa
số, quyền bình đẳng của công dân, tính tối cao của pháp luật được chính thức
thừa nhận, những cơ quan cơ bản của nhà nước do bầu cử mà ra".
Nói về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: dân là chủ và dân
làm chủ. Không thể có dân chủ nếu nhân dân không được làm chủ. Người cũng
chỉ ra rõ ràng rằng: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của
dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Dân chủ là vấn đề không riêng một quốc gia hay một nền chính trị nào
quan tâm, nó được phần lớn các thể chế nhà nước trên thế giới, nghiên cứu khoa
học, vận dụng. Tuy nhiên các thể chế nhà nước có chế độ chính trị khác nhau lại
có những cơ chế dân chủ khác nhau. Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội
gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Dân chủ mang ý
nghĩa khởi nguồn là quyền lực thuộc về nhân dân .
Theo từ điển bách khoa (1994): Dân chủ là “Tôn trọng và thực hiện quyền
mọi người tham gia bàn bạc và quyết định công việc chung” [Dẫn theo 53].
Trong ngôn ngữ hiện đại: Dân chủ có thể được hiểu là một hình thức tổ chức
quyền lực nhà nước của một giai cấp, là một nguyên tắc tổ chức và quản lý xã
hội, là tính chất của các mối quan hệ giưã các cộng đồng người, là một giá trị xã
hội, một lý tưởng giải phóng con người hướng tới tự do và thực hiện quyền làm
chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản thân mình.
Dân chủ phải gắn liền với các mặt khác của xã hội. Dân chủ phải đi đôi với
văn hoá, dân chủ phải đi đôi với dân trí, dân chủ là tinh hoa của dân trí. Dân chủ
phải đi đôi với pháp luật, dân chủ phải tuân theo các quy định của Hiến pháp,
pháp luật. Dân chủ được thể hiện trong mọi lĩnh vực cuộc sống xã hội, dân chủ
trong giáo dục và đào tạo cũng đã được quan tâm thể hiện qua “Cuộc vận động
dân chủ hoá nhà trường” [26] với hai nội dung cơ bản là dân chủ hoá quá trình
đào tạo và dân chủ hoá quản lý nhà trường. Muốn mở rộng dân chủ ra mọi mặt
của đời sống xã hội chúng ta phải thực hiện dân chủ hóa. Dân chủ hoá [26] là làm
cho trở thành có tính chất dân chủ. Nghĩa là phải làm cho các lĩnh vực hoạt động
xã hội đều được dân chủ. Hay nói khác đi, mọi lĩnh vực hoạt động đều được phát
huy tính dân chủ. Có thể hiểu dân chủ theo hai nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Dân chủ theo nghĩa rộng: Dân chủ được hiểu như một mục tiêu phấn đấu
của dân tộc Việt Nam đã được ghi trong Hiến pháp là “Thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Những mục tiêu này đều
có mối quan hệ gắn bó với nhau. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Có dân chủ thì
mới có công bằng xã hội. Dân chủ thực sự thì dân mới giàu, quốc gia mới mạnh.
Dân chủ theo nghĩa hẹp: Dân chủ có thể hiểu là một cách thức và những
điều kiện kèm theo để mọi người dân tham gia bình đẳng vào các công việc
chính trị, kinh tế, xã hội với vai trò là người làm chủ xã hội.
Hình thức dân chủ có 2 loại: Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
- Dân chủ trực tiếp: Là người dân được trực tiếp tham gia bàn bạc và quyết định.
Vấn đề dân chủ trực tiếp khó tổ chức một cách tập trung khái quát,nhưng lại bao quát
hết thực tiễn đời sống cũng như ý chí nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
- Dân chủ đại diện: Người đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân
tham gia bàn bạc và quyết định vấn đề. Dân chủ đại diện dễ tổ chức thực hiện dễ
tập trung thống nhất,nhưng lại khó bao quát hết thực tiễn đời sống cũng như ý
chí nguyện vọng của tầng lớp nhân dân. Mặc dù dân chủ trực tiếp hay dân chủ
đaị diện đều phản ánh nguyện vọng ý chí quyền lực của nhân dân.
1.2.4.2. Quan niệm về dân chủ qua các thời kỳ lịch sử
- Dân chủ trong các hình thái kinh tế xã hội loài người
Khái niệm “Dân chủ” đã xuất hiện từ thời Hy lạp cổ đại. Hêrôđốt (484425 trước CN) là người đầu tiên sử dụng khái niệm này. Ông cho rằng “Dân
chủ” là một thể chế mà quyền lực do nhân dân lao động nắm giữ thông qua con
đường phổ thông đầu phiếu. Do vậy dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội, nó tồn
tại và phát triển cùng xã hội loài người. Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân
vì nhân dân lao động là người sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần là yếu tố
hàng đầu tạo ra lực lượng sản xuất là nơi tạo ra mọi nguồn lực của xã hội.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ khi xã hội chưa có sự phân chia giai
cấp, mọi người sống với nhau theo bầy đàn thì chưa có khái niệm dân chủ, song
lại xuất hiện hình thức dân chủ đầu tiên của loài người, đó là mọi người cùng
chung sống và săn thú, cấy trồng chung và sản phẩm thu được cùng nhau sử
dụng. Thời kỳ này, hình thức dân chủ với tư cách là hình thức sinh hoạt cộng
đồng. C.Mác, F.Ăngghen đã gọi là nền dân chủ quân sự là nền dân chủ nguyên
thuỷ - dân chủ sơ khai, hình thức dân chủ đầu tiên của loài người.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã có sự phân chia giai cấp, xuất hiện sự chiếm giữ
sở hữu tư liệu sản xuất. Giai cấp chủ nô đã thiết lập bộ máy bạo lực đặc biệt phục
vụ cho quyền lợi của chủ nô đó là Nhà nước, dân chủ được biểu hiện thông qua chế
độ nhà nước, nền dân chủ đó phục vụ cho giai cấp chủ nô. Mọi quyền lực đều
thuộc về giai cấp chủ nô, giai cấp chủ nô có quyền định đoạt số phận của nô lệ.
Khi nhà nước phong kiến ra đời, quyền lực nhà nước nằm trong tay của
vua chúa với phương thức cha truyền con nối “Con vua thì lại làm vua”, thì nền
dân chủ chủ nô được thay thế bằng nền dân chủ phong kiến, quyền lực được
truyền lại cho con cháu do vậy nhân dân lao động đã không có cơ hội nắm giữ
quyền lực. Những tư tưởng dân chủ tồn tại và phát triển trong xã hội phong kiến
đã tạo cơ sở cho tư tưởng dân chủ tư sản xuất hiện.
Khi chế độ tư sản ra đời thì nền dân chủ phong kiến được thay thế bằng
nền dân chủ tư sản, quyền lực nhà nước nằm trong tay của giai cấp tư sản. Nhân
dân lao động làm chủ chỉ là hình thức, thực tế không có quyền lực gì trong xã
hội, họ là người tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất cho các chủ tư sản. Nhưng họ
lại bị áp bức bất công nhất họ bị các ông chủ bóc lột tới tận xương tuỷ. Đã có rất
nhiều cuộc đấu tranh xảy ra đòi hỏi quyền dân chủ cho người lao động trong
thời kỳ này, điển hình nhất là cuộc đấu tranh công xã Paris.
Bước sang giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi giai cấp công nhân
đã đứng lên đấu tranh lật đổ chế độ tư sản và xây dựng nhà nước dân chủ do giai
cấp công nhân lãnh đạo thì nền dân chủ tư sản đã được thay thế bằng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Người dân có quyền quyết định vận mệnh của đất nước,
họ được quyền tham gia xây dựng nhà nước thông qua phổ thông đầu phiếu lựa
chọn những con người đại diện cho giai cấp mình lãnh đạo đất nước và làm chủ
trên các mặt hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước.
- Vấn đề dân chủ ở Việt nam
+ Dân chủ thời kỳ dựng nước và giữ nước
Từ xa xưa ông cha ta đã biết đoàn kết, biết dựa vào sức mạnh to lớn đó là
sức dân để dựng xây đất nước, hình ảnh nhân dân chung sức, chung lòng rèn rũa vũ
khí cho chú bé làng Phù đổng đứng lên đánh giặc cứu nước và bao nhiêu cuộc
trường trinh giữ nước của ông cha ta đã huy động toàn dân đứng lên bảo vệ đất
nước đã thể hiện một phần nào đó tinh thần dân chủ, đoàn kết của ông cha ta. Ông
cha ta đã nhận thức được tầm quan trọng của sức dân trong cuộc đấu tranh bảo vệ
Tổ quốc như chống giặc Nguyên, Minh. Điều đó được thể hiện qua hội nghị Diên
Hồng nhà Trần đã lấy ý kiến của dân để thống nhất ý chí đánh giặc bảo vệ đất
nước; tư tưởng “Khoan thư dân là kế sâu rễ, bền gốc để giữ yên xã tắc” của Trần
Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã đề cao việc “lấy dân làm gốc”, “Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân”... Ông cha ta đã khẳng định sức dân là sức mạnh cực kỳ to lớn.
+ Dân chủ trong thời kỳ đổi mới
Đất nước thống nhất và bước sang chặng đường mới đầy khó khăn gian khổ,
do tàn dư của cơ chế cũ để lại, đã có không ít tệ nạn quan liêu, gia trưởng trong một
bộ phận cán bộ. Tình trạng mất dân chủ xảy ra làm ảnh hưởng đến lòng tin của dân.
Công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua đã giành được những thành tựu có ý nghĩa
quan trọng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng viết “Cùng
với những thắng lợi đã giành được từ trước công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực
của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được
tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định…” [71]. Trong đó, vấn đề
dân chủ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu của Đảng và
Nhà nước ta. Để phát huy dân chủ thì việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và nâng cao trình độ dân trí là việc làm
rất cần thiết. Trong tình hình hiện nay khi nước ta đang trên đường CNH-HĐH thì
vấn đề dân chủ càng phải coi trọng nhằm xây dựng nhà nước của dân do dân và vì
dân, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
- Vấn đề dân chủ trong giáo dục
Trên thế giới và ngay cả ở nước ta đều có các quan niệm khác nhau về
giáo dục, nhưng đa số đều thống nhất: “Giáo dục là hoạt động hướng tới con
người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những
tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và
đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm
chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu, chuẩn bị cho đối tượng tham
gia lao động sản xuất và đời sống xã hội” [dẫn theo 58].
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng và tất yếu của xã hội loài người, là điều
kiện không thể thiếu được để duy trì và phát triển con người và xã hội. Giáo dục là
một bộ phận của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội mà con người
được giáo dục là nhân tố quan trọng nhất, vừa là động cơ, vừa là mục đích của phát
triển xã hội. Để phát huy được nhân tố con người trong giáo dục, ngày nay, xu
hướng dân chủ hóa giáo dục đang được đề cao và phát triển mạnh mẽ.
Dân chủ hóa giáo dục có 2 cách hiểu: 1) Trào lưu tư tưởng đổi mới, cải tổ
nền giáo dục nhằm đáp ứng những nhu cầu thực tiễn và thiết thực của đại đa số
học sinh là con em nhân dân lao động. Dân chủ hóa giáo dục đòi hỏi phải thay
đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục cho phù hợp với năng
lực và điều kiện thực tế của đại bộ phận người học để họ có cơ hội bình đẳng
tiếp thu những giá trị văn hóa do giáo dục mang lại. 2) Biện pháp giáo dục nhằm
thay đổi phương pháp dạy học sao cho phù hợp với sở trường và năng lực tiếp
thu của người học, khiến cho mỗi người học tự mình tích cực chủ động đến với
tri thức và sáng tạo ra con đường riêng để vươn tới và chiếm lĩnh một phần tri
thức một cách nhanh nhất và chắc chắn nhất. Dân chủ hóa giáo dục đối lập với
biện pháp giáo dục quyền uy, áp đặt một cách đồng loạt mọi yêu cầu, nội dung
lên toàn thể người học, do đó dân chủ hóa giáo dục có tác dụng khơi dậy và giải
phóng tiềm năng của từng người học để họ tự trở thành chủ thể giáo dục của
chính bản thân mình.
Bàn về khái niệm dân chủ trong giáo dục, nhà giáo dục John Dewey,
trong cuốn sách Dân chủ và giáo dục - một dẫn nhập vào triết lý giáo dục đã
giải thích: “…bởi vì giáo dục là một tiến trình xã hội, và có rất nhiều loại xã hội,
cho nên tiêu chí dùng để phê phán và giải thích giáo dục hàm ý một lý tưởng xã
hội cụ thể. Hai điểm được lựa chọn ra đánh giá giá trị của một hình thái tồn tại
xã hội là: mức độ chia sẻ các mối hứng thú của tất cả các thành viên của một
nhóm; và mức độ trọn vẹn và tự do của các mối quan hệ tương giao giữa một
nhóm này với các nhóm khác. Nói cách khác, một xã hội không đáng hoan
nghênh là một xã hội đặt bên trong và bên ngoài nó những rào cản ngăn chặn sự
giao tiếp và truyền đạt kinh nghiệm một cách tự do. Một xã hội cho phép mọi
- Xem thêm -