Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án tiến sĩ triết học xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay...

Tài liệu Luận án tiến sĩ triết học xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay

.DOCX
285
350
63

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH CÔNG SƠN XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Đạo đức học Mã số: 62 22 03 06 HÀ NỘI - 2014 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH CÔNG SƠN XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Đạo đức học Mã số: 62 22 03 06 Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu được sử dụng trong luận án có ng uồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết luận rút ra trong luận á n là kết quả tìm tòi, nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tá c giả luận án. Tác giả luận án MỤC LỤC Đinh Công Sơn MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5 1.1. Những nghiên cứu lý luận về đạo đức kinh doanh 1.2. Những nghiên cứu về thực trạng đạo đức kinh doanh và xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay 1.3. Những nghiên cứu về giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh ở n ư ớ c ta 5 20 15 hiện nay CHƯƠNG 2: ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 29 2.1. Đạo đức kinh doanh 29 2.1.1. Khái niệm “kinh doanh”, “chủ thể kinh doanh”, “đạo đức kinh doanh” và “xây dựng đạo đức kinh doanh” 29 2.1.2. Những chuẩn mực căn bản của đạo đức kinh doanh 39 2.2. Sự cần thiết xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay 53 2.2.1. Vai trò động lực của đạo đức kinh doanh 53 2.2.2. Xây dựng đạo đức kinh doanh – quy luật tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 59 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 74 3.1. Những thành tựu trong xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta 73 3.1.1. Truyền thống xây dựng đạo đức kinh doanh trong lịch sử 73 3.1.2. Những kết quả bước đầu trong xây dựng đạo đức kinh doanh thời gian qua 77 3.2. Những hạn chế và vấn đề đặt ra trong xây dựng đạo đức kinh 90 doanh ở nước ta hiện nay 3.2.1. Những hạn chế trong xây dựng đạo đức kinh doanh hiện nay 90 3.2.2. Những vấn đề đặt ra trong xây dựng đạo đức doanh hiện nay 104 CHƯƠNG 4: NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO 114 ĐỨC KINH DOANH 4.1. Những yêu cầu cơ bản trong xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay 114 4.1.1. Xây dựng đội ngũ những người kinh doanh có đạo đức và năng lực 114 4.1.2. Gắn việc xây dựng đạo đức kinh doanh với việc xây dựng môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh 117 4.2. Một số giải pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta 118 hiện nay 4.2.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN với tính cách là cơ sở của đạo đức kinh doanh 118 4.2.2. Tăng cường vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức kinh doanh 128 4.2.3. Tăng cường giáo dục đạo đức kinh doanh cho đội ngũ doanh nhân, sinh viên các trường kinh tế và người lao động trong doanh nghiệp 4.2.4. Nâng cao vai trò người tiêu dùng và dư luận xã hội đối với việc xây dựng đạo đức kinh doanh 142 TÀI LIỆU THAM KHẢO 151 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCH BNN CN CNH, HĐH CNTB CNXH CT GS KHXH KHXHVN KTQD KTTT Nxb PGĐ PGS QG TNLĐ TNXH TPHCM TS TW Ban chấp hành Bệnh nghề nghiệp Cử nhân Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Chủ nghĩa tư bản Chủ nghĩa xã hội Chính trị Giáo sư Khoa học xã hội Khoa học xã hội Việt Nam Kinh tế quốc dân Kinh tế thị trường Nhà xuất bản Phó giám đốc Phó giáo sư Quốc gia Tai nạn lao động Trách nhiệm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh Tiến sĩ Trung ương 137 VS XHCN Viện sĩ Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp ThiếT của đề Tài Đạo đức là vấn đề luôn lôi cuốn sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu t rên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị. Các công trình nghiên cứu của họ đã góp phần làm rõ và hoàn thiện những phạm trù, những phẩm chất, nguyên tắc đ ạo đức cơ bản và khẳng định vai trò của nó đối với đời sống xã hội. Ở nước ta, đạo đức cũng là vấn đề thường xuyên được quan tâm nghiên cứu cả trong lý luận lẫn thực tiễn. Đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của d ân tộc, đạo đức trở thành nền tảng tinh thần truyền thống để tổ tiên vượt qua nhi ều thử thách và chiến thắng kẻ thù. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đạo đức cũn g đóng vai trò là nội lực để giúp chúng ta có thêm sức mạnh đương đầu với đế quố c, thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới – đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Người coi đạo đức là gốc, là nền tả ng của người cách mạng, là sức mạnh của mỗi con người. Chính nhờ sức mạnh ấy, người cách mạng mới vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tôi luyện, trưởng thành đ ể cống hiến nhiều hơn cho tổ quốc, cho nhân dân. Khi cả nước hòa bình, độc lập đi lên CNXH, đã có nhiều công trình nghi ên cứu vấn đề đạo đức mới, đạo đức cách mạng, nhằm mục tiêu xây dựng con người mới – nguồn lực chủ yếu để đảm bảo xây dựng thành công CNXH - đủ đức và tài. S ự quan tâm càng được chú ý hơn khi chúng ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu b ao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Phải nói rằng, kinh tế thị trường đã hình thành từ lâu trong sự phát triển của xã hội loài người, nhưng nói đến “nền kinh tế thị trường điển hình” là nói đến sự gắn bó của nó đối với nền sản xuất TBCN – một nền sản xuất chạy theo lợi nhuận tối đa. Kinh tế thị trường có những nguyên tắc vận hành, phát triển riêng, ảnh hưở ng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội, tới hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo đức, tới thói quen suy nghĩ của từng người, trong đó có những tích cực đồng thời không tránh khỏi mặt tiêu cực. 1 Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo tiến hành gần 30 n ăm qua đã đạt được nhiều thành tựu, nền kinh tế dần dần phục hồi và tăng trưởng, đ ời sống nhân dân được cải thiện. Rõ ràng, các chính sách kinh tế xã hội cùng với cơ c hế mới đã tạo điều kiện cho con người Việt Nam phát huy mọi năng lực của mình v ào quá trình sản xuất trao đổi hàng hoá. Nhờ vậy, vị thế kinh tế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Những thắng lợi đó đã khẳng định sự nghiệp đổi mới là cần thiết và đúng hướng. Tuy nhiên, việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường đã dẫn đến những biến đổi trong đời sống xã hội, xuất hiện càng nhiều hiện tượng phản đạo đ ức, phi nhân tính. Cụ thể là trong lĩnh vực kinh doanh xảy ra những hành vi trái đ ạo đức như làm hàng giả, gian lận, trốn thuế, bóc lột quá mức sức lao động của ng ười làm công, khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, xem thường trách nhiệm xã hội, v.v. gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, cản trở tiế n trình đổi mới, xây dựng đất nước, đang trở thành mối quan ngại của cả cộng đồng. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự biến đổi cũng như xây dự ng đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Tất cả các công trình đó đã đề c ập đến nhiều khía cạnh khác nhau về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đứ c, đồng thời cảnh báo nguy cơ đạo đức bị xói mòn dưới tác động của đồng tiền. Qu a đó, ít nhiều đề xuất các biện pháp nhằm bảo vệ, duy trì các chuẩn mực đạo đức truyền thống. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đi sâu v ào đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trước tình hình đó, vi ệc thực hiện đề tài “Xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay” không nhữ ng có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, cấp bách, nhằm góp phần khẳng định và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường có điều tiết và có định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích luận án Làm rõ thực chất, những chuẩn mực cơ bản và vai trò của đạo đức kinh doanh; phân tích thực trạng xây dựng đạo đức kinh doanh, qua đó đề xuất một số gi ải pháp 2 nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng và phát triển đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Thứ nhất: Làm rõ thực chất của đạo đức kinh doanh, xây dựng đạo đ ức kinh doanh, những chuẩn mực cơ bản, và sự cần thiết xây dựng đạo đức kinh doan h trong điều kiện kinh tế thị trường. - Thứ hai: Phân tích thực trạng xây dựng đạo đức kinh doanh trong đi ều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. - Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc xâ y dựng và phát triển đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay. 3. Đối Tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng của luận án là những vấn đề bản chất của xây dựng đạo đ ức kinh doanh ở nước ta hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu của luận án là đạo đức kinh doanh và xây dựng đ ạo đức kinh doanh ở Việt Nam từ khi chuyển sang kinh tế thị trường. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án - Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Ch í Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và đạo đức kinh doanh. - Luận án sử dụng các phương pháp: logic - lịch sử, phân tích - tổng h ợp, đối chiếu - so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa… 5. Những đóng góp mới của luận án - Luận án góp phần làm rõ khái niệm đạo đức kinh doanh, xây dựng đ ạo đức kinh doanh, những chuẩn mực cơ bản của nó và sự cần thiết xây dựng đạo đ ức kinh doanh ở nước ta hiện nay. - Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay. 3 - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng và phát triển đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay. 6. Ý nghĩa của luận án - Góp phần nghiên cứu đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay. - Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghi ên cứu, giảng dạy và học tập chuyên đề đạo đức kinh doanh. - Luận án còn có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác xây dựng và hoà n thiện đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay. 7. KếT cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội du ng của luận án được chia làm 4 chương, 9 tiết. 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những nghiên cứu lý luận về đạo đức kinh doanh Đạo đức kinh doanh không phải là một vấn đề mới xuất hiện trong t hế giới đương đại, mà những tư tưởng của nó đã có từ rất lâu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, phân công lao động ch ưa phát triển, trao đổi sản phẩm mới chỉ là bột phát do nhu cầu sinh tồn của các thà nh viên trong thị tộc, bộ lạc và nguyên tắc cùng làm cùng hưởng vẫn được mọi ngư ời thực hiện một cách tự nhiên thì đạo đức kinh doanh chưa xuất hiện. Khoảng 4000 năm trước công nguyên, sự phát triển của lực lượng sản x uất dẫn tới phân công lao động phát triển tạo ra ba nghề trong xã hội: chăn nuôi, th ủ công, buôn bán thương mại. Trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu, sản phẩm do la o động làm ra trở thành hàng hóa, kinh doanh xuất hiện và đạo đức kinh doanh cũng ra đời. Đây cũng là thời kỳ mới của nhân loại, có mâu thuẫn đối kháng giai cấp, có bộ máy nhà nước, con người không sống “ngây thơ thuần phác” nữa, quan hệ gi ữa con người với con người tự nhiên dẫn tới yêu cầu đạo đức: không được trộm cắ p, phải sòng phẳng trong giao thiệp “tiền trao cháo múc”, phải có chữ tín, biết tôn trọ ng các cam kết, thỏa thuận… Như vậy, đạo đức kinh doanh không phải xuất phát từ sự “tiên nghi ệm” từ “chân lý tuyệt đối” vĩnh cửu. Đạo đức kinh doanh ra đời cùng hoạt độn g kinh doanh, phát triển theo từng hình thái kinh tế - xã hội, thay đổi theo từng vù ng dân cư, lãnh thổ, nhất là đặc điểm phương Tây và phương Đông. Các tư tưởng triết lý đạo đức ở phương Đông Các triết lý đạo đức ở phương Đông hầu hết đều bắt nguồn từ Trun g Hoa. Ngay từ thời cổ đại, nhiều triết gia Trung Hoa đã có những tư tưởng chi phối sự phát triển xã hội trong một thời gian dài. Nhiều nội dung trong những tư tưởng đó trở thành những triết lý quản lý quan trọng ở mọi phạm vi hoạt động của con ng ười mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt trong sự hình thành hệ thống các kh ái niệm và chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Điển hình và nổi bật nhất là trường phái t ư tưởng của Khổng Tử và Hàn Phi Tử. Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) với Tư tưởng đức trị củ a mình 5 đã đưa ra triết lý tư tưởng sâu sắc dựa trên văn hóa tinh thần. Chữ Nhân là nhân tố cơ bản trong tư tưởng của ông. Nhân thể hiện biết yêu thương, giúp đỡ ngư ời khác và lấy đó làm phương hướng rèn luyện của bản thân. Nhân được Nho giáo coi là yếu tố quan trọng nhất, có tác dụng chi ph ối trong “ngũ thường” – nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nghĩa thể hiện phương châm của Nhân, thấy việc gì đáng làm thì làm không mưu lợi cá nhân. Theo ông, người quân tử phải thấy điều hợp lý thì làm, và phải cố gắng hết mình, “không thành công thì cũng thành nhân”. Lễ là hình thức của Nhân, chủ trương “điều mình không muốn làm ch o mình thì không nên làm cho người khác”. Thiếu yếu tố Nhân, Lễ chỉ là hình thức, g iả dối. Trí là có trí tuệ, kiến thức, biết mình biết người. Tín mang nghĩa chân thành, chân thực, là sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa nhận thức và hành động. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử chủ trương cải tổ để tạo nội lực n hằm cải thiện vị thế bằng thuật và pháp. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử nhấn mạ nh vào mặt “ác” và coi hình phạt chính là cách thức hữu hiệu để ngăn chặn. Điều nà y khác hẳn với tư tưởng đức trị của Khổng tử chú trọng đến bản tính “thiện” tro ng con người. Hàn Phi Tử cho rằng bản chất mâu thuẫn chính là sự tranh giành qu yền lợi. Ông đưa ra ba khái niệm cơ bản trong thuyết cai trị của mình là: Thế, P háp và Thuật. Tức là sử dụng quyền lực, công cụ luật pháp và cách thức sử dụng . Theo thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử, Thế - Pháp - Thuật là ba “trụ cột” của việc tr ị quốc, trị dân; mỗi nhân tố đều có tác động giúp củng cố và phát huy hiệu lực. Khác với đạo Nho của Khổng Tử, Hàn Phi Tử đặt vị trí của Thế cao hơ n Trí và Đức, coi trọng quyền thế và đòi hỏi sự phục tùng của quyền lực. Ông ch o rằng quyền lực phải được tập trung, thưởng và phạt là công cụ để cai trị. Pháp là Pháp luật, được lấy làm căn cứ để phân biệt đúng – sai, phải – trái. Pháp luật phải công bằng, công khai và phổ biến. Thuật là nghệ thuật cai trị. Trong khi Khổng tử coi trọng việc “tự cai trị ” và cai trị bằng chữ tâm và đức, thì Hàn Phi Tử lại nhấn mạnh đến nghệ thuật cai t rị gồm hai khía cạnh: kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là phương pháp, cách thứ c tuyển dụng, đánh giá và quản lý; trong khi tâm thuật là các mưu mẹo, thủ thuật khố ng chế, điều khiển hành vi.[116. 29]. 6 Đến thời Đông Chu, Phạm Lãi đã đúc kết cho bản thân và cho Thiê n hạ 16 nguyên tắc kinh doanh, trong đó thể hiện các yêu cầu về chữ tín, về trung th ực, tận tâm, về việc đảm bảo chất lượng hàng hóa, 16 nguyên tắc đó là: - 5 lời răn cho bản thân người kinh doanh: 1, Sinh ý yếu cầu khẩn; 2, D ụng đồ yếu tiết kiệm; 3, Dụng nhân yếu phương chính; 4, Lâm sự yếu trách nhiệm; 5, Thủ tâm yếu an ninh. - 5 yêu cầu khi tiếp xúc với khách hàng: 1, Tiếp nạp yếu khiêm hòa; 2, Dự khiếm yếu thức nhân; 3, Mãi mại yếu tùy thời; 4, Nghị quá yếu đinh ninh; 5, Kỳ hạn yếu ước định. - 3 yêu cầu đối với chất lượng hàng hóa: 1, Hóa sắc yếu diện nghiêm ; 2, Ưu biệt yếu phân biệt; 3, Hóa vật yếu tu chỉnh. - 3 yêu cầu đối với quản lý tiền bạc: 1, Xuất nhập yếu cẩn thận; 2, Tiền tài yếu minh phân; 3, Trương mục yếu kiết tra. Các phường hội thủ công thời phong kiến cũng rất quan tâm đến việc n âng cao uy tín đạo đức trong sản xuất và mua bán hàng hóa. Trong quan hệ với đối tác, người ta sẵn sàng chấp nhận những thiệt thòi hơn là để mất uy tín của phường hội. Sau hơn 2000 năm, những tư tưởng đạo đức trên vẫn có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống, xã hội và đến các lý thuyết quản lý và đạo đức hiện đại ngày nay, tr ong đó có đạo đức kinh doanh. Sự phát triển của tư tưởng đạo đức kinh doanh ở phương Tây Tư tưởng đạo đức học nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng ở phương Tây thường xuất phát từ những tín điều tôn giáo. Luật Tiên Tri (Law of Mos es) của Tây phương có từ lâu đời đã đưa ra những lời khuyên cho con người như: T ới mùa thu hoạch ngoài đồng ruộng, không nên gặt hái hết mà chừa một tí hoa mầ u ở bên đường cho người nghèo khó; tới ngày nghỉ lễ hàng tuần thì cả chủ và thợ cũn g được nghỉ; sau 50 năm thì mọi món nợ sẽ được hủy bỏ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristotle cũng có những quan điểm mà c ho đến nay được coi là nền móng cho đạo đức kinh doanh thời hiện đại. Ông đã n êu ra ý tưởng rằng, nhiệm vụ chính của người thủ lĩnh không phải là gia tăng quyền l ực của mình trước cấp dưới mà là tạo ra những điều kiện để mọi người dưới quyền mình có thể thể hiện được mọi năng lực ở mức cao nhất. Nhiều câu hỏi mà Arist otle đã lập ra và ngày nay có thể đang khiến các nhà quản lý hiện đại phải đau đầu đi tìm câu trả lời: “Tôi muốn người ta đối xử với tôi như thế nào khi tôi là thành v iên của 7 cơ quan?”, “Những tiền đề tiềm năng nào có được để phát triển các tài năn g và cả tiềm năng của các thành viên trong cơ quan?”, “Tôi có nhận nhiều hơn cô ng sức đóng góp của mình vào quỹ chung hay không?”, “Liệu hệ thống phân chia lợi nhuận đang có, ảnh hưởng như thế nào tới không khí đạo đức chung của cơ quan? ”, “Các nhân viên sẽ được nhận tiền thưởng chiếm bao nhiêu phần trăm số lợi nh uận thu được nhờ áp dụng các sáng kiến và ý tưởng của họ?...” Trong thời Trung Cổ, giáo hội La Mã có luật “Canon Law” đề ra tiêu chuẩn đạo đức trong một số hoạt động kinh doanh như nguyên tắc “Just wages a nd just prices” (không nên trả lương cho thợ thấp dưới mức có thể sống được). Theo thời gian, đạo đức kinh doanh càng trở thành một vấn đề nhận đượ c nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý cũng như các luật gia. Tuy nhiên, trước thời kỳ Đại Công nghiệp, công việc sản xuất, kinh doanh chủ yếu là hoạt động thủ côn g, giản đơn có quy mô nhỏ. Mối quan hệ giữa con người với nhau trong hoạt động sả n xuất, kinh doanh chủ yếu được xây đắp trên cơ sở những quy tắc đạo đức xã hội. Hành vi đạo đức kinh doanh đồng nhất với hành vi đạo đức xã hội, hay nói cách kh ác, đạo đức xã hội chính là đạo đức kinh doanh. Đạo đức kinh doanh chỉ bắt đầ u được nghiên cứu nghiêm túc và trở thành một môn khoa học kể từ nửa sau của thế kỷ XX ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây. Quá trình phát triển đạo đứ c kinh doanh trong thời hiện đại tại Mỹ - đại gia công nghiệp của thế giới - là nơi tậ p trung nhiều nghiên cứu khoa học nhất thế giới, có thể chia làm 5 giai đoạn: Trước năm 1960 – Kinh doanh cần đến đạo đức Vào những năm 1920, tại nước Mỹ xuất hiện các phong trào tiến bộ đấ u tranh đòi đảm bảo cho người lao động một mức tiền công tối thiểu, mức thu nhậ p đủ để đảm bảo cho việc tái sản xuất sức lao động. Bên cạnh đó vào những năm 19 30, làn sóng phê phán các công ty trong việc gây ra những hậu quả bất lợi về kinh t ế và xã hội dâng cao, các công ty được yêu cầu phải hợp tác chặt chẽ với chính phủ để cải thiện thu nhập và phúc lợi cho dân chúng. Tới những năm 1950, trách nhiệm về môi trường đã được nêu lên thông qua các cải cách mới và trở thành vấn đề đạo đức đối với các doanh nghiệp. Cho đến trước những năm 1960, các vấn đề đạo đ ức kinh doanh thường được thảo luận chủ yếu về mặt lý thuyết. Thông qua các tổ c hức và các hoạt động tôn giáo, các vấn đề đạo đức của cá nhân trong kinh doanh đư ợc đưa ra bàn luận rộng rãi. Các câu hỏi được nêu ra về những vấn đề như mức tiề n công xứng đáng, điều kiện lao động hợp lý. Những người tiên phong đã biên soạn những 8 bài giảng về đạo đức cho các chương trình đào tạo về tôn giáo và nhấn m ạnh các vấn đề đạo đức trong hoạt động kinh doanh, khích lệ mọi người tiết kiệm, ch ăm chỉ và nỗ lực. Những truyền thống tôn giáo như vậy đã tạo ra nền tảng cho sự ph át triển tương lai của bộ môn đạo đức kinh doanh ở phương Tây. Những năm 1960 và 1970 – Đạo đức kinh doanh trở thành một lĩnh vực khoa học Những năm 60 của thế kỉ XX xã hội Mỹ chứng kiến tình trạng tàn p há cảnh quan ở các khu đô thị và sự gia tăng các vấn đề sinh thái, như ô nhiễm không khí và xả chất thải độc hại và phóng xạ ra môi trường sống. Năm 1962 tổng thống Mỹ đưa ra Tuyên bố về Quyền của người tiêu dùng nêu rõ bốn quyền lợi mà người tiê u dùng được bảo vệ là quyền được hưởng sự an toàn, quyền được biết, quyền đ ược lựa chọn, và quyền được lắng nghe. Phong trào người tiêu dùng nở rộ với việc một loạt điều luật bảo vệ người tiêu dùng được thông qua như “Đạo luật về thực phẩ m tươi sống an toàn” (1967), “Đạo luật về kiểm soát phóng xạ an toàn” (1968), “Đ ạo luật về nước sạch” (1972) và “Đạo luật về chất thải rắn độc hại” (1976). Tới những năm 1970, đạo đức kinh doanh thực sự bắt đầu trở thành một lĩnh vực khoa học mới. Các học giả và các nhà tư tưởng tôn giáo đều đề nghị cần áp dụng một số nguyên tắc giáo lý nhất định đối với các hoạt động kinh doanh. Từ đó, các trường đại học bắt đầu viết sách và giảng dạy những vấn đề liên quan đế n trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Khi một loạt các vấn đề đạo đức kinh doa nh như hối lộ, quảng cáo lừa gạt, thông đồng về giá hay ô nhiễm môi trường nảy s inh thì đạo đức kinh doanh thật sự trở thành một từ ngữ phổ biến. Những năm 1980 – Thống nhất quan điểm về đạo đức kinh doanh Trong thời gian này các nhà nghiên cứu và thực hành đạo đức kinh doan h nhận thấy đây thực sự là một lĩnh vực khoa học đầy triển vọng. Ngày càng có nh iều đối tượng khác nhau quan tâm đến lĩnh vực đạo đức kinh doanh. Môn học này đư ợc đưa vào chương trình đào tạo của nhiều trường đại học. Đạo đức kinh doanh c ũng trở thành chủ đề được quan tâm thường xuyên ở nhiều công ty lớn, như G E, GM, Caterpillar,... Năm 1986, mười tám chủ thầu trong lĩnh vực quốc phòng đ ã cùng nhau biên soạn “Sáng kiến về hành vi và đạo đức kinh doanh của ngành công nghiệp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan