Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Luận văn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ...

Tài liệu Luận văn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn thành phố cần thơ

.PDF
70
1
67

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ CẦN THƠ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH MÃ SỐ: 8380102 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐỖ MINH KHÔI HỌC VIÊN: THÁI MỸ NHUNG (Cần Thơ khóa 3) THÀNH PHỐ CẦN THƠ, NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tác giả luận văn “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – từ thực tiễn thành phố Cần Thơ” xin cam đoan: - Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả. - Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đỗ Minh Khôi. - Những thông tin, số liệu, bản án được trích dẫn trong luận văn đầy đủ, trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. - Tác giả chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung luận văn. Cần Thơ, ngày 29 tháng 11 năm 2021 Học viên Thái Mỹ Nhung LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng dạy trong chương trình Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính - Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi thực hiện tốt luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đỗ Minh Khôi đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của quý Thầy/Cô và các bạn học viên. MỤC LỤC Phần mở đầu....................................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..................................................................................................... 4 4. Đối tƣợng nghiên cứu............................................................................................................... 4 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu ................................ 5 5.1 Giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 5 5.2 Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................................. 5 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ................................................................... 6 Bố cục luận văn: ......................................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: THẨM QUYỀN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ................................................................................................ 7 1.1 Quy định pháp luật về thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ...................................................................................................................... 7 1.1.1 Thẩm quyền của cơ quan công an .................................................................................. 7 1.1.2 Thẩm quyền của Phòng tư pháp cấp huyện ................................................................... 7 1.1.3 Thẩm quyền của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội ........................................ 8 1.1.4 Thẩm quyền của Tòa án .................................................................................................. 8 1.2 Thực tiễn xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án tại thành phố Cần Thơ................................................................. 9 1.2.1 Thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................................................. 9 1.2.2 Xác định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................................................................................. 11 1.2.3 Tòa án thực hiện thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ .......................................................... 13 1.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong việc xác định thẩm quyền đƣa ngƣời nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................ 14 1.3.1 Về xác định thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng ..................................................... 14 1.3.2 Về xác định biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp tư pháp ....... 14 1.4 Kiến nghị và giải pháp cho hoạt động áp dụng biện pháp đƣa ngƣời nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ ................................................................... 16 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................................ 18 CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG BỊ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ CỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ............................................................................................. 19 2.1 Quy định pháp luật về những đối tƣợng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................................................................................... 19 2.1.1 Đối với người nghiện ma túy chưa được điều trị hoặc cai nghiện .............................. 19 2.1.2 Đối với người nghiện ma túy đang được điều trị hoặc cai nghiện tự nguyện ............. 22 2.1.3 Đối với người nghiện ma túy đồng thời còn có hành vi vi phạm pháp luật ................ 23 2.2 Thực trạng xác định đối tƣợng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Thành phố Cần Thơ ................................................................................. 25 2.2.1 Về xác định tình trạng nghiện ma túy của đối tượng ................................................... 25 2.2.2 Về xác định nơi cư trú của đối tượng nghiện ma túy ................................................... 28 2.2.3 Về xác định đối tượng nghiện ma túy nhưng lại có hành vi phạm tội ........................ 31 2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong xác định đối tƣợng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .............................. 33 2.3.1 Kiến nghị về vấn đề xác định tình trạng nghiện ma túy của đối tượng ....................... 33 2.3.2 Kiến nghị về việc bổ sung đối tượng bị áp dụng là người đã từng cai nghiện ma túy 34 2.3.3 Kiến nghị về việc giải thích pháp luật ........................................................................... 35 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................................ 36 CHƢƠNG 3: THỦ TỤC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ CỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ........................................................................................................... 37 3.1 Quy định của pháp luật về thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc .................................................................................................................... 37 3.1.1 Giai đoạn lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ....................................................................................................................... 37 3.1.2 Giai đoạn ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ....................................................................................................................... 39 3.1.3 Xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ....................................................................................................................... 41 3.1.4 Xem xét, quyết định giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn lại ................ 42 3.2 Thực tiễn của thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................................................................. 43 3.2.1 Kết quả của thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc.......................................................................................................................................... 43 3.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế trong thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc ......................................................................................... 47 Qui định về đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng .......................... 48 Qui định về thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.................................................................................................................................... 48 Qui định về thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.................................................................................................................................... 49 Quy định về việc hoãn, miễn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................................................................................. 50 Về điều kiện để hủy bỏ quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................................................................. 50 3.3 Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc ................................... 52 3.3.1 Kiến nghị về việc giải thích pháp luật ........................................................................... 52 3.3.2 Kiến nghị về việc hoàn thiện qui định pháp luật .......................................................... 53 3.3.3 Giải pháp về thực hiện pháp luật .................................................................................. 54 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................................................ 56 Kết luận ............................................................................................................................................ 57 1 Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Ma túy được coi là mối nguy hiểm tiềm ẩn, là hiểm họa của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ma túy là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các tệ nạn trong xã hội, là nguồn cơn phát sinh tội phạm và là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nguy cơ gây lây nhiễm đại dịch HIV/AIDS. Tác hại của ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và trật tự, an ninh, an toàn của đất nước. Trong hơn một thập kỷ vừa qua, với đường lối lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, sự quyết liệt, năng động, sáng tạo trong công tác điều hành của Chính phủ, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta từng bước được nâng cao đưa nền kinh tế của nước ta hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Từ đó, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì nền kinh tế thị trường và sự hội nhập nhanh chóng với thế giới cũng đã khiến Việt Nam đối mặt với những nguy cơ mới, trong đó phải kể đến những nguy cơ phát sinh từ ma túy. Việt Nam là quốc gia nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á, tiếp giáp với các “thị trường ma túy sôi động” của thế giới như Cambodia, Hồng Kông (Trung Quốc), khu vực “tam giác vàng” (khu vực biên giới hẻo lánh giữa ba nước Lào, Thái Lan và Myanmar được biết đến là điểm sản xuất và trung chuyển ma túy lớn hàng đầu thế giới). Chính vì vậy, những năm gần đây, Việt Nam nổi lên như là một điểm trung chuyển ma túy lớn và là thị trường tiêu thụ tiềm năng của ma túy. Hàng loạt các vụ án vận chuyển ma túy với số lượng lớn liên tục được phát hiện và triệt phá với số lượng ma túy bị thu giữ lớn chưa tùng có trong lịch sử, tiêu biểu như vụ triệt phá đường dây vận chuyển ma túy xuyên biên giới của Công an TP. Hồ Chí Minh vào tháng 3/2019, bắt giữ đối tượng mang quốc tịch Đài Loan, tên Chen Tsen Wei (sinh năm 1986), thu giữ 895 bánh heroin1 hay vụ thu giữ gần 2.000 kg ma túy của Công ty Ngọc Vân do các đối tượng người Đài Loan và Việt Nam tàng trữ để tiêu thụ tại Việt Nam được công an TP. Hồ Chí Minh triệt phá tháng 04/2019; .... Đây chỉ là hai trong số rất nhiều đại án ma túy mà cơ quan chức năng đã phát hiện, qua đó cho thấy tình hình vận chuyển và buôn bán trái phép chất ma túy tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng và nghiêm trọng. Bên cạnh đó, tình hình người sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy tại Việt Nam cũng có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Về số người sử dụng trái phép chất ma túy thì theo thống kê của Bộ Công an, giai đoạn 2009 – 2018, cả nước có 365.293 người sử dụng trái phép chất ma túy. Về số người nghiện ma túy thì theo thống kê của Bộ Công an năm 2009, số lượng người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý cả nước là 146.731 người, năm 2018 con số này đã tăng lên là 225.099 người, tăng 78.368 người so với năm 2009. Tình hình người sử dụng trái phép chất 1 http://congan.com.vn/vu-an/nhung-vu-ma-tuy-lon-nhat-nam-2019_85636.html 2 ma túy, người nghiện ma túy vi phạm pháp luật cũng diễn biến phức tạp. Thống kê cho thấy giai đoạn 2009 – 2018 cả nước có tới hơn 50.000 người sử dụng trái phép chất ma túy vi phạm pháp luật và phạm tội. Và đặc biệt hơn kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có hiệu lực không còn quy định hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm thì tình hình sử dụng trái phép chất ma túy và nghiện ma túy càng diễn biến phức tạp hơn. Trong thời gian qua, tình hình người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy gây mất an ninh, trật tự ở nhiều nơi với nhiều vụ án, gây hoang mang trong dư luận, thậm chí có những vụ giết người mà kẻ thủ ác chính là người thân của nạn nhân. Do đó, công tác quản lý đối với người sử dụng trái phép chất ma túy và công tác cai nghiện đối với người nghiện ma túy là rất cần thiết. Trong đó, Tòa án nhân dân đóng vai trò quan trọng khi là chủ thể được Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 trao thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, từ khi Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2014) cho đến ngày 31/12/2018, các Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý gần 70.000 trường hợp đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, việc triển khai Luật Phòng, chống ma túy của Tòa án còn gặp không ít khó khăn do một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn, chưa thống nhất với các luật khác có liên quan như: thời gian cai nghiện bắt buộc, đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thủ tục áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,... Ngoài ra, thực tiễn triển khai công tác này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trên thực tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính này trong công tác phòng, chống ma túy. Cùng với sự phát triển chung của đất nước, tình hình kinh tế - xã hội của TP. Cần Thơ không ngừng được cải thiện và nâng cao. Với lợi thế về điều kiện địa lý, cơ sở hạ tầng vì vậy thu hút các nhà đầu tư đến đầu tư tại Cần Thơ. Ngoài việc hưởng lợi từ dự án thì việc thu hút người lao động từ các tỉnh và các vùng lân cận đến làm ăn, sinh sống hàng năm tăng cao, nên tình hình an ninh trật tự được đánh giá là tương đối phức tạp. Mặt khác, do ảnh hưởng từ mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều tác động đến lối sống của một bộ phận lớp trẻ trong đó phần lớn là lực lượng trong độ tuổi lao động như lối sống tiêu cực, thực dụng, lười lao động … dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội trong đó có tệ nạn nghiện ma túy. Từ khi Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 có hiệu lực cho đến nay, các tòa án nhân dân tại TP. Cần Thơ đã chú trọng công tác áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bước đầu cũng có những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, sau thời gian áp dụng thì cũng xuất hiện nhiều bất cập, vướng mắc. Do đó tác giả chọn đề tài “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn thành phố Cần Thơ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình, bên cạnh việc hoàn thành khóa học còn mong muốn thông qua đề tài này, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng 3 biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án không chỉ trong phạm vi thành phố Cần Thơ mà còn của cả nước. Thông qua đó, phòng, chống tác hại của ma túy, nghiện ma túy đến sự phát triển của thành phố Cần Thơ nói riêng và xa hơn là sự phát triển chung của đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được áp dụng từ khi Luật phòng, chống ma túy năm 2000 có hiệu lực. Như vậy, đến nay biện pháp xử lý hành chính này đã được quy định và triển khai áp dụng trên thực tế được hơn 20 năm. Do đó, đây có thể được xem là một trong những biện pháp xử lý hành chính không phải là mới. Trước đây, Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2014, khi mà Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 có hiệu lực thi hành, thẩm quyền này đã được trao cho Tòa án nhân dân. Mặc dù là một biện pháp xử lý hành chính được áp dụng trong hơn 20 năm qua nhưng số lượng các công trình nghiên cứu về biện pháp này vẫn còn tương đối hạn chế. Các giáo trình, sách bình luận Luật Xử lý vi phạm hành chính: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy có các giáo trình, sách bình luận Luật Xử lý vi phạm hành chính liên quan đến biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đơn cử như Giáo trình “Luật hành chính Việt Nam” của trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2016 bởi NXB. Hồng Đức Hội Luật gia Việt Nam; sách “Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012”, do tác giả Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên và do NXB. Hồng Đức xuất bản năm 2017,... Nhìn chung, các tác giả chưa có sự phân tích, đánh giá chuyên sâu cũng như rút ra các vấn đề pháp lý còn bất cập, vướng mắc liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính của Tòa án. Các bài báo khoa học: Bài viết “Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” của thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Phương đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 06/7/2020: Bài viết tập trung trình bày các quy định của pháp luật về đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Từ đó, tác giả đi vào phân tích những bất cập của pháp luật cũng như đề xuất những biện pháp khắc phục những hạn chế của pháp luật. Tuy nhiên, bài viết này chỉ dừng lại ở mức độ khái quát hóa những bất cập pháp luật có liên quan đến việc xác định đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chứ chưa tiến hành phân tích cụ thể và sâu sắc các vấn đề có liên quan. Bài viết “Quyền của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: thực trạng và kiến nghị” của tác giả Ninh Viết Tùng và Bùi Tiến Đạt, đăng tải trên tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 19/3/2020. Nội dung bài viết xoay quanh các vấn đề về quyền con người và bảo vệ quyền con người khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong đó, tác giả 4 đánh giá sơ lược việc bảo vệ quyền con người đối với thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bài viết “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lê Anh Sơn, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân năm 2017. Nội dung bài viết này, tác giả tập trung phân tích những bất cập của pháp luật về đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng như hồ sơ xác định nơi cư trú và tình trạng xác định nơi cư trú của người nghiện. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị để khắc phục những bất cập kể trên. Bên cạnh đó, còn có những bài viết về chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến vướng mắc trong công tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nội dung các bài viết này chủ yếu nêu lên vướng mắc, khó khăn trong công tác kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các trao đổi nghiệp vụ chứ không tiến hành phân tích, đánh giá chuyên môn. Nhìn chung, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về những bất cập, vướng mắc của công tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc xuất phát từ công tác áp dụng thực tiễn, cụ thể tại một địa phương. Từ đó, có thể thấy, luận văn của tác giả có thể được xem là một trong những công trình nghiên cứu có tính mới, chuyên sâu và cụ thể về công tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án tại một địa phương cụ thể là thành phố Cần Thơ. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Khi tiến hành nghiên cứu đề tài“Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn thành phố Cần Thơ”, tác giả hướng đến hai mục đích nghiên cứu cụ thể như sau: Thứ nhất, nắm rõ và vận dụng những nền tảng lý luận liên quan đến biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để chỉ ra những bất cập của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến việc xác định thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cần Thơ. Thứ hai, trên cơ sở những bất cập, tồn tại kể trên, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả công tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án tại thành phố Cần Thơ. 4. Đối tƣợng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án từ thực tiễn thành phố Cần Thơ. Đây được xác định là đối tượng nghiên cứu bao hàm nội dung của luận văn. Đối với đối tượng nghiên cứu bao hàm này, tác giả sẽ chỉ tiến hành nghiên cứu 5 ba vấn đề pháp lý cụ thể liên quan, gồm có (i) thẩm quyền áp dụng; (ii) đối tượng bị áp dụng và (iii) thủ tục áp dụng. 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1 Giới hạn phạm vi nghiên cứu Thứ nhất, về phạm vi khoa học: Luận văn này được thực hiện với phạm vi thuộc lĩnh vực Luật Hiến pháp và Luật hành chính. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn này chủ yếu vẫn tập trung trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và tổ chức Tòa án. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện Luận văn này, tác giả cũng kết hợp phân tích các quy định của pháp luật có liên quan về hiến pháp, hình sự, dân sự,... để làm sáng tỏ vấn đề đang nghiên cứu. Thứ hai, về nội dung: Luận văn này tập trung nghiên cứu những bất cập, vướng mắc của pháp luật đối với ba vấn đề pháp lý liên quan đến áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, bao gồm: (i) thẩm quyền áp dụng; (ii) đối tượng bị áp dụng và (iii) thủ tục áp dụng. Trên cơ sở đó, tác giả nêu ra thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án tại thành phố Cần Thơ và kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả công tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án tại thành phố Cần Thơ. Thứ ba, về không gian: Luận văn này chủ yếu phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án tại thành phố Cần Thơ. Thứ tư, về thời gian: Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được quy định từ Luật phòng chống ma túy năm 2000 và Uỷ ban nhân dân cấp huyện là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Từ khi Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được chuyển giao từ Uỷ ban nhân dân cấp huyện sang Tòa án nhân dân. Xuất phát từ sự thay đổi đó, trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực trạng công tác thực thi biện pháp này kể từ khi Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực. 5.2 Phương pháp nghiên cứu. Về phương pháp luận: Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, tác giả vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận. Về các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong luận văn, tác giả sử dụng riêng lẻ và kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được tác giả dùng để tổng hợp, khái quát những nguyên tắc, nền tảng lý luận của biện pháp đưa vào cơ sở 6 cai nghiện bắt buộc. Trên cơ sở đó, tác giả sẽ đi sâu vào phân tích, đánh giá đối với ba vấn đề pháp lý còn bất cập của pháp luật liên quan đến biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, gồm có: (i) thẩm quyền áp dụng; (ii) đối tượng bị áp dụng và (iii) thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, tác giả còn vận dùng phương pháp phân tích - tổng hợp để đánh giá, tổng hợp những vấn đề đã nghiên cứu trong phạm vi từng chương và toàn bộ luận văn. Phương pháp thống kê: Phương pháp này được tác giả sử dụng để tổng hợp các quy định pháp luật có liên quan đến việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, phương pháp này cũng được tác giả vận dụng để trình bày, đánh giá, phân tích và xử lý các số liệu, dữ liệu, báo cáo thống kê, vụ việc thực tế liên quan đến thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án nhân dân nhân dân hai cấp thành phố Cần Thơ. Phương pháp so sánh: Phương pháp này được tác giả chủ yếu sử dụng để làm sáng tỏ các điểm khác nhau trong quy định liên quan đến áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật Phòng, chống ma túy năm sửa đổi, bổ sung năm 2008, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Dự thảo Luật phòng, chống ma túy năm 2020. Ngoài ra, phương pháp này cũng được sử dụng để chỉ ra những điểm khác biệt trong trình tự, cách thức áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giữa các tòa án tại thành phố Cần Thơ. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Qua đề tài nghiên cứu của mình tác giả mong muốn đề tài sẽ có giá trị ứng dụng như sau: Thông qua kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đánh giá một cách trung thực, khách quan, toàn diện về áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp thiết thực để việc áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ đạt hiệu quả hơn. Ngoài ra, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, cán bộ nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Bố cục luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì phần nội dung của đề tài nghiên cứu: “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn thành phố Cần Thơ” được kết cấu gồm 03 chương: Chương 1: Thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chương 2: Đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc. Chương 3: Thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc. 7 CHƢƠNG 1: THẨM QUYỀN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC 1.1 Quy định pháp luật về thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 1.1.1 Thẩm quyền của cơ quan công an Theo quy định tại Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập tài liệu để lập hồ sơ. Nhưng Điều 8 và Điều 11 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thì cơ quan công an cấp xã có thẩm quyền lập biên bản, xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và thông báo về việc lập hồ sơ cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Cụ thể: Thứ nhất, về thẩm quyền của Công an cấp xã, Công an cấp xã nơi có hành vi sử dụng chất ma túy trái phép lập biên bản về hành vi vi phạm khi phát hiện người có hành vi vi phạm hoặc khi nhận được tin báo về hành vi vi phạm từ cá nhân, tổ chức; Xác minh, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp không xác định được nơi cư trú ổn định của người có hành vi vi phạm. Công an cấp xã cũng có thẩm quyền tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sau khi lập biên bản hoặc sau khi nhận được bàn giao từ Công an cấp xã nơi có hành vi vi phạm. Thứ hai, thẩm quyền của Công an cấp huyện hoặc Công an cấp tỉnh. Công an cấp tỉnh có thẩm quyền lập biên bản, xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi trong quá trình điều tra, thụ lý các vụ vi phạm pháp luật phát hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép hoặc dấu hiệu nghiện ma túy của người vi phạm. Cơ quan công an cấp nào có thẩm quyền lập hồ sơ thì thông báo về việc lập hồ sơ cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ. 1.1.2 Thẩm quyền của Phòng tư pháp cấp huyện Theo quy định tại khoản 3 Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, khoản 2 Điều 8, Điều 12 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, Phòng tư pháp cấp huyện nơi Cơ quan công an lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Phòng tư pháp nơi người có hành vi vi phạm cư trú đối với trường hợp cơ quan công an cấp huyện hoặc cơ quan công an cấp tỉnh lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà xác định được nơi cư trú của người 8 vi phạm sẽ tiếp nhận hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trưởng phòng tư pháp cấp huyện có thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đảm bảo phù hợp, đầy đủ theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính. 1.1.3 Thẩm quyền của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội Theo quy định tại khoản 3 Điều 103, khoản 1 Điều 104 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; khoản 2 Điều 12, Điều 13 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tiếp nhận hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ Phòng tư pháp cấp huyện cùng cấp. Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội kiểm tra hồ sơ và quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc yêu cầu cơ quan lập hồ sơ bổ sung hồ sơ nếu hồ sơ chưa đầy đủ. Có trách nhiệm làm rõ một số nội dung trong hồ sơ khi Tòa án có văn bản đề nghị. 1.1.4 Thẩm quyền của Tòa án Theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Điều 13 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, Điều 3 Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH ngày 20/01/2014 của UB thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án, Tòa án nhân dân cấp huyện nơi Phòng Lao động – Thương binh xã hội chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thẩm quyền quyết định việc áp dụng. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị. Việc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH ngày 20/01/2014. Như vậy, trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Tòa án có thẩm quyền quyết định cuối cùng trên cơ sở đề nghị của các cơ quan khác có liên quan. Trước thời điểm Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 có hiệu lực, theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 26 Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7 năm 2002 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền quyết định cuối cùng về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc đối với đối tượng nghiện ma túy (hiện nay đổi tên là biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) là của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Sự thay đổi thẩm quyền này đã chuyển biến cơ bản thủ tục áp dụng đối với các đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 9 Theo đó, từ việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính thông qua quyết định mang tính thủ tục hành chính do UBND huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quyết định thì hiện nay được chuyển sang thủ tục thụ lý, xem xét và phán quyết của một cơ quan tư pháp là Tòa án nhân dân2. Nguyên nhân của sự thay đổi thẩm quyền này xuất phát từ việc biện pháp cưỡng chế cai nghiện bắt buộc mặc dù là biện pháp xử lý hành chính, nhưng lại ảnh hưởng đến các quyền tự do của công dân, tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền con người. Do đó, vấn đề đảm bảo nhân quyền của người nghiện ma túy phải được xem xét toàn diện từ trình tự thủ tục ban hành Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đến quá trình cai nghiện tại cơ sở cai nghiện.3 Cai nghiện bắt buộc là một biện pháp xử lý hành chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính nhưng biện pháp cưỡng chế cai nghiện mang nhiều đặc điểm của biện pháp tư pháp hình sự hơn là biện pháp cưỡng chế hành chính bởi tính chất trừng phạt, khắc nghiệt không thua kém các biện pháp hình sự, hậu quả đối với tự do cá nhân mà người nghiện ma túy phải đối diện khi đi cai nghiện bắt buộc nặng nề hơn các biện pháp cưỡng chế vi phạm hành chính thông thường4. Nghiện ma túy là một dạng bệnh lý cần chữa trị, không phải là tội phạm. Nhưng người cai nghiện phải sống trong một môi trường biệt lập, cách ly với thế giới bên ngoài, không được tự do đi lại, việc ăn, ngủ, sinh hoạt thường ngày cũng phải tuân theo quy định của Nhà nước. Tuy chỉ là một biện pháp xử lý hành chính nhưng nhìn chung nó không khác một “hình phạt tù”. Tòa án (cơ quan tư pháp) là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người , trước Tòa án mọi người đều bình đẳng và có quyền bảo vệ cho bản thân. Còn thủ tục hành chính là một hành vi đơn phương, mang tính mệnh lệnh. Với cơ chế hoạt động công khai, bình đẳng, hạn chế tối đa sự can thiệp trái pháp luật của các chủ thể khác trong quá trình xử lý thì việc hạn chế quyền tự do, quyền con người được chuyển cho Tòa án xem xét, quyết định là phù hợp.6 5 1.2 Thực tiễn xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án tại thành phố Cần Thơ 1.2.1 Thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Như phân tích tại Mục 1.1.2 (Chương 1), theo quy định tại khoản 3 Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, khoản 1 Điều 12 Nghị định số 221/2013/NĐ2 Ban chỉ đạo về Nhân quyền tỉnh Trà Vinh, Những quy định của Pháp luật Việt Nam về đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân, http://congan.travinh.gov.vn/ , truy cập ngày 12/08/2021 3 Ninh Viết Tùng, Bùi Tiến Đạt, Quyền của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: thực trạng và kiến nghị, http://lapphap.vn/, truy cập ngày 12/08/2021 4 http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210449 5 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 6 Ninh Viết Tùng, Bùi Tiến Đạt, tlđd (12) 10 CP, Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện có thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Như phân tích tại Mục 1.1.3 (Chương 1), theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội có thẩm quyền kiểm tra lại hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sau khi Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đã kiểm tra. Như vậy, có sự trùng lắp thẩm quyền giữa Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội với Trưởng phòng Tư pháp trong việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội đơn thuần chỉ là xem xét lại một lần nữa các công việc mà Trưởng phòng Tư pháp đã thực hiện. Việc một công việc được thực hiện hai lần bởi hai cơ quan khác nhau dẫn đến thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bị kéo dài trong khi Tòa án nhân dân cấp huyện mới là cơ quan xem xét, quyết định cuối cùng.7 Và trên thực tế chưa có trường hợp nào Trưởng phòng Tư pháp trong quá trình kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, phát hiện trả hồ sơ về do vi phạm hay thiếu sót gì. Việc kiểm tra chỉ mang tính hình thức và mất thời gian nhưng lại không hiệu quả. Trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý hồ sơ đề nghị lẽ ra phải giao cho Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội vì đơn vị này cũng chính là cơ quan thực hiện chức năng đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, từ năm 2016 đến năm 2020 trong số 1.890 hồ sơ đề nghị vẫn có 09 hồ sơ không được Tòa án cấp huyện của thành phố Cần Thơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc8. Cụ thể: NĂM Thụ lý Không áp dụng 2016 165 2 2017 248 2 2018 423 1 2019 457 4 2020 597 0 Tổng cộng 1.890 9 Điều này nói lên hiệu quả của việc kiểm tra tính pháp lý hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn có sai sót, vẫn có hồ sơ đề nghị mà Tòa án không áp dụng, 9/1.890 vụ (tỷ lệ 0,47%). 7 Linh Chi, Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, http://sotuphap.phutho.gov.vn/, truy cập ngày 12/08/2021 8 Phụ lục kèm theo Báo cáo công tác năm 2016 - 2020 của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Cần Thơ. 11 Tuy nhiên, việc trùng lắp thẩm quyền nêu trên đã được khắc phục tại Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022). Cụ thể, Khoản 56 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 đã sửa đổi Điều 103 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012; Khoản 57 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 đã sửa đổi khoản 1 Điều 104 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã không còn quy định về thẩm quyền kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện mà thẩm quyền này chỉ còn thuộc về Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội. Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 quy định rõ cơ quan nào lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ.9 Bên cạnh đó, tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống ma túy, Luật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy thay thế cho Nghị định 221/2013/NĐ-CP cũng quy định thẩm quyền kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ còn thuộc về Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội.10 1.2.2 Xác định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Như phân tích tại Mục 1.1.4 (Chương 1), Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 28 Luật Phòng, chống ma túy 2000 quy định: “2. Việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”. Mặc dù có sự mâu thuẫn nhưng kể từ sau ngày Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 có hiệu lực đã thống nhất thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn: - Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân. - Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 74/TANDTC-KHXX ngày 10/04/2014 về việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân. - Bộ Tư pháp ban hành Công văn số 3798/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 06/9/2014 về việc thực hiện quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 về các biện pháp xử lý hành chính, trong đó nhấn mạnh “Để các quy định của Luật 9 Phan Minh Thuận, Quy định mới về xử lý vi phạm hành chính đối với người nghiện ma túy, http://congan.travinh.gov.vn/, truy cập ngày 12/08/2021 10 https://Chinhphu.vn (dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống ma túy, Luật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy) 12 XLVPHC, Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật, Pháp lệnh nói trên được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, với chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm chỉ đạo, tăng cường triển khai thực hiện ngay các quy định về biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”. - Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân. Ngoài ra, tại Mục III.5 Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, Quốc hội yêu cầu: “Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao tiến hành đánh giá thực tiễn thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính và các luật có liên quan để khi cần thiết trình Quốc hội xem xét sửa đổi những quy định không phù hợp.” Và theo quy định tại Luật phòng, chống ma túy 2021 thay thế Luật phòng chống ma túy 2000 (sẽ có hiệu lực ngày 01/01/2022) đã không còn quy định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Mặc dù vậy, việc phân định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho Tòa án vẫn có tranh cãi. Có ý kiến cho rằng Tòa án là “Cơ quan tư pháp” thực hiện chức năng pháp định duy nhất là xét xử. Và thực tiễn từ xưa đến nay ngành Tòa án nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, hành chính, các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, giải quyết các việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tòa án nhân dân các cấp không thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo hoạt động của các “Cơ quan hành pháp” thuộc Chính phủ. Tòa án nhân dân chỉ đứng trung gian phán quyết tính hợp hiến, hợp pháp của mọi hoạt động xâm phạm đến khách thể được Nhà nước bảo vệ trong các lĩnh vực về hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, nhưng Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 giao quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng xem xét quyết định đưa người có hành vi vi phạm hành chính vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (thuộc lĩnh vực hành pháp) là việc giao quyền cho ngành Tòa án nhân dân có sự nhầm lẫn chức năng nhiệm vụ của hai ngành khác nhau. Vô hình trung, Tòa án - “Cơ quan tư pháp” đi làm nhiệm vụ của “Cơ quan hành pháp” theo thủ tục tố tụng cá biệt vượt quá chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp11. Chính vì vậy quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là quyết định hành chính hay quyết định tư pháp không được định 11 Thái Nguyên Toàn, Luật chồng lên luật, https://vksquangnam.gov.vn/,truy cập ngày 12/08/2021 13 danh cụ thể để từ đó có thể xác lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng biện pháp này.12 1.2.3 Tòa án thực hiện thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ Mặc dù qui định pháp luật đã trao quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho Tòa án, nhưng để triển khai đi vào áp dụng thực tế là cả một giai đoạn khó khăn, có nhiều nội dung chưa được hướng dẫn cụ thể. Trên cơ sở các qui định nêu trên, các ngành có liên quan của thành phố Cần Thơ gồm Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở y tế, Sở tư pháp, Công an thành phố và Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đã phối hợp và ban hành kịp thời “Qui trình phối hợp số 2535/QTrPH.LĐTBXH-YT-TP-CA-TA ngày 13/10/2015”. Nội dung Qui trình phối hợp đã hướng dẫn chi tiết qui trình lập hồ sơ đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào khu tiếp nhận đối tượng xã hội thuộc Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội và Quản lý sau cai nghiện thành phố Cần Thơ (hiện nay là Cơ sở cai nghiện thành phố Cần Thơ). Qui trình có 5 bước, và ở bước 4 thì khi tiếp nhận được hồ sơ, trong thời hạn 15 ngày Tòa án sẽ quyết định có áp dụng hay không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tại thành phố Cần Thơ, việc phân định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho Tòa án nhìn chung được thực hiện tốt, không có việc tranh chấp thẩm quyền áp dụng. Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, thì số hồ sơ được các Tòa án cấp huyện của thành phố Cần Thơ (tất cả 9 quận huyện) áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tăng dần hàng năm ở cấp huyện. Cụ thể: NĂM Thụ lý Áp dụng 2016 165 144 2017 248 221 2018 423 385 2019 457 421 2020 597 579 Tổng cộng 1.890 1.750 Tính từ năm 2016 đến năm 2020 thành phố Cần Thơ đã quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 1.750 người nghiện ma túy trong tổng số 1.890 người nghiện ma túy có hồ sơ đề nghị. Riêng 12 Cao Vũ Minh, Nguyễn Hoàng Yến,Bàn về quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn , truy cập ngày 12/08/2021 14 năm 2021 là 487 người bị áp dụng trên tổng số 495 hồ sơ đề nghị.13 Số liệu năm 2021 thực tế là còn nhiều và thậm chí tăng hơn năm 2020, nhưng vì tình hình dịch bệnh Covid 19 trên địa bàn thành phố Cần Thơ năm 2021 diễn biến phức tạp, trước và sau khi áp dụng Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 và Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ (khoảng 4 tháng) thì Cơ sở cai nghiện thành phố Cần Thơ đã ngưng tiếp nhận người đến cai nghiện để đảm bảo công tác phòng chống dịch theo Chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ. Cho nên việc rà soát và xử lý, lập hồ sơ đề nghị đưa đi cai nghiện bắt buộc tạm ngừng lại trong thời gian này. 1.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong việc xác định thẩm quyền đƣa ngƣời nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 1.3.1 Về xác định thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng Theo quy định tại Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập tài liệu để lập hồ sơ. Nhưng trên thực tế thì Công an cấp xã mới thật sự là chủ thể thực hiện việc lập hồ sơ từ giai đoạn ban đầu là test ma túy và lập biên bản vi phạm, xác minh nơi cư trú của người nghiện ma túy, thu thập tài liệu chứng minh tình trạng nghiện, thu thập các tài liệu liên quan, lập hồ sơ và thông báo việc lập hồ sơ cho người nghiện ma túy hoặc đại diện hợp pháp của họ. Hồ sơ gần như đầy đủ 70-80% mới chuyển cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra các Quyết định đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và chuyển cho Phòng tư pháp cấp huyện để thẩm tra tính pháp lý của hồ sơ. Từ đó Công an cấp xã không phát huy hết trách nhiệm của mình vì việc lập hồ sơ chỉ mang tính “giúp”, còn Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã lại “không chủ động” trong việc lập hồ sơ, mà thực hiện trách nhiệm một cách “mờ nhạt” không hiệu quả. Vậy nên cần qui định rõ Công an cấp xã có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên cơ sở hồ sơ đã được lập. Có như vậy mới nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của cả 2 chủ thể là Công an cấp xã và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 1.3.2 Về xác định biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp tư pháp Với những tranh cải về việc phân định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho Tòa án, cần định danh rõ ràng về bản chất của quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để tránh xung đột pháp luật và gây nhầm lẫn giữa hành pháp 13 Phụ lục kèm theo Báo cáo công tác năm 2016 - 2020 của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Cần Thơ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan