Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận án phản trinh thám trong bộ ba new york của paul auster...

Tài liệu Luận án phản trinh thám trong bộ ba new york của paul auster

.PDF
167
763
106

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI ĐẶNG THỊ BÍCH HỒNG PHẢN TRINH THÁM TRONG BỘ BA NEW YORK CỦA PAUL AUSTER Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 62.22.01.20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn GS.TS. LÊ HUY BẮC HÀ NỘI - 2016 i LỜI CAM ĐOAN Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Lê Huy Bắc và sự góp ý của các nhà khoa học. Những vấn đề được trình bày trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả luận án Đặng Thị Bích Hồng ii LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ về mọi mặt của thầy cô, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Lời đầu tiên, cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS. Lê Huy Bắc, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi những kiến thức quý giá trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức và phương pháp nghiên cứu trong quá trình học tập và thực hiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Trường Đại học Hùng Vương, Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất để tôi học tập, nghiên cứu. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ, ủng hộ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Hà Nội, tháng 8 năm 2016 Tác giả luận án Đặng Thị Bích Hồng iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 3 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 4 5. Những đóng góp mới của luận án ................................................................... 5 6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................ 5 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 6 1.1. Những nghiên cứu về truyện phản trinh thám .............................................. 6 1.1.1. Tư liệu tiếng Việt ................................................................................. 6 1.1.2. Tư liệu tiếng Anh .................................................................................. 8 1.2. Những nghiên cứu về tiểu thuyết Paul Auster ........................................... 12 1.2.1. Tư liệu tiếng Việt ............................................................................... 12 1.2.2. Tư liệu tiếng Anh ............................................................................... 14 1.3. Những nghiên cứu về Bộ ba New York ...................................................... 19 1.3.1. Tư liệu tiếng Việt ............................................................................... 20 1.3.2. Tư liệu tiếng Anh ............................................................................... 21 1.4. Những vấn đề đặt ra ................................................................................... 30 Chương 2. TRUYỆN PHẢN TRINH THÁM TRONG TIẾN TRÌNH THỂ LOẠI .. 32 2.1. Các hình thái truyện trinh thám .................................................................. 33 2.1.1. Truyện trinh thám cổ điển (The Classic Detective Fiction) .............. 33 2.1.2. Truyện trinh thám đen (The Hard– Boiled Detective Fiction) .......... 37 2.1.3. Truyện trinh thám chính trị (The Political Detective Fiction) .......... 40 2.1.4. Truyện trinh thám tâm lý (The Psychological Detective Fiction) ..... 43 2.2. Truyện phản trinh thám: bước phát triển mới của thể loại trinh thám ........ 45 2.2.1. Thuật ngữ phản trinh thám (anti–detective) ..................................... 45 2.2.2. Một số tác gia phản trinh thám tiêu biểu .......................................... 48 2.3. Từ trinh thám đến phản trinh thám: những vận động trong truyện kể ........ 56 iv 2.3.1. Những vận động trong bình diện nhân vật ....................................... 57 2.3.2. Những vận động trong bình diện cốt truyện ..................................... 62 Chương 3. HÌNH TƯỢNG THÁM TỬ ĐA DIỆN TRONG BỘ BA NEW YORK... 71 3.1. Thám tử trên hành trình giải mã điều bí ẩn ................................................ 71 3.1.1. Thám tử và các mối quan hệ đặc thù ................................................. 72 3.1.2. Mê cung trí tuệ – tính chất trò chơi trinh thám ................................ 80 3.2. Thám tử trên hành trình kiếm tìm bản ngã ................................................ 92 3.2.1. Bản ngã trong thế giới ngẫu nhiên ................................................... 92 3.2.2. Bản ngã qua gương chiếu tha nhân ................................................ 102 Chương 4. CỐT TRUYỆN PHẢN TRINH THÁM TRONG BỘ BA NEW YORK... 111 4.1. Siêu hư cấu như là nghệ thuật mờ hóa cốt truyện trinh thám .................. 112 4.1.1. Mô hình người kể chuyện nhiều tầng bậc ........................................ 112 4.1.2. Cấu trúc mở trong truyện kể ........................................................... 116 4.1.3. Quan hệ tác giả – tác phẩm và vấn đề tác quyền truyện kể ........... 122 4.2. Liên văn bản như là nghệ thuật đa tuyến cốt truyện ................................ 130 4.2.1. “Bộ ba New York” và câu chuyện ngôn ngữ .................................. 132 4.2.2. “Bộ ba New York” và câu chuyện văn hóa Mỹ .............................. 139 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 147 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .............................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 152 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài i. Barry Lewis khi bàn về “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương” đã nhận định rằng: thể loại trinh thám là một trong những ứng viên cho tư cách bạn đồng hành đúng nghĩa của hậu hiện đại bởi việc truy tầm những manh mối, cám dỗ đứng song song, gần gũi với việc độc giả săn tìm ý nghĩa văn bản. Các “luật lệ” của truyện trinh thám có khi trở thành chất liệu để nhà văn viết nên những tác phẩm phản trinh thám. Spanos, người đầu tiên đề xuất thuật ngữ phản trinh thám, nhận thấy mối quan hệ rõ ràng giữa hình thái văn học này với lối tư duy hậu hiện đại. Cả chủ nghĩa hậu hiện đại và tiểu thuyết phản trinh thám đều không đủ cơ sở để lý giải những sự việc xảy ra trong cuộc đời theo mối quan hệ nhân quả. ii. Paul Auster là một trong những nhà văn đương đại tiêu biểu trên văn đàn Âu – Mỹ. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Paul Auster đã thử bút trên nhiều thể loại. Tuy nhiên, ở lĩnh vực tiểu thuyết, nhà văn thu được nhiều thành công hơn cả. Ông là tác giả của các cuốn tiểu thuyết Bộ ba New York (The New York Trilogy – 1987), Xứ sở của những vật cuối cùng (In the Country of Last Things –1987), Moon Palace (Moon Palace – 1989), Nhạc đời may rủi (The Music of Chance – 1990), Levithan (Leviathan – 1992), Ông Vertigo (Mr. Vertigo – 1994), Vùng xa (Timbuktu – 1999), Sách của những ảo giác (The Book of Illusions – 2002), Đêm sấm truyền (Oracle Night – 2003), Những hành động điên rồ ở Brooklyn (The Brooklyn Follies – 2005), Lang thang trong phòng viết (Travels in the Scriptorium – 2006), Người trong bóng tối (Man in the Dark – 2008), Vô hình (Invisible – 2009) và Công viên Sunset (Sunset Park – 2010). Trong 14 tiểu thuyết này thì tác phẩm đầu tay là sự hội tụ của 3 tiểu thuyết riêng lẻ: Thành phố thủy tinh (City of Glass – 1985), Những bóng ma (Ghosts – 1986) và Căn phòng khóa kín (The Locked 2 Room – 1986). Cũng từ bộ ba tiểu thuyết này, tên tuổi Paul Auster ngay lập tức trở nên quen thuộc với đông đảo bạn đọc Âu – Mỹ. Tác phẩm của Paul Auster đã được dịch sang hơn 30 thứ tiếng khác nhau và thế giới vinh danh ông bằng nhiều giải thưởng uy tín, trong đó giải thưởng văn học Price Asturia mà Paul Auster đón nhận năm 2006 trước đó từng được trao cho Gunter Grass (1999), Doris Lessing (2001), Arthur Miller (2002)... Riêng Bộ ba New York, hai năm sau khi ra mắt độc giả, tác phẩm dành giải thưởng France Culture về lĩnh vực văn học nước ngoài. iii. Cũng trong bài viết “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương”, Barry Lewis khẳng định, cùng với Tên của đóa hồng (Umberto Eco) và Thám tử Hawksmoor (Peter Ackroyd), Bộ ba New York (Paul Auster) là một trong ba tác phẩm hư cấu trinh thám hậu hiện đại phổ biến nhất. Sau khi ra mắt công chúng, bộ ba tiểu thuyết này đã thu hút được sự chú ý của đông đảo độc giả cũng như giới nghiên cứu phê bình. Họ gọi nó là “phản trinh thám”, là “tiểu thuyết trinh thám siêu hình”, là “một biến tấu lạ lùng của thể loại trinh thám”, một “hỗn hợp của trinh thám và tân lãng mạn”, “một trò chơi chắp hình bằng thủy tinh”… iv. Ở Việt Nam, những sáng tác của Paul Auster đang ngày một gần gũi với độc giả. Từ năm 2007 đến nay, đã có 4 trong số 10 tiểu thuyết của ông được dịch ra tiếng Việt. Tuy nhiên việc nghiên cứu về Paul Auster vẫn còn sơ sài, đặc biệt, chưa có công trình khoa học nào đề cập đến nhà văn này với tư cách một tác giả văn học trinh thám hậu hiện đại. Vì thế, chúng tôi lựa chọn đề tài “Phản trinh thám trong Bộ ba New York của Paul Auster”. v. Thực hiện đề tài, chúng tôi hướng đến xác lập cơ sở lý thuyết để phân tích những độc đáo trong nghệ thuật tự sự phản trinh thám của Paul Auster, từ đó khẳng định xu thế vận động của văn học trinh thám trong thời kỳ hậu hiện đại. Bên cạnh đó, chúng tôi hy vọng đề tài sẽ góp phần đưa tác phẩm của nhà văn từng nhận nhiều giải thưởng danh giá của Mỹ và quốc tế cũng như 3 khuynh hướng sáng tác đang ngày một “bành trướng” văn đàn thế giới này đến gần hơn với đời sống văn chương Việt. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những khía cạnh, biểu hiện phản trinh thám trong Bộ ba New York của Paul Auster. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tiểu thuyết Bộ ba New York. Những trích dẫn tác phẩm đưa vào luận án được chúng tôi trực tiếp dịch từ cuốn The New York Trilogy của Paul Auster (Penguin Books, 2006), tham khảo bản dịch Trần trụi với văn chương của Trịnh Lữ (NXB Phụ nữ, 2007). Ngoài ra, đề tài mở rộng phạm vi tư liệu khảo sát đến những tác phẩm khác trong trường hợp cần thiết. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Đặt vấn đề “phản trinh thám trong Bộ ba New York”, chúng tôi khẳng định truyện phản trinh thám là một bước nối tiếp, phát triển của thể loại văn học trinh thám và hướng đến làm rõ những đặc trưng độc đáo trong nghệ thuật phản trinh thám của Paul Auster. So sánh với những tiểu thuyết được viết sau đó, luận án đồng thời cho thấy vai trò của Bộ ba New York trong việc định hình phong cách sáng tạo của nhà văn. Để đạt được mục tiêu này, luận án xác định ba nhiệm vụ cơ bản: Thứ nhất, hệ thống hóa, giới thiệu tiến trình vận động, phát triển của thể loại văn học trinh thám. Xuất phát từ thực tế bộ phận văn học phản trinh thám hầu như chưa được dịch thuật, nghiên cứu ở Việt Nam, chúng tôi nỗ lực khái quát diện mạo văn học trinh thám, nhấn mạnh sự khác biệt giữa trinh thám và phản trinh thám qua những tác gia, tác phẩm tiêu biểu. Thứ hai, khẳng định cách thức xây dựng hình tượng nhân vật thám tử trong Bộ ba New York là một minh chứng rõ ràng của nghệ thuật phản trinh thám. Các thám tử của Paul Auster lần lượt làm đổ vỡ những ảo tưởng của độc giả về một người hùng bất khả chiến bại. Thám tử dịch chuyển từ hành 4 trình kiếm tìm thủ phạm sang hành trình kiếm tìm chính cái tôi của mình trong một thế giới đầy rẫy sự ngẫu nhiên và bất định. Đây cũng sẽ là những chủ đề sẽ trở đi trở lại trong nhiều tiểu thuyết của Paul Auster sau này. Thứ ba, chỉ rõ nghệ thuật xây dựng cốt truyện phản trinh thám trong Bộ ba New York như một chiến lược phủ định những nguyên tắc tưởng chừng bất di bất dịch của cốt truyện trinh thám. Siêu hư cấu, liên văn bản là hai thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu giúp Paul Auster mờ hóa cốt truyện dramatic và gài vào tiểu thuyết những câu chuyện bên ngoài khuôn khổ truyện trinh thám. Những câu chuyện này đồng thời định hình phong cách tiểu thuyết Paul Auster trong các sáng tác tiếp theo. 4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp cơ bản sau: – Phương pháp loại hình: từ quá trình nhận diện sáng tác của các tác giả văn học trinh thám tiêu biểu, luận án mô hình hóa các hình thái truyện trinh thám trong tiến trình vận động thể loại, qua đó thấy được những đổi mới trong cách thức tổ chức truyện kể từ trinh thám đến phản trinh thám. – Phương pháp tự sự học: sử dụng những khái niệm công cụ của tự sự học, chúng tôi đi vào phân loại, miêu tả, phân tích những phương diện cơ bản của tự sự phản trinh thám trong Bộ ba New York. Từ đó, chúng tôi đánh giá tác phẩm như một chỉnh thể của thế giới nghệ thuật mang tính quan niệm. – Phương pháp so sánh: triển khai đề tài trong thế đối sánh giữa Bộ ba New York với các tác phẩm trinh thám của những thời kỳ trước đó để chỉ ra đặc thù của văn chương hậu hiện đại, với các tiểu thuyết sau này của Paul Auster để chỉ ra phong cách nghệ thuật của nhà văn. – Phương pháp nghiên cứu lịch sử – văn hóa: đặt Bộ ba New York trong bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa của Mỹ nói riêng và toàn cầu nói chung để chỉ ra tính dân tộc, tính nhân loại của tác phẩm, từ đó nhấn mạnh khả năng phát triển của tiểu thuyết phản trinh thám trong thời kỳ hậu hiện đại. 5 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án giới thiệu, hệ thống hóa những nghiên cứu về thể loại văn học trinh thám trong tiến trình vận động từ truyện trinh thám đến phản trinh thám. Đặc biệt, trước luận án này, bộ phận văn học phản trinh thám hầu như chưa được dịch thuật, nghiên cứu ở Việt Nam. Nỗ lực khái quát diện mạo văn học trinh thám có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những đối tượng quan tâm đến thể loại văn học này. Trên cơ sở lý thuyết, luận án thể nghiệm nghiên cứu một hiện tượng văn học đương đại tiêu biểu và đa trị: tiểu thuyết phản trinh thám của Paul Auster. Chúng tôi đưa ra một góc nhìn khác khi tiếp cận tính chất phản trinh thám trong Bộ ba New York, đó là những phương diện cơ bản của tự sự học với các thủ pháp thuộc về hư cấu hậu hiện đại, từ đó chỉ ra thế giới nghệ thuật đặc thù trong sáng tác phản trinh thám của Paul Auster. Qua sự khái quát lý thuyết và liên hệ mở rộng trong quá trình thể nghiệm lý thuyết, chúng tôi khẳng định sự chuyển dịch vị thế của văn học phản trinh thám từ khu vực văn chương đại chúng sang khu vực văn chương bác học đồng thời chỉ ra khả năng phát triển của thể loại văn học này trong bối cảnh hậu hiện đại. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được cấu trúc thành bốn chương: Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2. Truyện phản trinh thám trong tiến trình thể loại Chương 3. Hình tượng thám tử đa diện trong Bộ ba New York Chương 4. Cốt truyện phản trinh thám trong Bộ ba New York 6 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu về truyện phản trinh thám Truyện trinh thám khởi nguồn từ Edgar Allan Poe nhưng mãi đến thế kỉ XX các nhà phê bình mới thực sự chú ý đến thể loại này. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự “lập thuyết” về thể loại văn học trinh thám được khởi đầu từ năm 1928 với công trình của Van Dine: Hai mươi quy tắc xây dựng truyện trinh thám (Twenty Rules for Writing Detective Stories). Đến năm 1972, William Spanos đề xuất thuật ngữ “phản trinh thám” trong bài viết Thám tử và giới hạn: vài lưu ý về hư cấu văn chương hậu hiện đại (The Detective and the Boundary: Some Notes on the Postmodern Literary Imagination). Từ đó đến nay, việc nghiên cứu về truyện phản trinh thám đã thu hút được sự quan tâm của không ít học giả. Ở đây, chúng tôi tổng thuật tình hình nghiên cứu về truyện phản trinh thám từ hai nguồn tư liệu tiếng Việt và tiếng Anh, tập trung vào hai nội dung lớn: quan niệm về truyện phản trinh thám và đặc trưng cơ bản của hình thái văn học này. 1.1.1. Tư liệu tiếng Việt Tìm hiểu về truyện trinh thám trong diễn ngôn phê bình văn học Việt Nam, chúng tôi thấy thể loại này chiếm một vị thế đáng kể. Nhiều công trình nghiên cứu kinh điển về truyện trinh thám của các học giả nổi tiếng thế giới đã được chuyển dịch sang tiếng Việt. Ngoài ra, không ít tác giả Việt Nam đã trực tiếp đưa ra những luận bàn sâu sắc về văn học trinh thám. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu hình thái truyện phản trinh thám. Lê Huy Bắc là người duy nhất đề cập đến một nhánh phát triển của thể loại văn học trinh thám trong bối cảnh hậu hiện đại với khái niệm giả trinh thám (pseudo detective). 7 Bàn về giả trinh thám như một trong năm khuynh hướng chính của văn chương hậu hiện đại, Lê Huy Bắc lập luận: các nhà văn hậu hiện đại nỗ lực chống lại nguy cơ đại tự sự của những trạng thái tĩnh, vì vậy, họ “thường đặt nhân vật của mình trên hành trình. Đối với con người hậu hiện đại, mục đích của hành trình không bao giờ quan trọng bằng chính hành trình. Do vậy, hành trình là tiêu chí tối thượng trong hành động nhân vật. Nếu dừng lại, con người sẽ thỏa mãn và như thế ứng với mỗi chặng dừng trên hành trình, rất có thể một đại tự sự được thiết lập. Do vậy, “đi” đồng nghĩa với tạo lập những tiểu tự sự trên đời” [13,89-90]. Trong khi đó, “Truyện trinh thám đặt nền tảng trên “hành trình”, trên một tình huống một sự việc li kì, bí ẩn nào đó, thường liên quan đến một vụ án” [13,90]. Khi nhà văn hậu hiện đại sáng tạo bằng con đường giả trinh thám, theo Lê Huy Bắc, “thực chất họ ‘giả cốt truyện’ hoặc ‘giả nhân vật trinh thám’. Họ giữ nguyên mục đích truy tìm vốn là bản chất của truyện trinh thám, nhưng lại thay đổi mục đích truy tìm bằng cách đan cài vào đó nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện. Mục đích là tái hiện sự hỗn độn của cuộc sống, sự mù mịt không có lối thoát khi thám tử tham gia vào cuộc truy tìm, và trong đa số trường hợp, trinh thám hậu hiện đại đặt mục tiêu là trinh thám ngay chính cái tôi bản thể con người” [13,90]. Không đặt vấn đề thuật ngữ nhưng trong bài viết của mình, Lê Huy Bắc đã kiến giải sự gần nhau giữa truyện giả trinh thám và văn chương hậu hiện đại. Tác giả nhấn mạnh các biểu hiện của giả trinh thám trong thực tiễn sáng tạo. Về bản chất, “giả trinh thám” đồng nhất với “phản trinh thám”. Các học giả phương Tây sử dụng đồng thời hai thuật ngữ này khi bàn về một xu hướng vận động mới của văn học trinh thám. Ở đây, chúng tôi lựa chọn thuật ngữ “phản trinh thám” vì nó đã được các nhà nghiên cứu sử dụng rộng rãi khi nói về bộ ba tiểu thuyết đầu tay của Paul Auster. 8 1.1.2. Tư liệu tiếng Anh Truyện trinh thám trong sáng tạo và phê bình văn học phương Tây vẫn đang trong quá trình vận động và trở thành một bộ phận không thể tách rời của văn chương hậu hiện đại. Tổng quan tình hình nghiên cứu về truyện trinh thám ở mảng tư liệu tiếng Anh, chúng tôi thấy những quan điểm luận bàn về thể loại văn học này vẫn không ngừng được bổ sung, mở rộng theo những biến đổi của thực tiễn sáng tạo. Theo đó, những nghiên cứu về truyện phản trinh thám đã tạo ra sự biện giải mới về thể loại trong lịch sử phát triển của nó. Trong công trình Tự quy chiếu như là siêu hư cấu trong tiểu thuyết trinh thám (Self–Referentiality as Metafictionality in Detective Fiction), Malcah Effron xác định: minh chứng quan trọng của sự tự quy chiếu trong tác phẩm trinh thám nằm ở nghệ thuật tự sự. Nó khám phá mối quan hệ giữa giới hạn hiện thực và giới hạn hư cấu. Về bản chất của hiện thực, tác giả quan niệm: “Hình thức tự quy chiếu phát lộ bản chất của hiện thực là một điều bí ẩn mà thể loại văn học trinh thám không (và có lẽ không thể) lý giải” [106,ii]. Công trình của Malcah Effron không đề cập đến thuật ngữ “phản trinh thám” nhưng chúng tôi cho rằng, quan niệm về hiện thực như vậy cũng tức là đặt truyện trinh thám ra ngoài truyền thống vốn có của thể loại. Nói cách khác, truyện trinh thám được tác giả soi ngắm từ bối cảnh văn chương hậu hiện đại. Trong cuốn “Chủ nghĩa hậu hiện đại quốc tế: lý thuyết và thực tiễn văn học” (International Postmodernism: Theory and Literary Practice), Hans Bertens công bố bài viết Trinh thám (The Detective). Thực tế, công trình này là sự lược thuật của Hans Bertens về những nghiên cứu phản trinh thám. Kết nối tên cuốn sách, tên bài viết và nội dung bài viết, có thể khẳng định, Hans Bertens đồng nhất khái niệm “phản trinh thám” với “trinh thám hậu hiện đại”. Tác giả đặt vấn đề bằng cách dẫn lại quan điểm của Brian McHale về sự phân biệt tiểu thuyết hiện đại và hậu hiện đại. Trong công trình Tiểu thuyết 9 hậu hiện đại (Postmodernist Fiction), Brian McHale cho rằng: tiểu thuyết hiện đại chủ yếu liên quan đến những vấn đề nhận thức luận thông qua sự truy vấn ráo riết các câu hỏi “Làm thế nào tôi có thể giải thích thế giới mà bản thân tôi là một phần trong đó? Và tôi là gì trong chính cái thế giới ấy?” [93,195], tiểu thuyết hậu hiện đại hướng sự quan tâm tới những vấn đề có tính chất bản thể học và cái chủ đề gần như là duy nhất ấy xoay quanh các câu hỏi: “Đó là thế giới nào? Những gì sẽ được thực hiện trong thế giới ấy? Cái tôi nào của tôi sẽ tham dự vào đó?” [93,195]. Tác giả tuyên bố tiểu thuyết khoa học – thể loại bản thể học tiêu biểu là đại diện của chủ nghĩa hậu hiện đại và tiểu thuyết trinh thám – thể loại nhận thức luận tiêu biểu là đại diện của chủ nghĩa hiện đại. Tuyên bố của McHale đồng thời hé lộ một phả hệ làm nên mối quan hệ giữa tiểu thuyết trinh thám và chủ nghĩa hiện đại. Năm 1971, Michael Holquist chỉ ra rằng, cái gọi là thời kỳ hoàng kim của văn học trinh thám với nghĩa “những câu chuyện trò chơi thuần túy, suy luận thuần túy, được nối tiếp bởi Edgar Poe, Conan Doyle, Agatha Christie” [93,196] lại trùng khớp một cách kỳ lạ với thời kỳ cực thịnh của chủ nghĩa hiện đại. Tuy nhiên, nếu McHale nhìn thấy mối quan hệ trực tiếp giữa tiểu thuyết hiện đại và tiểu thuyết trinh thám thì Holquist lại tuyên bố một mối quan hệ ngược: tiểu thuyết hiện đại thuộc về khu vực văn học bậc cao và ngược lại, tiểu thuyết trinh thám thuộc về khu vực văn học bậc thấp. Trong bối cảnh chủ nghĩa duy lý đứng trước những đe dọa nghiêm trọng, người trí thức – đối tượng trải nghiệm đầu tiên và sâu sắc nhất những đổ vỡ của thế giới – sử dụng thời gian của mình cho các tác phẩm của cả James Joyce lẫn Agatha Christie. Lập luận của Holquist hướng tới mục đích lật đổ sự hợp lý ưu việt và vị trí tối thượng của thể loại văn học trinh thám. Ông đưa ra thuật ngữ truyện trinh thám siêu hình (metaphysical detective story) và nhận diện điểm khác biệt của tiểu thuyết trinh thám hậu hiện đại là sự giảm thiểu khả năng nhận thức luận của thể loại 10 bằng việc áp dụng thái độ phi mục đích luận. Nó từ chối “có một kết thúc gọn gàng, nơi tất cả các vấn đề đều được giải đáp” [93,197]. Một năm sau khi Holquist công bố quan điểm của mình về sự hoán vị hậu hiện đại của tiểu thuyết trinh thám, William Spanos tiếp tục chủ đề này qua bài viết Thám tử và giới hạn: vài lưu ý về hư cấu văn chương hậu hiện đại (The Detective and the Boundary: Some Notes on the Postmodern Literary Imagination). Cũng ở đây, tác giả khai sinh thuật ngữ truyện phản trinh thám (anti–detective story). Phản trinh thám thể hiện tập trung ở sự từ chối xây dựng tác phẩm theo quan hệ nhân quả với mô hình mở đầu, trung tâm, kết thúc. Gần với cách tiếp cận của Holquist và Spanos, Stefano Tani trong Thám tử bị kết tội: đóng góp của tiểu thuyết trinh thám vào văn xuôi hậu hiện đại Mỹ và Ý (The Doomed Detective: The Contribution of the Detective Novel to Postmodern American and Italian Fiction) quan niệm tiểu thuyết phản trinh thám “đi ngược lại những mong đợi của độc giả và thay thế nhân vật thám tử như những hình tượng trung tâm bằng việc gia tăng sự giải tâm và hỗn độn vào điều bí ẩn” [93,197]. Đặt trong mối quan hệ với truyền thống thể loại văn học trinh thám, Tani chỉ ra sự phá vỡ cấu trúc thể loại của một nhánh tiểu thuyết mà ông gọi là phản trinh thám siêu hư cấu (metafictional anti– detective novel). Điểm nhấn trong ý tưởng của Tani là truyện trinh thám với một giải pháp không phải dựa trên công lý. Không nằm trong sự lược thuật của Hans Bertens về nghiên cứu thể loại văn học trinh thám nhưng ở bài viết Cấu trúc bất biến và linh hoạt của Major và truyền thống phản trinh thám (Major’s Reflex and Bone Structure and the Anti–Detective Tradition), Larry McCaffery và Sinda Gregory trước khi bàn về tác phẩm của Major đã luận giải khái quát tiến trình vận động thể loại từ truyện trinh thám cổ điển đến phản trinh thám. Truyện trinh thám cổ điển tạo 11 ra công thức quen thuộc: “Có một tội ác, có vô số những manh mối, có một thám tử với năng lực suy luận logic và lý trí để làm sáng tỏ các manh mối và cuối cùng, có một kết cục tất yếu là sáng rõ con đường tội ác và lý giải động cơ của nó” [131,39], trong đó, “vai trò quan trọng thuộc về cả bạn đọc và tác giả – vai trò nhận thức hiện thực, nhận thức bản chất bắt chước của hư cấu và quan trọng hơn, nhận thức quy luật vận động tự thân của hiện thực” [131,39]. Mô hình này được tạo thành từ các nhà văn trinh thám thế kỷ XIX và tiếp tục được kế thừa trong sáng tác của một số cây bút tên tuổi trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, thế kỷ XX với sự hoài nghi nhận thức, với nguyên tắc không xác định, không chắc chắn và nguyên tắc tương đối, với sự xuyên tạc nhận thức về ranh giới của suy luận diễn dịch và quy nạp đã thay đổi những cơ chế của truyện trinh thám. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ này, sự đổi thay đó dẫn tới xu hướng vô cảm trong tiểu thuyết trinh thám – một biểu hiện mới của thể loại được mô tả bởi sự thô bạo dữ dội, một sự pha trộn độc đáo giữa thuyết hoài nghi và chủ nghĩa lãng mạn, và trên tất cả, một sự phủ nhận tính có lý do. Khung cốt truyện về cuộc điều tra thậm chí trở thành mô hình yêu thích của các nhà văn hậu hiện đại khi họ đưa nhân vật vào tình huống đối mặt với bản chất của tồn tại. Phản trinh thám, theo đó, kế thừa những quy tắc cơ bản của chủ nghĩa hoài nghi siêu hình để phát triển thành loại tiểu thuyết “vận dụng, phỏng nhại những hình thức, nguyên tắc của tiểu thuyết trinh thám (…) và khái niệm đầy đủ về nhân vật thám tử với tư cách là người siêu lí luận để phát lộ mọi trật tự và ý nghĩa không những bị phủ nhận mà còn thường xuyên bị giễu nhại” [131,39–40]. Có thể thấy, truyện trinh thám trong lịch sử nghiên cứu phê bình văn học phương Tây vẫn liên tục phát triển, thậm chí, phản biện nhau theo sự vận động của thực tiễn sáng tạo. Không ít công trình đã hướng sự quan tâm đến hình thái truyện phản trinh thám – một biểu hiện của sự đổi thay thể loại gắn 12 liền với sự đổi thay bối cảnh lịch sử xã hội. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào khái quát trọn vẹn tiến trình của thể loại văn học này. 1.2. Những nghiên cứu về tiểu thuyết Paul Auster Paul Auster tên đầy đủ là Paul Benjamin Auster, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1947 tại Newark, New Jersey trong một gia đình Do Thái gốc Ba Lan. Gia đình Paul Auster thuộc hàng trung lưu nhưng cuộc hôn nhân của cha mẹ ông không suôn sẻ. Ông lớn lên ở vùng ngoại ô Newark, thuộc South Orange và tốt nghiệp trung học Columbia ở Maplewood. Năm 1970, sau khi tốt nghiệp cử nhân ngành tiếng Anh và văn học so sánh tại Trường Đại học Columbia, Paul Auster đến Paris và kiếm sống bằng việc dịch các tác phẩm văn học Pháp. Bốn năm sau trở về Mỹ, bên cạnh việc tiếp tục dịch văn của Stesphane Mallarmé, Joseph Joubert,… Paul Auster bắt đầu con đường sáng tác văn học bằng thơ ca, tiểu luận và tiểu thuyết. Đến nay, việc nghiên cứu về Paul Auster đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Cũng như cách tiếp cận tổng quan về truyện phản trinh thám, chúng tôi sẽ tổng thuật tình hình nghiên cứu về Paul Auster từ hai nguồn: tư liệu tiếng Việt và tư liệu tiếng Anh. 1.2.1. Tư liệu tiếng Việt Năm 2007, tiểu thuyết của Paul Auster lần đầu tiên được giới thiệu ở Việt Nam với hai tác phẩm Trần trụi với văn chương (The New York Trilogy) và Nhạc đời may rủi (The Music of Chance). Tiếp đó, một số tiểu thuyết khác của Paul Auster đã được dịch và giới thiệu như Người trong bóng tối (2008), Moon Palace (2009). Năm 2013, Khởi sinh của cô độc (The Invention of Solitude) – sáng tác văn xuôi đầu tay mang màu sắc tự truyện của Paul Auster cũng được chuyển ngữ sang tiếng Việt. Có thể thấy, đời sống văn học Việt đang ngày càng tiệm cận với sự nghiệp của một tác giả tầm vóc quốc tế. Những tiểu thuyết của Paul Auster được dịch ra tiếng Việt không chỉ được 13 nhắc tới trong những trang điểm sách, những bài báo khoa học mà còn trở thành đối tượng nghiên cứu của các công trình khoa học ở nhiều cấp khác nhau. Tuy nhiên, đến thời điểm này, tình hình nghiên cứu về Paul Auster ở Việt Nam nhìn chung vẫn chưa xứng tầm với tài năng, đóng góp của nhà văn. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Paul Auster ở Việt Nam, chúng tôi chú ý tới một số ý kiến của Lê Huy Bắc, Nguyễn Thị Thanh Hiếu thông qua những bài báo và công trình luận án đã được bảo vệ. Lê Huy Bắc khi bàn về “Paul Auster và Nhạc đời may rủi” đã dành một dung lượng tương đối lớn để khái quát tư tưởng nghệ thuật trong sáng tác của Paul Auster. Tác giả khẳng định, dưới ảnh hưởng những học thuyết triết học của Nathaniel Hawthorne, Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Lacan,… Auster đã thiết lập được một hệ đề tài riêng trong sự nghiệp sáng tác của mình, đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên (coincidence), cảm giác về thảm hoạ sắp xảy ra (a sense of imminent disaster), sự đánh mất khả năng nhận thức (loss of the ability to understand), đánh mất ngôn ngữ (loss of language), khai thác cuộc sống đời thường (depiction of daily and ordinary life), tính liên văn bản (intertextuality) và metafiction – một thể loại văn xuôi hư cấu hướng việc viết lách vào nội dung viết lách, khiến người đọc bao giờ cũng ý thức về việc mình đang theo dõi cách thức một cuốn tiểu thuyết được hình thành như thế nào… Xếp Paul Auster vào vị thế bậc thầy trong những cây bút hậu hiện đại thế giới, tác giả chỉ ra “lối trần thuật mang đậm tính triết học, chuyển tải cái nhìn hài hước, có lúc mỉa mai đầy chua xót về cuộc đời và con người trong thời kỳ các giá trị vật chất lên ngôi, và tinh thần của nhân loại cùng quẫn…” [11,74]. Tiếp tục minh chứng vị thế của Paul Auster trong bối cảnh văn chương đương đại, công trình Đặc trưng bút pháp hậu hiện đại trong tiểu thuyết Paul Auster của Nguyễn Thị Thanh Hiếu luận bàn chi tiết một số đặc trưng chính yếu trong tiểu thuyết Paul Auster, từ cảm quan về đời sống, nghệ thuật đến 14 chiến lược siêu hư cấu, liên văn bản. Tác giả nhận định: “Paul Auster cảm nhận đời sống trong tính chất ngẫu nhiên, hỗn độn, hài hước mà cũng đầy bi đát. Đối với nghệ thuật, nhà văn giữ một cái nhìn dân chủ khi đánh giá sứ mệnh của nó cũng như khi hành xử với ngôn ngữ. Tâm thức hậu hiện đại này đã soi rọi mọi đường hướng sáng tạo của nhà văn mà siêu hư cấu và liên văn bản được xem là hai chiến lược quan trọng nhất” [43,148]. 1.2.2. Tư liệu tiếng Anh Trên văn đàn thế giới, Paul Auster đã khẳng định được vị thế của mình từ những năm 80 của thế kỷ XX và các công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông cũng đã tạo thành một hệ thống khá phong phú. Năm 1995, Dennis Barone trong Paul Auster và tiểu thuyết hậu hiện đại Mỹ (Paul Auster and the Postmodern American Novels) đã tiên đoán rằng, nghiên cứu học thuật chuyên sâu về Paul Auster sẽ tăng theo cấp số nhân trong những năm cuối thập niên 1990. Quả đúng như thế. Sáng tác của Paul Auster đã trở thành đối tượng của những cuốn sách chuyên khảo, luận án, luận văn, tiểu luận, bài báo khoa học… Ở đây, chúng tôi không tiếp cận tư liệu nghiên cứu về Paul Auster theo chủ đề mà tiếp cận theo nhóm tư liệu bởi mỗi tư liệu gần như đặt ra một khía cạnh khác nhau trong việc “đọc” Paul Auster. Theo đó, chúng tôi phân loại các tư liệu thành hai nhóm: sách chuyên khảo và các bài báo, công trình luận án đã công bố. Ở nhóm thứ nhất, chúng tôi đặc biệt chú ý đến ba cuốn chuyên khảo đã nghiên cứu chi tiết, kỹ lưỡng về sự nghiệp văn chương của Paul Auster, đó là Một nghệ thuật của ước vọng: đọc Paul Auster (An Art of Desire: Reading Paul Auster) của Bernd Herzogenzath, Thế giới như là cuốn sách – tiểu thuyết của Paul Auster (The world that is the book – Paul Auster’s fiction) của Aliki Varvogli và Tính chất hậu hiện đại của Paul Auster (Paul Auster’s postmodenity) của Brendan Martin. 15 Ở nhóm thứ hai, chúng tôi chú ý tới luận án Tiểu thuyết hậu hiện đại của Paul Auster: Giải cấu trúc “Thi pháp học” của Aristotle (Paul Auster's Postmodernist Fiction: Deconstructing Aristotle's Poetics) của Dragana và bài báo Cái ngẫu nhiên trong tự sự đương đại: Trường hợp Paul Auster (Chance in Contemporary Narrative: The Example of Paul Auster) của Stephen E.Alford. Năm 1999, Herzogenrath ra mắt cuốn sách Một nghệ thuật của ước vọng: đọc Paul Auster. Với niềm tin thi pháp Paul Auster có sự gặp gỡ quan trọng với lý thuyết hậu cấu trúc của Jacques Lacan và Jacques Derrida – Lacan với thuyết phân tâm học chủ thể (psychoanalytical theory of the subject) và Derrida với giải cấu trúc tính siêu hình của sự hiện diện (deconstruction of the metaphysics of presence) – Herzogenrath đề xuất lối đọc Lacanian/Derridean cho bốn tiểu thuyết của Paul Auster. Tác giả khám phá mối quan hệ giữa Thành phố thủy tinh, Xứ sở của những vật cuối cùng, Moon Palace và Nhạc đời may rủi với sự giải cấu trúc công thức thể loại cũng như mối quan hệ giữa những tiểu thuyết này với các khái niệm: lý thuyết thảm họa (catastrophy theory), đi vào cõi chết (death drive), nghĩa kép may rủi (double meaning of chance), cái cao cả (the sublime), phép biện chứng chủ/tớ (master/slave dialectics), hội chứng tự mê (narcissism), khải huyền (apocalypse), ngôn ngữ trước/sau sa ngã (prelapsarian/postlapsarian language). Tuy nhiên, trọng tâm của nghiên cứu tập trung ở khái niệm ước vọng (desire) – jouissance – một khái niệm quan trọng trong tác phẩm của cả Paul Auster và Lacan cùng những biểu hiện cụ thể của khái niệm này trong sáng tạo của Paul Auster. Theo đó, công trình 245 trang của Herzogenrath gồm bốn chương cốt lõi ứng với bốn tiểu thuyết được dùng làm đối tượng khảo sát. Những phân tích văn bản trong mỗi chương được định hướng bởi sự khái quát nguyên tắc thể loại như một cái “khung” mà tác phẩm khuôn vào và từ đó, Herzogenrath kết luận: Thành phố thủy tinh là sự giải cấu trúc tiểu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan