Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Luận văn bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội lim ở bắc ninh hiện nay...

Tài liệu Luận văn bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội lim ở bắc ninh hiện nay

.PDF
119
668
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI ---------------- NGUYỄN THỊ MINH HẰNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI ---------------- NGUYỄN THỊ MINH HẰNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. VĂN THỊ THANH MAI HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trìng nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Văn Thị Thanh Mai, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được đề cập trong luận văn. Các tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình. Hà Nội, tháng 05 năm 2017 Tác giả Nguyễn Thị Minh Hằng LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau Đại học và các phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu tại quý trường. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Triết học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Văn Thị Thanh Mai, Phó Tổng biên tập Tạp chí Tuyên Giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình. Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan tâm giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2017 Tác giả Nguyễn Thị Minh Hằng MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 7 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .......................................................... 7 5. Giả thuyết khoa học ................................................................................... 8 6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 8 7. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8 8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8 9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn .......................... 8 10. Kết cấu của luận văn................................................................................ 9 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN NAY ............................................................................ 10 1.1. Lễ hội trong đời sống của người Việt............................................... 10 1.1.1. Quan niệm về lễ hội, lễ hội cổ truyền ................................................10 1.1.2. Giá trị văn hóa của lễ hội ....................................................................15 1.1.3. Đặc trưng của lễ hội cổ truyền............................................................17 1.2. Nguồn gốc lễ hội Lim.......................................................................... 21 1.2.1. Một số yếu tố có ảnh hưởng đến lễ hội Lim ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh .......................................................................... 21 1.2.2. Lịch sử chùa Lim và sự ra đời của lễ hội Lim ..................................27 1.2.3. Quá trình diễn ra lễ hội Lim................................................................32 Chương 2: THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN NAY ................................................................................62 2.1. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim ............................... 62 2.1.1. Giá trị văn hóa của lễ hội Lim ............................................................62 2.1.2. Quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim hiện nay ........................................................................................69 2.2. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim ........... 79 2.2.1. Kết quả đạt được ................................................................... 75 2.2.2. Hạn chế .................................................................................................88 2.3. Phương hướng, giải pháp và kiến nghị bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim .................................................................. 92 2.3.1. Phương hướng ......................................................................................92 2.3.2. Giải pháp ...............................................................................................93 2.3.3. Kiến nghị ...............................................................................................97 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 100 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 103 MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LỄ HỘI LIM ............................................................ 111 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lễ hội truyền thống xuất hiện từ rất lâu đời trong lịch sử nhân loại, bắt nguồn và phát triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội; từ sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của cộng đồng. Hầu như quốc gia nào, dân tộc nào, vùng miền nào cũng có lễ hội, tuy hình thức và nội dung có thể không giống nhau. Lễ hội truyền thống là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần, chứa đựng những khát vọng, những ước muốn tâm linh vừa linh thiêng, vừa trần tục của cộng đồng dân cư trong những hoàn cảnh cụ thể. Đây là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc, được lưu giữ suốt chiều dài lịch sử của mỗi quốc gia dân tộc. Cha ông ta qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã để lại cho các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau những di sản truyền thống vô cùng quý giá, trong đó có hệ thống lễ hội văn hóa đặc sắc. Lễ hội, một di sản văn hóa quý báu đã đồng hành, tồn tại và tạo nên ký ức văn hóa của dân tộc. Vượt qua thời gian, lễ hội đã lan tỏa và có sức sống lâu bền trong đời sống nhân dân. Những năm qua, khi đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao. Do đó, lễ hội và việc tham gia các lễ hội truyền thống càng trở thành một nhu cầu, một món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân. Nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng, phong phú và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội truyền thống ở các địa phương; trong đó, một mặt, khai thác, phát huy những giá trị đặc sắc của mỗi lễ hội, mặt khác khắc phục được những hạn chế, tiêu cực từ công tác tổ chức và các hoạt động của lễ hội đã trở thành yêu cầu bức thiết. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, năm 2015, cả nước hàng năm có hơn 8.000 lễ hội, trong đó, tại Bắc Ninh có gần 600 lễ hội với quy mô lớn nhỏ 2 khác nhau. Miền đất Kinh Bắc xưa là nơi địa linh nhân kiệt, quê hương của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế, nơi hội tụ của kho tàng văn hóa nghệ thuật đặc sắc với những làn điệu Quan họ trữ tình đằm thắm đã được UNESCO công nhân là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Con người Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hóa Kinh Bắc, mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như; tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, vẽ tranh dân gian... Bắc Ninh cũng là vùng đất có nền văn hóa lâu đời, với nhiều lễ hội truyền thống, đặc sắc nhất là lễ hội Lim - cơ sở, điều kiện để văn hóa Quan họ ra đời và phát triển. Lễ hội Lim đã khơi dậy truyền thống tốt đẹp của quê hương, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa tâm linh và văn hóa tinh thần của đông đảo tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, nên sự độc đáo, ý nghĩa nhân văn của lễ hội Lim; trong đó hát Quan họ, đấu võ, đấu vật đầu cờ... đã có những biến tướng, gây phản cảm với du khách tham gia lễ hội. Hát Quan họ với cảnh ngửa nón xin tiền gây bức xúc, cảnh đấu võ dẫn đến đấu lộn tại lễ hội, các hiện tượng tiêu cực, mê tín dị đoan, thương mại hóa trong lễ hội… là nỗi trăn trở của các cơ quan chức năng, quản lý và cả du khách. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu về lễ hội Lim, thông qua đó góp phần làm sâu sắc hơn giá trị văn hóa của lễ hội Lim, nâng cao chất lượng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội là một việc làm hết sức cần thiết, thiết thực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước. Trên tinh thần đó, tác giả chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Triết học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Từ rất sớm, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu và khảo sát về lễ hội truyền thống nói chung và lễ hội Lim nói riêng, với nhiều góc độ 3 nhìn nhận khác nhau nhằm tìm kiếm, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu lễ hội Trước Cách mạng Tháng Tám, các công trình nghiên cứu về lễ hội ít được chú ý. Một số học giả thời kỳ này đã đề cập đến lễ hội trong các công trình nghiên cứu văn hóa như: “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính; “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh; “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1954, do hoàn cảnh cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nên hầu như lễ hội ít được quan tâm, nghiên cứu, sưu tầm. Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt, các công trình nghiên cứu về lễ hội ở hai miền Nam - Bắc cũng khác nhau. Miền Bắc có các công trình nghiên cứu: “Một số tục cổ và trò chơi Việt Nam trong tết nguyên đán và xuân” của Nguyễn Đổng Chi; "Thời Đại Hùng Vương” của Lê Văn Lan; "Hà Nội nghìn xưa” của Trần Quốc Vượng... Miền Nam có một số công trình nghiên cứu như: "Lễ tế xuân hay Đám rước thần nông” của Nguyễn Bửu Kế; "Nhớ lại hội hè đình đám” của Nguyễn Toại; "Mùa xuân với đời sống tình cảm Việt Nam”, "Trẩy hội hành hương” của Nguyễn Đăng Thục; "Nếp cũ hội hè đình đám quyển thượng” của Toan Ánh. Từ 1975 đến nay đã có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu sâu sắc về lễ hội như “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh; "Lễ hội truyền thống và hiện đại" của Thu Linh - Đặng Văn Lung; “60 lễ hội truyền thống Việt Nam" của Thạch Phương - Lê Trung Vũ; “Lễ hội Việt Nam” của Lê Trung Vũ - Lê Hồng Lý; "Lễ hội cổ truyền" do Lê Trung Vũ chủ biên; "Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại" do Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng chủ biên; “Ý nghĩa xã hội và văn hóa của hội lễ dân gian và văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt” của Đinh Gia Khánh; “Lễ hội cổ truyền của người 4 Việt ở Bắc Bộ” của Lê Trung Vũ… cùng một số công trình khác như: Hội thảo khoa học quốc tế “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại”; Đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa - Thông Tin về “Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp” (Nguyễn Thu Linh - Phan Văn Tú)... Trong đó: Hội thảo quốc tế về Lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội và hiện đại của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), 1993, đã luận bàn về vai trò của lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại. Trong đó, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã cho rằng: Lễ hội không phải là một hiện tượng văn hóa bất biến, mà nó có sự đổi thay qua thời gian. Sự biến đổi và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài hòa của nó đối với không gian và thời gian nhất định. Thừa nhận sự trường tồn của lễ hội cổ truyền, các nhà nghiên cứu cho rằng: Lễ hội là sự luyến tiếc quá khứ, để lui vào huyền thoại, cô lập con người. Lễ hội cũng không phải tồn tại để con người quay ra tìm sự huyền bí với những cảm giác bồng bềnh, ngây ngất, nhằm mục đích thoát ly cuộc sống, mà lễ hội là ký ức, là những giá trị văn hóa tinh thần được lưu truyền, trao truyền cho các thế hệ sau. Bên cạnh đó, GS. Lê Hữu Tầng đã đặt câu hỏi: Lễ hội có thực sự là nhu cầu của đa số người dân hay không? hay đó chỉ là nhu cầu do một số người muốn lợi dụng lễ hội để tiến hành các hoạt động mê tín dị đoan, nhất là kinh doanh lễ hội để kiếm lời khai thác? Những biến đổi kinh tế - xã hội sẽ tác động ra sao đối với nhu cầu hội lễ của người dân và ngược lại?... Từ những ý kiến nêu trên, nhận xét có tính khẳng định của GS. Ngô Đức Thịnh là: Lễ hội có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung và đời sống xã hội đương đại nói riêng. Trong xã hội đương đại, lễ hội truyền thống giữ năm giá trị cơ bản là: Một là, giá trị cộng đồng, trong đó, lễ hội chính là “sự biểu dương sức mạnh của cộng đồng” và là chất kết dính tạo nên “sự cố kết cộng đồng”. Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm “cộng 5 mệnh” và “cộng cảm” của sức mạnh cộng đồng. Hai là, giá trị hướng về nguồn: Lễ hội có nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc cộng đồng. Chính vì vậy, lễ hội thường gắn với hành hương - du lịch. Ba là, giá trị cân bằng đời sống tâm linh: Lễ hội góp phần làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người. Bốn là, giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa: Lễ hội do nhân dân tự tổ chức, làm tái hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, và cũng chính bản thân họ là những người hưởng thụ các sinh hoạt văn hóa đó. Năm là, giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: Lễ hội truyền thống là một bảo tà`ng sống về văn hóa dân tộc, nhờ đó, nền văn hóa ấy được hồi sinh, tái tạo và truyền giao qua các thế hệ. Đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa - Thông tin “Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp” của nhóm nghiên cứu Nguyễn Thu Linh và Phan Văn Tú nhấn mạnh: “Con người các thế hệ đã biết và hiểu về lịch sử - văn hóa dân tộc/địa phương mình qua các trải nghiệm hội hè. Rất nhiều trò chơi, trò diễn dân gian có giá trị tìm lại được môi trường phục sinh và tôn tạo. Hàng loạt các nghề thủ công - mỹ nghệ, ẩm thực truyền thống… được củng cố và phát triển tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập cho không ít lao động, góp phần bảo vệ di sản công nghệ dân gian đang có cơ trở thành hàng hóa có giá trị trong xã hội hiện đại” [57, tr.15 ]. Các ý kiến nêu trên đã khẳng định rằng, lễ hội đang trở thành một sản phẩm của ngành du lịch, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế- văn hóa ở nhiều địa phương nói chung, trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Các công trình trên đã giúp tôi có cái nhìn tổng quan về vị trí, vai trò của lễ hội trong đời sống, nhất là nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Đồng thời những tư liệu này giúp tôi thêm hiểu biết về hệ thống lễ hội truyền thống, giúp chúng tôi kế thừa trong quá trình giải quyết yêu cầu của luận văn. 2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội Lim Trong những năm qua cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, kinh tế xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng 6 cao, nhu cầu tìm về với những giá trị truyền thống ngày càng lớn. Lễ hội Lim - một lễ hội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa dân tộc của người Kinh Bắc - Bắc Ninh thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội Lim như: “Hội xứ Bắc” của Sở Văn hóa thông tin Hà Bắc; “Địa chí Hà Bắc” của Trần Linh Quý; “Hội hè đình đám” của Toan Ánh; “Bắc Ninh thổ tạp kỹ” của Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội Hà Nội; “Một số vấn đề về dân ca Quan họ” của Lê Thị Nhâm Tuyết; “Từ những lề lối của hát Quan họ” của Mã Giang Lân; “Quan họ, nguồn gốc và quá trình phát triển” của Trần Linh Quý, Đặng Văn Lung, Hồng Thao; “60 lễ hội truyền thống của người Việt Nam” của Thạch Phương, Lê Trung Vũ; “Hội Lim truyền thống và hiện đại” (Sở văn hóa thông tin Tỉnh Bắc Ninh); “Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh” của Lê Viết Nga; “Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa tỉnh Bắc Ninh gắn với hoạt động du lịch” của Sở Văn hóa thể thao Bắc Ninh; “Góp phần tìm hiểu lễ hội ở Hà Bắc” của Trần Đình Luyện; “Những yếu tố cơ bản để xây dựng lễ hội ở Hà Bắc” của Lê Hồng Lý... Trong cuốn sách Hội xứ Bắc, Sở Văn hóa thông tin Hà Bắc, tập 2, 1989, tác giả Khổng Đức Thiêm với phần trình bày: Hội Lim, hồn nước gọi ta về, đã nêu rõ về nguồn gốc, diễn biến của hội Lim khá chi tiết. Cuốn sách 60 lễ hội truyền thống của người Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội của các tác giả Thạch Phương, Lê Trung Vũ xuất bản năm 1995, có dành một phần trong sách để nói về lễ hội Lim, với những làn điệu dân ca Quan họ từ hát trong nhà, hát ngoài đồi, đến hát trên thuyền, thi cỗ chay, thi dệt vải, đấu vật,... Cuốn sách Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh của tác giả Lê Viết Nga, Nxb Bảo tàng Bắc Ninh, 2005, đã liệt kê các di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; trong đó có dành một chương trình bày về lễ hội Lim với những nét tiêu biểu, độc đáo. 7 Ngày 2-11-2004, Sở văn hóa thông tin tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội thảo khoa học: Hội Lim truyền thống và hiện đại. Với 21 tham luận trên tổng số 29 tham luận của các nhà khoa học gửi đến, đây là lần đầu tiên, hội Lim được xem xét về nhiều mặt góp phần làm sâu sắc hơn những giá trị tinh thần của hội Lim trong đời sống người dân Việt Nam nói chung và người dân Bắc Ninh nói riêng. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết nghiên cứu về lễ hội Lim đăng trên báo Nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Văn học, Văn hóa - Nghệ thuật,.... Các trang báo điện tử như: tiendu.bacninh.gov.vn, nhandan.com.vn, daidoanket.vn, quanhobacninh.vn, dantri.com, lehoithegioi.com,... như: “Lễ hội Lim”, “Nguồn gốc và ý nghĩa ngày hội Lim 13.1 âm lịch”, “Ghé về Bắc Ninh tham gia lễ hội Lim đặc sắc”, “Lễ hội Việt Nam: Lễ hội Lim”... cũng đã đề cập và tìm hiểu khá toàn diện, làm sáng tỏ những vấn đề về lễ hội Lim. Những công trình nghiên cứu, tài liệu trên là nguồn tài liệu tham khảo quý báu giúp tác giả tìm hiểu và kế thừa những kết quả nghiên cứu của những người đi trước trong quá trình triển khai luận văn. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay”. Vì vậy, đề tài của luận văn là mới và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu và luận văn, luận án đã công bố. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh, đề ra phương hướng, giải pháp và kiến nghị, góp phần nâng cao chất lượng bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Những giá trị văn hóa của lễ hội Lim - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay 8 5. Giả thuyết khoa học Nếu phân tích, làm rõ được những thực trạng của lễ hội Lim, thì từ đó sẽ đề ra được những biện pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải thực hiện được các nhiệm vụ sau: - Làm rõ nguồn gốc của lễ hội Lim, thực trạng cách thức tổ chức lễ hội Lim xưa và nay. - Nghiên cứu những giá trị văn hóa của lễ hội Lim. - Đề ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Lim. 7. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Phần lễ, phần hội trong lễ hội Lim ở tỉnh Bắc Ninh. - Thời gian: Lễ hội Lim ngày xưa và hiện nay. 8. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên lập trường thế giới quan của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa nói chung, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống nói riêng, luận văn sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật và lịch sử để luận giải các vấn đề có liên quan. Đồng thời luận văn kết hợp phương pháp logic và lịch sử, phương pháp liên ngành và chuyên ngành, tổng hợp và phân tích... để giải quyết yêu cầu của đề tài. 9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn Những luận điểm cơ bản - Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Lim. 9 - Những giá trị văn hóa của lễ hội Lim. - Thực trạng, giải pháp, kiến nghị về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn nghiên cứu có hệ thống về lễ hội Lim, cung cấp cho người đọc một hệ thống tư liệu phong phú, những giá trị văn hóa đích thực của lễ hội Lim trong đời sống của người Việt. - Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim, luận văn sẽ đề ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị, góp phần nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, quản lý lễ hội cổ truyền nói chung, lễ hội Lim nói riêng. 10. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm có 2 chương, 5 tiết. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN NAY 1.1. Lễ hội trong đời sống của người Việt 1.1.1. Quan niệm về lễ hội, lễ hội cổ truyền  Lễ hội Việt Nam là đất nước có nền văn hóa lâu đời, nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống trên một lãnh thổ thống nhất, cùng đóng góp phong tục tập quán mang bản sắc riêng của mỗi vùng miền, dân tộc, tôn giáo...; góp phần làm lên một nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc. Trong đó, lễ hội là yếu tố vừa mang nét đặc trưng cho mỗi dân tộc, vừa làm cho văn hóa của dân tộc Việt ngày càng phong phú và đặc sắc hơn. Cho đến hiện nay, khái niệm lễ hội vẫn còn nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau trong giới nghiên cứu. Thực tế đã xuất hiện một số ý kiến hoặc nói về chung lễ hội, hoặc nói riêng về từng phần lễ hay hội trong cấu trúc lễ hội. Các ý kiến đó dựa trên thực tế có những sinh hoạt văn hóa dân gian có lễ mà không có hội hoặc ngược lại. Lễ hội theo học giả Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương thì gọi là đại hội (vào đám hay vào hội) [1, tr.255]. Về sau, nhiều học giả đã thay thuật ngữ này bằng các thuật ngữ tương đương. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu qua tên sách, tên bài viết đã có nhiều cách gọi khác nhau. Toan Ánh trong cuốn sách “Nếp cũ hội hè đình đám” quan niệm: hội hè đình đám là những cuộc tổ chức hội họp tại các thôn xã nhân dịp vào đám và trong dịp đám này có nhiều trò mua vui cho dân thôn giải trí [2, tr.9]. Quan niệm trên đã nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của các hoạt động vui chơi, sinh hoạt tập thể có ý nghĩa giải trí, các yếu tố thuộc về nghi thức mang tính tâm linh tín ngưỡng thì chưa được đề cập sâu. 11 Theo Bùi Thiết, “Lễ là các hoạt động đạt tới trình độ nghi lễ, hội là các hoạt nghi lễ đạt trình độ cao hơn, trong đó có các hoạt động văn hóa truyền thống” [91, tr.125]. Khác với Bùi Thiết, Thu Linh cho rằng: “Lễ (cuộc lễ) phản ánh những sự kiện đặc biệt, về mặt hình thức lệ trong các dịp này trở thành hệ thống những nghi thức có tính chất phổ biến được quy định một cách nghiêm ngặt nhiều khi đạt đến trình độ một “cải diễn hóa” cùng với không khí trang nghiêm đóng vai trò chủ đạo. Đây chính là điểm giao thoa giữa lễ với hội, và có lẽ cũng vì vậy người ta thường nhập hai từ lễ hội” [52, tr. 27]. Theo Nguyễn Quang Lê, thì bất kỳ một lễ hội nào cũng bao gồm hai hệ thống đan quện và giao thoa với nhau: 1) Hệ thống lễ: Bao gồm các nghi lễ của tín ngưỡng dân gian và tôn giáo cùng với các lễ vật được sử dụng làm đồ lễ mang tính linh thiêng, được chuẩn bị rất chu đáo và nghiêm túc. Thông qua các nghi lễ này con người được giao cảm với thế giới siêu nhiên là các thần thánh (các nhiên thần và nhân thần), do chính con người tưởng tượng ra và họ cầu mong các thần thánh bảo trợ và có tác động tốt đẹp đến tương lai cuộc sống tốt đẹp của mình. 2) Hệ thống hội: Bao gồm các trò vui, trò diễn và các kiểu diễn xướng dân gian, cụ thể là các trò vui chơi giải trí, các đám rước và ca múa dân gian...- chúng đều mang tính vui nhộn, hài hước, song đôi khi chưa thể tách ra khỏi việc thờ cúng [49, tr.5-9]. Bên cạnh đó, theo Phạm Quang Nghị: “Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng, có tính phổ biến trong cộng đồng xã hội, có sức lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Là sản phẩm sáng tạo của các thế hệ tiền nhân để lại cho hôm nay, lễ hội chứa đựng những mong ước thiết tha vừa thánh thiện, vừa đời thường, vừa thiêng liêng, vừa thế tục của bao thế hệ con người”[66, tr. 96]. Giáo sư Đinh Gia Khánh quan niệm: “Đặc điểm cơ bản của văn hóa dân gian (trong đó có lễ hội) là tính nguyên hợp... tức nói rằng quan hệ nghệ thuật ấy 12 người ta nhận thức hiện thực như một tổng thể chưa bị chia cắt” [42, tr.12]. Tác giả Trần Bình Minh cho rằng: “Lễ và hội hòa quện, xoắn xít với nhau để cùng nhau biểu thị một giá trị nào đó của một cộng đồng. Trong lễ cũng có hội và trong hội cũng có lễ” [69, tr. 120]. Còn nghiên cứu về “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch”, Dương Văn Sáu cho rằng: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một số sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên thần thánh và con người với xã hội” [81, tr. 35]. Nguyễn Tri Nguyên khẳng định: “Lễ hội là sự thể hiện, là sự phát lộ của ký ức văn hóa dân tộc. Giống như gien di truyền, ký ức văn hóa chứa đựng hàm lượng thông tin các giá trị văn hóa của quá khứ qua các truyền thống văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc và sự đa dạng văn hóa, cũng thiết yếu đối với sự sống con người tựa như sự đa dạng sinh học trong thế giới tự nhiên” [68, tr. 54 - 56]… Như vậy, dù có khác nhau về cách diễn đạt, song các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau hai thành tố cấu trúc nên lễ hội (phần lễ tức là nghi lễ, là mặt thứ nhất: tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng, linh thiêng; phần hội tức là hội hè, là mặt thứ hai: vật chất, văn hóa nghệ thuật, đời thường). Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thức như sau: Lễ: Là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội: Là tập hợp các trò diễn có tính nghi thức, các cuộc vui chơi, giải trí tại một thời điểm nhất định, thường trong khuôn viên các công trình tôn giáo hay ở sát chúng, có đông người tham gia. Là đời sống văn hóa hàng ngày 13 và một phần đời sống của cá nhân và cả cộng đồng, nhân kỷ niệm một sự kiện quan trọng đối với một cộng đồng xã hội. Lễ hội là sản phẩm của xã hội quá khứ, được truyền lại tới ngày nay và nó được người dân, cộng đồng tiếp nhận và thực hành trong đời sống sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. Lễ và hội luôn gắn kết chặt chẽ với nhau, không có lễ thì sẽ không có hội. Lễ hội thuộc phạm trù thiêng liêng của thế giới linh thiêng. Ngôn ngữ lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, vượt lên trên đời sống hiện hữu thường nhật. Vì vậy, phần hội luôn gắn với phần lễ, là bộ phận sinh thái của phần lễ, nó gắn với cái thiêng liêng, với các vị thần, nhân vật mà con người thờ phụng. Các sinh hoạt vui chơi, giải trí, trò diễn trong lễ hội mang tính nghi lễ phong tục chứ không phải là trò chơi, trò diễn thuần túy trần tục (mà trò diễn ở đây đã được thiêng liêng hóa).  Lễ hội cổ truyền Lễ hội cổ truyền là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp, vừa độc đáo, vừa phong phú đa dạng của dân tộc Việt Nam, vốn có nguồn gốc phát sinh và phát triển từ rất lâu đời trong lòng lịch sử văn hóa nước nhà. Có thể coi lễ hội cổ truyền là hình ảnh thu nhỏ của nền văn hóa dân gian cổ truyền dân tộc. Bởi lẽ, trong lễ hội cổ truyền bao hàm hầu như đầy đủ các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, như: Về văn học dân gian: có truyền thuyết, thần thoại, thần tích, thần phả, văn tế, văn bia, hoành phi câu đối, ca dao, hò vè ... Về nghệ thuật biểu diễn dân gian: có diễn xướng, sân khấu dân gian, các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc... Về tôn giáo: có phong tục và tín ngưỡng dân gian gồm các nghi lễ, nghi thức, trò chơi, trò diễn, trò chơi dân gian, tục lệ, đối tượng thờ cúng, đức tin và kỵ hèm dân gian... Do vậy, lễ hội cổ truyền không chỉ là một hiện tượng văn hóa dân gian, mà còn là một hiện tượng lịch sử xã hội. Nó phản ánh khá trung thực và rõ nét cốt cách, bản lĩnh 14 và bản sắc dân tộc, cùng với tâm linh, nguyện vọng của nhân dân trong suốt thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt. Lễ hội cổ truyền ra đời, được bảo tồn và phát huy trong lòng lịch sử văn hóa dân tộc, phản ánh khá đầy đủ và rất sinh động đời sống văn hóa - xã hội đã trải qua. Nhiều yếu tố văn hóa tinh thần được lễ hội cổ truyền bảo lưu và truyền tụng từ đời này sang đời khác, thực sự trở thành di sản văn hóa truyền thống vô giá. Đó chính là kho tàng các giá trị thuộc về tinh hoa văn hóa, phản ánh rõ nét bản lĩnh và bản sắc dân tộc Việt Nam. Khái niệm cổ truyền được Từ điển tiếng Việt cắt nghĩa như sau: “Cổ: Thuộc về thời xa xưa trong lịch sử”; “Truyền: Để lại cái mình đang nắm giữ cho người khác, thường thuộc thế hệ sau”; “Cổ truyền: Từ xưa truyền lại, vốn có từ xưa” [112, tr. 203, 204, 1053]. Trong cuốn sách “Lễ hội cổ truyền”, Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ hội cổ truyền là một pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục, tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật cả các sự kiện xã hội - lịch sử quan trọng của dân tộc” và lễ hội “còn là bảo tàng sống về các mặt sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt. Chúng đã sống, đang sống và với đặc trưng của mình, chúng tạo nên sức cuốn hút và thuyết phục mạnh mẽ nhất”; “Hội lễ là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử, trong quá khứ, dồn nén lại cho đương thời” [111, tr. 24]. GS. Lê Trung Vũ và Nguyễn Hồng Dương khái quát: “Hội làng - Lễ hội truyền thống, là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng đồng làng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống; sự tồn tại và phát triển cho cả làng, sự bình yên cho từng cá nhân, niềm hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ; sự sinh sôi của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà bao đời đã quy tụ niềm mơ ước chung vào 4 chữ “Nhân khang vật thịnh”, hay “Quốc thái dân an”. Theo đó: “Lễ hội truyền thống, còn gọi là lễ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng