Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa - Nghệ thuật Tôn giáo Luận đại thừa trang nghiêm kinh...

Tài liệu Luận đại thừa trang nghiêm kinh

.PDF
618
406
90

Mô tả:

Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh 大乘莊嚴經論 ❦ Vô Trước Đại sĩ tạo luận Đời Đường, Tam tạng pháp sư Ba la phả mật đa la, người nước Thiên Trúc, dịch chữ Phạn ra chữ Hán Quảng Minh dịch chú 1 Đại sĩ Vô Trước 2 Mục lục Lời giới thiệu Dẫn nhập Quyển 1 1. Duyên khởi 1 2. Thành tông 19 3. Quy y 37 4. Chủng tánh 48 Quyển 2 5. Phát tâm 60 6. Nhị lợi 79 7. Chân thật 87 8. Thần thông 97 9. Thành thục 105 Quyển 3 10. Bồ đề 122 Quyển 4 11. Minh tín 177 12. Thuật cầu (1) 187 Quyển 5 12. Thuật cầu (2) 221 3 Quyển 6 13. Hoằng pháp 264 14. Tùy tu 286 Quyển 7 15. Giáo thọ 306 16. Nghiệp bạn 333 17. Độ nhiếp (1) 336 Quyển 8 17. Độ nhiếp (2) 349 Quyển 9 18. Cúng dường 391 19. Thân cận 396 20. Phạn trú 402 Quyển 10 21. Giác phần (1) 436 Quyển 11 21. Giác phần (2) 479 Quyển 12 22. Công đức 522 Quyển 13 23. Hành trú 578 24. Kính Phật 602 4 LỜI GIỚI THIỆU 5 DẪN NHẬP Luận Đại thừa trang nghiêm kinh (大乘莊嚴經論, Mahāyānasūtralaṃkāra), nằm trong Đại tạng kinh bản Đại chánh số 1604, gồm 13 quyển, 24 phẩm, do đại sĩ Vô Trước (無著, Asaṅga, 294 – 376) 1 luận giải. Theo truyền thuyết thì luận này được Vô Trước biên tập sau khi đã thụ giáo với bồ tát Di Lặc (Maitreya) trên cung trời Đâu Suất. Nói cách khác, luận này bao gồm những câu kệ của Di Lặc và những lời chú giải của Vô Trước. Phạn ngữ là Mahāyānasūtralaṃkāra, trong đó Mahāyāna là đại thừa (大乘), sūtra là kinh (經), ālaṃkāra là trang nghiêm (莊嚴). Đời Đường, từ năm 630 đến năm 633, ngài Ba la phả mật đa la ( 波羅頗蜜多羅, Prabhākaramitra) dịch luận này với danh đề Đại thừa trang nghiêm kinh luận. Nhiếp đại thừa luận bản 2 đề cập đến luận này với danh xưng Đại thừa 1 Vô Trước (無著, Asaṅga): dịch âm là A tăng già (阿僧伽), dịch nghĩa là Vô chướng ngại. Ngài là một trong những vị sáng lập Du già hành phái thuộc Phật giáo đại thừa ở Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ thứ 4, người vùng Phổ lỗ hạ phổ lạp (普魯夏普拉, Puruṣapura). Theo Bà tẩu bàn đậu pháp sư truyện, cha sư tên là Kiều thi ca, là quốc sư Bà la môn. Sư có 3 anh em đều lấy tên là Bà tẩu bàn đậu (Vasubandhu). Ban đầu, sư xuất gia với bộ phái Tát bà đa (薩婆多, Thuyết nhất thiết hữu bộ) thuộc tiểu thừa. Nhân tư duy về nghĩa không mà chẳng ngộ nhập được, sư muốn tự sát. Bấy giờ, ở phía đông Tỳ đề ha có ngài Tân đầu la (賓頭羅, Piṇḍola) thuyết giảng về không quán của tiểu thừa, sư vừa nghe pháp thì liền ngộ nhập, nhưng đối với sở ngộ này sư vẫn chưa thỏa mãn, bèn dùng thần thông bay lên cõi trời Đâu suất, thọ nhận không quán của đại thừa từ bồ tát Di Lặc. Sau đó, sư lại nhiều lần lên cõi trời nầy học các nghĩa sâu xa của đại thừa như Du già sư địa luận v.v. . ., đồng thời nhóm họp đại chúng giảng nói, nhờ đó mà pháp môn Du già được truyền bá khắp nơi. Sư tận lực tuyên dương tư tưởng Pháp tướng của đại thừa, lại soạn các luận sớ để giải thích kinh điển đại thừa. Người em của sư là Thế Thân, trước kia theo học với tiểu thừa, sau nghe lời khuyên của sư mà quay về với đại thừa, cũng tận lực xiển dương giáo nghĩa đại thừa. Trước tác của sư gồm có Kim cang bát nhã luận (金剛般若論, ĐTK 1510), Thuận trung luận (順中論, ĐTK 1565), Nhiếp đại thừa luận (ĐTK 1593), Nhiếp đại thừa luận bổn (ĐTK 1594), Năng đoạn kim cương bát nhã ba la mật kinh luận thích (能斷金剛般若波羅蜜多經論釋, ĐTK 1513), Đại thừa A tỳ đạt ma tạp tập luận (大乘阿毘達磨雜集論, ĐTK 1605), Hiển dương Thánh giáo luận tụng (顯揚聖教論頌, ĐTK 1603), Lục môn giáo thọ tập định luận (六門教授習定論, ĐTK 1607), Đại thừa trang nghiêm kinh luận. 2 ĐTK 1594, Vô Trước tạo, Huyền Trang dịch. 6 kinh trang nghiêm luận (大乘經莊嚴論). Trong Nhiếp đại thừa luận thích 3 nói về luận Đại thừa trang nghiêm kinh như sau: “Luận nói: ‘Thêm nữa, trong luận Đại thừa trang nghiêm kinh có năm bài kệ tụng làm rõ đạo lý này.’ Giải thích: Nghĩa lý của kinh thì sâu kín khó hiểu. Như thật thấu rõ nghĩa lý chính xác của kinh, nên gọi là luận Trang nghiêm kinh. Luận giải kinh (sâu kín khó hiểu) này nên được tên là Trang nghiêm. Trong luận Trang nghiêm kinh có nhiều nghĩa lý. Nay chỉ lược lấy năm bài kệ tụng. Các kệ tụng này muốn hiển thị những gì? Các kệ tụng này hiển thị các liễu nghĩa khó hiểu trong tu đạo. 4” Vũ Tỉnh Bá Thọ (宇井伯壽), học giả Nhật Bản, giải thích, đây là luận thích để trang nghiêm kinh Đại thừa. Học giả Nhật Bản Khố Cốc Hiến Chiêu (袴谷憲昭) thì cho rằng đây là luận thích kinh Trang nghiêm, bản kinh của đại thừa. Học giả G.Tucci căn cứ luận Đại thừa trang nghiêm kinh, luận Hiện quán trang nghiêm (現觀莊嚴論, Abhisamayālaṃkāra) và Hiện quán trang nghiêm luận quang minh chú (現觀莊嚴論光明注, Abhisamayālaṃkārāloka) mà cho rằng “trang nghiêm” như là một thể loại chú thích, với mục đích hệ thống hóa kinh điển đại thừa, từ đó hình thành một hệ thống mới là Du già phái mà có sự liên kết chặt chẽ với triết lý Phật giáo đại thừa. Sylvain Lévi (1863-1935), học giả người Pháp, dịch luận này từ bản Sanskrit mà ông phát hiện ở Nepal vào năm 1898. Bản sao Sanskrit của luận này nằm trong Mahāyānasūtralaṃkāra, Exposé de la doctrine du Grand Véhicule selon le Systeme Yogacara, vol. I, Paris 1907; còn bản dịch tiếng Pháp của luận này nằm trong Mahāyānasūtralaṃkāra, Exposé de la doctrine du Grand Véhicule selon le Systeme Yogacara, vol. II, Paris 1911. Ngoài ra, đại học Ryukoku 5, Kyoto, sở hữu hai bản tiếng Sanskrit của luận này. 3 ĐTK 1595, Thế Thân thích, Chân Đế dịch. 4 Luận viết: Phục hữu Đại thừa trang nghiêm kinh luận sở thuyết ngũ kệ vi hiển thử đạo. Thích viết: Kinh nghĩa thâm ẩn nan giải。Như thật hiển liễu kinh trung chánh nghĩa, cố danh trang nghiêm kinh luận. Luận giải thử kinh cố đắc trang nghiêm danh. Trang nghiêm kinh luận trung hữu chúng đa nghĩa. Kim đãn lược thủ ngũ kệ. Thử kệ dục hà sở hiển. Thử kệ vi hiển ư tu đạo trung nan giác liễu nghĩa. 論曰. 復有大乘莊嚴經論, 所說五偈為顯此道. 釋曰,經義深隱難解. 如實顯了經 中正義,故名莊嚴經論.論解此經故得莊嚴名.莊嚴經論中有眾多義.今但略取五偈,此偈欲何所顯,此偈為顯於中 難覺了義. 5 Đại học Ryukoku (Long Cốc đại học, 龍谷大学, Ryūkoku Daigaku) là một trường đại học tư nhân nằm ở Kyoto, Nhật Bản. Nguyên thủy nó được thành lập như là một trường học cho các tu sĩ Phật giáo của giáo phái Nishi Hongan-ji năm 1639, và trở thành một trường đại học thế tục 7 Trong Tạng bản Tengyur, luận này có danh xưng là Theg pa chen po mdo sde’i rgyan gyi bśad pa, do ngài Śākyasiṃha (Thích ca sư tử, 釋迦獅子) và ngài Ka ba dpal brtsegs (Già bạch phổ tử kết, 迦白普子結), sống ở cuối thế kỷ thứ 8, dịch từ Phạn ngữ ra Tạng ngữ. Thế kỷ 11, bản luận này được ban thiền Parahita (Bạt nhiệt ê đa, 拔热醯多), đại sư Sajjana (Tát gia na, 薩加那) và dịch giả Ngog Loden Sherab (Nga la đan hiệp nhiêu, 俄羅丹協饒) hiệu đính hoàn chỉnh. Bản Sanskrit có 21 phẩm 6. Ngài Ba la phả mật đa la chia luận này thành 24 phẩm 7: chia phẩm Mahāyānasiddhi (21 kệ tụng) của bản Sanskrit thành 2 phẩm: Duyên khởi (8) và Thành tông (17); chia phẩm 17 Pūjāsevāpramāna (66 kệ tụng) của bản Sanskrit thành 3 phẩm: Cúng dường (5), Thân cận (7) và Phạn trú (49); và chia phẩm Caryāpratistha (2 phần, 61 kệ tụng) thành 2 phẩm: Hành trú (27) và Kính Phật (19). Bản Tây tạng có 21 phẩm 8, nhưng chia phẩm Mahāyānasiddhi (21 kệ tụng) của bản Sanskrit thành 2 phẩm: Adi (6) và siddhi (15) và kết hợp 2 phẩm cuối của bản Sanskrit thành 1 phẩm Caryāpratistha (61). hóa vào năm 1876. Các giáo sư và sanh viên của trường đại học này thành lập tạp chí văn học nổi tiếng Chūōkōron vào năm 1887. Trường có ba cơ sở: Fukakusa và Omiya ở Kyoto, và Seta trong quận Shiga. 6 I. mahāyānasiddhi (21); II. saranagamana (12); III. gotra (13); IV. cittotpāda (28); V. pratipatti (11); VI. tattva (10); VII. prabhāva (10); VIII. paripāka (22); IX. bodhi (86); X. adhimukti(15); XI. dharmaparyesti (78); XII. desanā (24); XIII. pratipatti (29); XIV. avavādānusāsanl (51); XV. upāyasahitakarma (5); XVI. pāramitā (79); XVII. pūjāsevāpramāna (66); XVIII. bodhipaksa (104); XIX. guna (80); XX-XXI. caryāpratistha (61). (The Universal Vehicle Discourse Literature, Robert Thurman) 7 1. Duyên khởi (8); 2. Thành tông (17); 3. Quy y (12); 4. Chủng tánh (13); 5. Phát tâm (21); 6. Nhị lợi (11); 7. Chân thật (11); 8. Thần thông (10); 9. Thành thục (22); 10. Bồ đề (80); 11. Minh tín (15); 12. Thuật cầu (74); 13. Hoằng pháp (24); 14. Tùy tu (29); 15. Giáo thọ (51); 16. Nghiệp bạn (5); 17. Độ nhiếp (59); 18. Cúng dường (5); 19. Thân cận (7); 20. Phạn trú (49); 21. Giác phần (87); 22. Công đức (65); 23. Hành trú (27); 24. Kính Phật (19). 8 1. ādi (6); 2. siddhi (15); 3. saranagamana (12); 4. gotra (13); 5. cittotpāda (28); 6. pratipatti (11); 7. tattva (10); 8. prabhāva (10); 9. paripāka (22); 10. bodhi (86); 11. adhimukti (15); 12. dharmaparyesti (78); 13. desanā (24); 14. pratipatti (29); 15. avavādānusāsanl (51); 16. upāyasahitakarma (5); 17. pāramitā (80); 18. pūjāsevāpramāna (66); 19. bodhipaksa (104); 20. guna (80); 21. caryäpratistha (61). (The Universal Vehicle Discourse Literature, Robert Thurman) 8 Bản Anh ngữ của luận này có tựa đề là The Universal Vehicle Discourse Literature, được chuyển dịch công phu bởi Robert Thurman 9 và ban phiên dịch The American Institute of Buddhist Studies (AIBS) thuộc đại học Columbia, New York. Bản thảo Anh ngữ của Robert Thurman hoàn tất năm 1980, nhưng mãi cho đến hơn 30 năm sau, năm 2004 mới chính thức được xuất bản. Với sự trợ giúp và cống hiến ý kiến của các bậc Thầy Tây Tạng, Ấn Độ và Nhật bản, của các học giả và nhà nghiên cứu Phật học trên khắp thế giới, đặc biệt giáo sư Gadjin Nagao ở đại học Kyoto, cũng như sự làm việc cẩn trọng của ban phiên dịch trong sự chọn lọc thuật ngữ tiếng Anh, chú thích cùng đối chiếu các văn bản Phạn, Tạng, Hoa và Pháp, có thể nói, đây là một bản dịch đáng tham khảo. Du già sư địa luận (瑜伽師地論) là tác phẩm lập thuyết của Du già hành tông. Luận này gồm 100 quyển, được biên soạn khoảng 300 - 350 Tây lịch. Ngài Huyền Trang dịch luận này non hai năm, từ năm 646 đến năm 648. Khu vực Đông Nam Á đều cho rằng đây là tác phẩm của bồ tát Di Lặc, nhưng Phật giáo Tây Tạng thì bảo là tác phẩm của đại sĩ Vô Trước. Nội dung luận này chủ yếu bàn về tâm pháp theo quan điểm bộ phái và các cấp độ tu chứng của một hành giả trước khi thành Phật, từ đó triển khai các nét giáo lý riêng tư của phái Du già như a lại da thức, ba tự tánh, ba vô tự tánh, chủng tử, huân tập, nhị chướng và duy thức. Cấu trúc của phần Bồ tát địa (Bodhisatvabhùmi) trong Du già sư địa luận rất gần với cấu trúc của Đại thừa trang nghiêm kinh luận 10. Nếu Du già sư địa luận được đại sĩ Vô Trước viết dưới danh nghĩa của bồ tát Di Lặc, thì Nhiếp đại thừa luận (攝大乘論, Mahāyānasaṁgraha) là tác phẩm được viết dưới danh nghĩa của chính đại sĩ Vô Trước. Luận này có đôi chỗ trích dẫn kệ tụng của Đại thừa trang nghiêm kinh luận. Duy thức học của Vô Trước trong Đại 9 Robert Alexander Farrar Thurman (sanh ngày 03 tháng 8 năm 1941) là một nhà văn và giáo sư có ảnh hưởng và sung mãn về Phật giáo Mỹ, là tác giả, dịch giả nhiều sách về Phật giáo Tây Tạng. Ông là giáo sư của trung tâm Tông Khánh Ba (Jey Tsong Khapa) thuộc Viện nghiên cứu Phật giáo Ấn Độ - Tây Tạng (Indo-Tibetan Buddhist Studies) của phân khoa tôn giáo của đại học Columbia, là người đồng sáng lập và chủ tịch của Nhà truyền thống Tây Tạng (Tibet House) New York. Quan tâm đặc biệt của ông là khám phá truyền thống tâm lý và triết học của Ấn Độ Tây Tạng bằng cái nhìn phù hợp, song hành với tư tưởng và khoa học hiện đại. Sau khi được giáo dục tại đại học Philips Exeter và Harvard, ông đã học Tạng ngữ và Phật giáo Tây Tạng trong gần 30 năm. Ông là một học trò của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông viết nhiều sách nghiên cứu cũng như phổ thông về Phật pháp, và có nhiều bài giảng trên toàn thế giới. 10 Bồ tát địa, thứ 15: 1. Chủng tánh; 2. Phát tâm; 3. Tự tha lợi; 4. Chân thật nghĩa; 5. Uy lực; 6 Thành thục; 7. Bồ đề; 8. Lực chủng tánh; 9. Thí; 10. Giới; 11. Nhẫn; 12. Tinh tiến; 13. Tịnh lực; 14. Tuệ; 15. Nhiếp sự; 16. Cúng dường thân cận vô lượng; 17. Bồ đề phần; 18. Bồ tát công đức. 9 thừa trang nghiêm kinh luận có tánh cách khái lược, đến Nhiếp luận thì được triển khai một cách hoàn mỹ. Nói cách khác, Đại thừa trang nghiêm kinh luận có trước Nhiếp luận. Có hai bộ luận của bồ tát Di Lặc liên hệ mật thiết đến tư tưởng của Đại thừa trang nghiêm kinh luận, đó là Biện trung biên luận (辯中邊論, Madhyānta-vibhāga) và Biện pháp pháp tánh luận (辨法法性論, Dharmadharmatā-vibhaṅga) 11. Biện trung biên luận gợi mở về trung đạo qua lập trường của “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Biện pháp pháp tánh luận thuyết minh hữu pháp (sanh tử) và pháp tánh (niết bàn) là hai mặt nhiễm tịnh, từ đó chuyển mê thành giác, liễu thoát sanh tử, ngộ nhập niết bàn. Ngoài ra phải kể đến kinh Giải thâm mật (解深密經, Saṃdhinirmocana-sūtra), bộ kinh được Du già sư địa luận trích dẫn toàn văn trong các quyển 75 – 78, đặt nền tảng cho duy thức và tổng kết cho đại thừa. Đại thừa trang nghiêm kinh luận đã lấy kinh Giải thâm mật, đặc biệt là chương Phân biệt du già, làm tiền đề để luận giải về a lại da thức. Trong luận Đại thừa trang nghiêm kinh, đại sĩ Vô Trước đã trích dẫn một số kinh luận để minh chứng cho luận cứ của mình như: kinh Đa giới (Trung bộ kinh), kinh Hạnh thanh tịnh (Hoa nghiêm kinh), kinh Thánh giả vô tận tuệ (Đại tập kinh), kinh Phật thuyết thập địa, kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn, kinh Đại bát nhã ba la mật, kinh Phật thuyết Như lai bất tư nghị bí mật đại thừa, kinh Hôi hà và kinh Đệ nhất nghĩa không (Tạp a hàm), kinh Bố thí bữa ăn (Tăng chi bộ kinh), kinh Gánh nặng và kinh Tri pháp (Tương ưng bộ kinh), kinh Phật thuyết thánh pháp ấn, kinh Kim cương bát nhã, kinh Bảo tích, luận Trung biên phân biệt v.v…, qua đó cho thấy, Vô Trước đại sĩ đã gom lấy những giáo lý của tiểu thừa Hữu bộ làm cơ sở, đồng thời trưng dẫn những kinh điển đại thừa để xác lập đại thừa. Đại sĩ Vô Trước và đại sĩ Thế Thân (世親, Vasubandhu) lấy giáo lý tiểu thừa làm nền tảng để xây dựng đại thừa, và đó là cái đặc sắc của Phật giáo thuộc thời kỳ Vô Trước – Thế Thân. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh được ngài Ba la phả mật đa la (565~633) phiên dịch hoàn tất vào đời Đường, năm Trinh Quán thứ 7 (633). Sư người nước Ma kiệt đà, Trung Thiên Trúc, còn gọi là Ba la phả ca la mật đa la, Ba phả mật đa la, hoặc gọi tắt là Ba phả, dịch ý là Tác minh tri thức, Minh hữu, Quang trí. Sư thuộc dòng dõi Sát đế lợi, 10 tuổi xuất gia, tụng thuộc kinh điển đại thừa cả trăm 11 Biện trung biên luận: kệ tụng của bồ tát Di Lặc, luận thích của đại sĩ Thế Thân. Biện pháp pháp tánh luận: kệ tụng của bồ tát Di Lặc, pháp sư Pháp Tôn (法尊) dịch ra Hán văn từ Tạng bản. Pháp sư Pháp Tôn là đệ tử của Thái Hư đại sư. 10 ngàn bài kệ. Sau khi thọ cụ túc giới, sư học tập luận tạng, tu tập định nghiệp, không xả bỏ kinh điển suốt 12 năm trường. Sau đó sư Nam du tới tu viện Na lan đà, ở chỗ luận sư Giới Hiền mà nghe học Thập thất địa luận và tụng đọc các bộ luận tiểu thừa. Nhờ khí chất thông minh uyên bác, sư nghiên cứu tinh tường giáo lý đại thừa và tiểu thừa. Sư lại làm bậc giáo thọ sư cho các đồng học, cùng hóa độ tăng chúng, và thường diễn giảng những bộ kinh như Bát nhã nhân đà la bạt ma v.v…, khiến các học nhân đều thâm đạt nghĩa lý u huyền. Với giới hạnh tinh cần, tài thức minh mẫn, sư được các vị đồng học kính trọng. Theo duyên hóa độ, sư đi đến vùng Bắc Địch giáo hóa Phật pháp cho dân Đột Quyết 12, rồi tiếp tục đi về phương Bắc, đến nước Tây Đột Quyết của Khả hãn Thống Diệp Hộ 13, giáo hóa những kẻ chưa từng biết đến chánh giáo, khiến Nhung chúa ở vùng đó thâm tín bội phục vô vàn, nên cấp cho 20 người để hầu hạ cung phụng ngày đêm. Năm 626, tướng quân Cao Bình Vương thỉnh cầu sư đến Đông độ. Thế là, vào đời vua Đường Thái tông, đầu năm Trinh Quán (627), sư đầu đội Phạn kinh đi vào Trường an, trú ở chùa Đại Hưng Thiện, trong 3 năm 3 tháng, cùng với các vị Tuệ Thừa, Tuệ Trách, Pháp Lâm, Huyền Mô v.v… cả thảy 19 bậc danh tăng thạc đức cùng nhau dịch kinh. Các kinh được dịch gồm có: kinh Bảo tinh đà la ni, 10 quyển 14; Bát nhã đăng luận thích, 15 quyển 15; luận Đại thừa trang nghiêm kinh, 13 quyển. Do thệ nguyện hoằng dương Phật pháp, sư không màng bao gian nan nguy hiểm, đi hơn 40 ngàn dặm, vượt ngọn Thông Lĩnh, băng qua các bãi sa mạc cùng núi sông hiểm trở, tự mang kinh điển để sang nước Chấn Đán phiên dịch. Song chí nguyện của sư chưa hoàn mãn, mà thân sanh bịnh. Vào năm Trinh Quán thứ 7 (633), tự 12 Theo quan niệm của người Hoa Hạ cổ đại, những dân tộc nằm ngoài vùng đất bản thổ của người Hoa Hạ là người của những dân tộc chưa biết văn hóa và luật lệ giữa con người; chưa có quy tắc ứng xử chung như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín hoặc quân, sư, phụ; chưa biết phân định trên dưới, cha con, vợ chồng; chưa có biết dùng mũ, áo, các vật dụng khác nhau để phân biệt tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Quan trọng nhất là chưa có luật pháp. Các dân tộc ở phía Bắc sông Hoàng Hà thì gọi là Rợ hoặc Địch. Các dân tộc ở phía Đông thì gọi là Di. Các dân tộc ở phía Tây thì gọi là Nhung. Các dân tộc ở phía Nam song Trường Giang thì gọi là Man. Bắc Địch (北狄) có rợ Hung nô, rợ Kim, rợ Khiết Đan, rợ Đột Quyết, rợ Hồ. Người Rợ thường được người Trung Nguyên cổ đại coi là hung dữ. 13 Khả hãn Thống Diệp Hộ: Theo sách Từ An truyện, quyển 2, vị Khả hãn này từng hội kiến Huyền Trang tại thành Tố Diệp. Theo sách Thông giám, vào năm Trinh Quán thứ 2 (628), Thống Diệp Hộ bị người bác ruột giết, con là Diệt Lực Đặc Cẩn lên thay làm Khả hãn Thích Diệp Hộ. Vào năm Trinh Quán thứ 6 (632), Thích Diệp Hộ bị 2 bộ lại là Thiết Tỳ Đạt Quan và Nỗ Thạt Tất công kích bỏ của chạy qua nước Khang Cư rồi chết. 14 ĐTK 402. 15 ĐTK 1566, kệ tụng của Long Thọ đại sĩ, luận thích của Phân Biệt Minh đại sĩ. 11 biết không cứu trị nổi, sư bèn phân phát vật dụng, tạo các tịnh nghiệp, rồi ngồi thẳng trước chánh điện chùa Thắng Quang, nhất tâm quán tượng Phật mà thị tịch, thọ thế 69 năm. Đối tượng của luận Đại thừa trang nghiêm kinh là nhắm vào tiểu thừa bộ phái, thế nên phẩm Thành tông thứ 2 của luận này đưa ra nhiều luận điểm để xác nhận đại thừa chính là Phật thuyết. Nội dung luận này trình bày những giáo nghĩa đại thừa, vừa là giáo lý thượng đẳng, vừa là thích hợp nhất để cứu độ chúng sanh. Trên quan điểm đó, luận này mô tả đường lối tu hành của chư vị bồ tát: “Ở đây lấy tám sự để tổng nhiếp tất cả pháp đại thừa. Tám sự là: 1. Chủng tánh, như trong phẩm Chủng tánh (thứ tư) đã nói; 2. Đức tin chánh pháp, như trong phẩm Minh tín (thứ mười một) đã nói; 3. Phát tâm, như trong phẩm Phát tâm (thứ năm) đã nói; 4. Thực hành các hạnh, như trong phẩm Độ nhiếp (thứ mười bảy) đã nói; 5. Nhập đạo, như trong phẩm Giáo thọ (thứ mười lăm) đã nói; 6. Thành thục chúng sanh, là bồ tát từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy; 7. Làm sạch thế giới của Phật, là bồ tát bất thoái từ địa thứ tám trở lên; 8. Bồ đề thù thắng, là Phật địa. 16 ” Nếu Nhiếp luận là luận văn nói tổng quát về đại thừa, thì luận Đại thừa trang nghiêm kinh là luận văn nói rất chi tiết về đại thừa. Đại thừa ấy bao trùm hết thảy văn nghĩa, cảnh, hành, quả của các thừa; thành tựu chủng tánh bồ tát, thấy đúng với chân thật, tu tập hết thảy thiện pháp mà đặc biệt là bốn niệm trú, bốn pháp nhiếp và sáu ba la mật, dồn chứa hai thứ tư lương phước trí, đoạn trừ hai chướng phiền não hoặc trí, xuất sanh trí vô phân biệt, chứng đắc hai quả bồ đề, thành thục lợi mình lợi người không bao giờ ngừng nghỉ, công đức của pháp thân v.v… Và vì vậy, hành giả muốn biết thế nào là con đường của đại thừa thì không thể bỏ qua tác phẩm luận Đại thừa trang nghiêm kinh này. Ngày vía đức Quán Thế Âm Bồ tát 02 .11.2012 Phật tử Tổ đình Ấn Quang Quảng Minh 16 Phẩm Công đức, thứ 22. 12 Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Quyển Một 13 Phẩm Một DUYÊN KHỞI Kệ tụng: Nghĩa trí làm các nghĩa Ngôn cú không dơ bẩn Cứu giúp khổ chúng sanh Từ bi làm phẩm tánh Khéo nói pháp phương tiện Gọi là thừa tối thượng Vì người phát đại tâm Lược chia năm nghĩa hiện. Giải thích: Luận giải về sự trang nghiêm kinh điển đại thừa 17 thì cái gì có thể trang nghiêm? Đáp: Nghĩa trí có thể trang nghiêm. Hỏi: Vì sao nghĩa trí có thể trang nghiêm? Đáp: Vì khai mở các nghĩa. Hỏi: Dùng gì khai mở? Đáp: Dùng ngôn từ và câu cú. Hỏi: Ngôn từ như thế nào, câu cú như thế nào? 17 Chánh văn: Trang nghiêm đại thừa kinh luận, thùy năng trang nghiêm. 14 Đáp: Đó là ngôn từ không dơ bẩn và câu cú không dơ bẩn. Ngôn từ không dơ bẩn là ngôn từ đưa đến thành Niết bàn. Câu cú không dơ bẩn là chữ và câu tương ưng. Nếu lìa ngôn từ không dơ bẩn và câu cú không dơ bẩn thì các nghĩa lý không thể hiểu tỏ. Hỏi: Dùng nghĩa gì để trang nghiêm? Đáp: Nghĩa cứu giúp chúng sanh đang khổ sở. Hỏi: Chúng sanh tự làm khổ, dùng nhân tố nào để cứu giúp? Đáp: Bậc bồ tát thì lấy tâm đại bi làm tự thể để thương xót chúng sanh. Hỏi: Việc cứu khổ chúng sanh thì trang nghiêm cho pháp gì? Đáp: Trang nghiêm pháp phương tiện mà Như lai đã khéo nói. Hỏi: Thế nào là pháp phương tiện? Đáp: Đó là pháp tối thượng thừa. Hỏi: Vì ai mà trang nghiêm? Đáp: Vì người phát tâm đại thừa. Hỏi: Có mấy nghĩa trang nghiêm? Đáp: Lược có năm nghĩa thị hiện. Hỏi: Thế nào là năm nghĩa. Kệ tụng: Như vàng làm vật dụng Như hoa đang độ nở Như ăn một bữa ngon Như hiểu biết văn tự Như mở cái tráp báu Mỗi việc được hoan hỷ Năm nghĩa pháp trang nghiêm 15 Hoan hỷ cũng như vậy. Giải thích: Năm thí dụ này dụ cho năm nghĩa pháp trang nghiêm kia. Năm nghĩa pháp có thể làm người phát khởi cái tâm đại thừa, tuần tự là: tín hướng, thọ giáo, tư duy, tu tập và chứng đắc. Hỏi: Năm nghĩa pháp ấy như thế nào? Đáp: Thí dụ vàng làm vật dụng chỉ cho sự tin tưởng hướng về giáo pháp làm chuyển hóa tâm thức chúng sanh. Thí dụ hoa đang độ nở chỉ cho sự tiếp nhận giáo pháp làm cho chúng sanh khai mở tâm thức. Thí dụ ăn một bữa ngon chỉ cho sự tư duy giáo pháp thì có được mùi vị của giáo pháp. Thí dụ hiểu biết văn tự chỉ cho sự tu tập không có do dự. Thí dụ mở cái tráp báu chỉ cho sự chứng đắc bồ đề phần bảo chân thật, tức là sự tự giác chứng. Do năm nghĩa pháp này mà phân biệt đại thừa (là thế nào), làm cho người phát tâm sanh tâm ưa thích (đại thừa). Hỏi: Nếu pháp đại thừa có đầy đủ tự tánh và công đức thì còn nghĩa nào nữa cần cho sự trang nghiêm? Trả lời câu hỏi trên bằng kệ tụng: Như trang sức vật đẹp Soi gương sanh vui thích Diệu pháp trang nghiêm rồi Được cái vui thứ nhất. Giải thích: Thí như người trang sức thêm vật đẹp trên thân, đứng trước gương soi thì sanh vui vẻ. Vì sao? Vì có sự vui thích. Bồ tát cũng vậy, trang nghiêm bằng diệu 16 pháp, nghĩa là thể nhập tự tâm, thì sanh hoan hỷ thù thắng. Vì sao? Có câu hỏi sau đây. Hỏi: Diệu pháp có công đức gì cần cho sự trang nghiêm? Vì sao thôi thúc người sanh tâm cung kính, tin tưởng, tiếp nhận diệu pháp? Kệ tụng: Thí như uống thuốc đắng Bịnh bớt là nhờ thuốc Trú văn và hiểu nghĩa Khổ vui cũng như vậy. Như việc khó hầu vua Nhờ hầu được uy quyền Cũng vậy pháp khó hiểu Nhờ hiểu được pháp tài. Thí như thấy báu sanh Không biết thì không thích Cũng vậy nghe diệu pháp Không giác ngộ, không vui. Giải thích: Ba bài kệ tụng này lần lượt chỉ ra diệu pháp có ba công đức: 1. Công đức của nhân tố đoạn chướng; 2. Công đức của nhân tố tự tại; 3. Công đức của nhân tố diệu hỷ. Hỏi: Nghĩa này như thế nào? Đáp: Như việc uống thuốc đắng, lúc đầu khổ sở vì thuốc đắng khó uống, sau đó vui vẻ vì bịnh tình thuyên giảm. Diệu pháp cũng như vậy, lúc trú ở nơi văn 17 tự thì khổ sở vì khó được pháp vị, nhưng khi hiểu biết được nghĩa lý thì vui thích vì phá được bịnh chướng. Như hầu vị vua nghiêm minh, ban đầu thì khổ sở vì khó được vừa ý vua, nhưng sau đó thì vui vẻ vì được vua cho uy quyền. Diệu pháp cũng như vậy, khi tư duy giáo pháp thì khổ sở vì sự thâm sâu, khó hiểu của giáo pháp, nhưng khi tư duy thấu hiểu giáo pháp thì an vui vì tăng trưởng tài sản của bậc Thánh. Như việc nhìn thấy báu vật sanh ra, khi không biết đó là báu vật nên không ưa thích, cho nó là vô dụng, nhưng khi biết được đó là báu vật thì quý trọng, biết nó có công dụng. Diệu pháp cũng như vậy, khi tu hành thì không hoan hỷ, cho là trống rỗng, không thấy được công dụng của sự tu hành, nhưng khi tu hành chứng đắc thì có niềm vui sâu xa, biết rằng sự tu hành có công dụng lớn. Phẩm Duyên Khởi trọn vẹn. 18 Phẩm Hai THÀNH TÔNG Giải thích: Có người nghi ngờ rằng pháp đại thừa không phải do đức Phật nói ra thì làm sao pháp đại thừa có công đức có thể thủ đắc. Nay tôi xác quyết lưới nghi ngờ kia rằng sự thành lập đại thừa là sự thật chắc chắn do đức Phật nói ra. Kệ tụng: Không dự ký, cùng hành Không hành và thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn khác, tám nhân thành. 18 18 Chứng minh có thức A lại da, luận Thành duy thức dẫn kệ tụng này, nhưng ngài Huyền Trang dịch có khác: “Lại nữa, Thánh Từ Thị! dùng bảy nhân sau đây để chứng minh kinh đại thừa thật là do Phật nói: 1. Vì trước đó Phật không thọ ký: Nếu kinh đại thừa là do những người sau khi đức Phật diệt độ, muốn phá hoại chánh pháp mà nói ra, thì tại sao Thế Tôn không dự ký trước, như Ngài từng dự ký các việc bố úy sẽ xảy ra? 2. Vì vốn cùng lưu hành: Kinh đại, tiểu thừa giáo từ trước đến nay cùng lưu hành, vậy thì làm sao biết riêng kinh đại thừa là không phải của Phật nói. 3. Vì không phải cảnh giới của người khác: Giáo lý đại thừa rộng lớn rất sâu, không phải là cảnh giới của hàng ngoại đạo tư lường biết đến đưọc, trong kinh luận của họ chưa từng nói đến giáo lý đại thừa, dẫu có nói cho họ nghe, họ cũng không tin thọ, cho nên kinh đại thừa chẳng phải là người không phải Phật có thể nói được. 4. Vì nên công nhận: Nếu bảo giáo lý đại thừa do các đức Phật khác nói chứ không phải do đức Thích Ca nói, thế thì giáo lý đại thừa là Phật nói, lẽ đó rõ ràng phải công nhận. 5. Vì lẽ có, không có: Nếu chấp nhận có giáo lý đại thừa, thời nên tin giáo lý ấy là do Phật nói, vì ngoài kinh đại thừa thì không có giáo lý đại thừa. Nếu bảo không có giáo lý đại thừa, thì giáo lý thanh văn thừa cũng không có, vì ngoài đại thừa giáo thì quyết định không biết nương vào đâu để thành Phật. Không Phật thì ai ra đời giảng giáo lý thanh văn thừa. Cho nên chỉ chấp nhận thanh văn thừa giáo là Phật nói, mà chê bai đại thừa giáo là không đúng lý. 6. Vì đối trị: Những người y theo đại thừa giáo siêng năng tu hành, đều có thể đạt đến trí vô phân biệt, có khả năng chính thức đối trị tất cả phiền não. Thế nên tin kinh đại thừa là Phật nói. 19 Giải thích: Sự thành lập đại thừa lược có tám nhân tố: 1. Không dự ký; 2. Cùng thực hành; 3. Không cùng thực hành; 4. Thành tựu bồ đề; 5. Thể đại thừa; 6. Chẳng phải thể đại thừa; 7. Khả năng đối trị; 8. Văn nghĩa khác lạ. 1. Không dự ký: Khi chánh pháp đã diệt mất thì sau đó một đức Phật chánh thức xuất hiện. Nếu đại thừa không phải là chánh pháp, tại sao đức Thế Tôn ban đầu không dự ký việc đó? Giả dụ như trong thời gian vị lai mà có giáo pháp nào khác thì ắt hẳn đức Thế Tôn đã dự ký, cho nên sự không dự ký (của đức Thế Tôn) cho thấy đại thừa là do Phật thuyết. 2. Cùng thực hành: Thanh văn thừa và đại thừa không thể nói rằng thừa nào có trước, thừa nào có sau, mà đồng thời cả hai thừa cùng thực hành (chánh pháp). Ông làm sao biết chỉ riêng pháp đại thừa là không phải do Phật thuyết? 3. Không cùng thực hành: Pháp đại thừa sâu rộng, không phải là đối tượng phỏng đoán của con người để có thể tin hiểu, huống là có thể thực hành. Luận thuyết của ngoại đạo không có luận điểm nào cho thấy họ thủ đắc đại thừa, nói cách khác là họ không thực hành pháp đại thừa. Do ngoại đạo không cùng thực hành pháp đại thừa nên đại thừa là do Phật thuyết 19. 7. Vì nghĩa khác văn: Giáo lý đại thừa ý thú rất sâu sắc, không thể theo văn thủ nghĩa nói, rồi sanh tâm phỉ báng cho là không phải Phật nói. Do các lý như trên nên biết kinh đại thừa thật do Phật nói. Như trong luận Trang nghiêm có bài tụng tóm tắt nghĩa trên: Trước chẳng ký, cùng lưu hành / Không phải cảnh giới ngoại đạo/ Ðồng công nhận có, không có/ Ðối trị và nghĩa khác văn. (先不記俱行/ 非餘所行境/ 極成有無有/ 對治異文故, Tiên bất ký câu hành/ Phi dư sở hành cảnh/ Cực hành hữu vô hữu/ Đối trị dị văn cố)” (Thành duy thức luận, H.T Thích Thiện Siêu dịch) 19 Bộ phái tiểu thừa cho rằng đại thừa là phi Phật thuyết, đại thừa không là gì khác hơn chính là tiểu thừa, thậm chí đại thừa là luận thuyết của ngoại đạo. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan