1
BÀI THẢO LUẬN MÔN NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Nhóm 5
Thành viên:
Nguyễn Thị Thảo Ngân (nhóm trưởng)
Lê Thị Phương Thảo
Trần Thị Hoàn
Thiều Thị Hường (thư ký)
Trần Thị Lan Hương
Hoàng Minh Nhật
Tạ Minh Anh
Mai Thị Ngoan
Trần Thị Huyền
Vũ Thị Thu Thúy
Nguyễn Thị Khánh Trinh
2
Đề tài: Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Liên hệ Việt
Nam.
Bài làm:
Lợi ích và bất lợi của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
I.
1.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
a.
Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt
là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước
khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước
ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt
FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư
lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong
những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các
tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
b.
Nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất
cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng
thêm một đơn vị của yếu tố sản xuất)của vốn giữa các nước. Một nước thừa
vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có
năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn
từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản
xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như
vậy không có nghĩa là tất cả những hoạt động nào có năng suất cận biên cao
3
mới được các Doanh nghiệp đầu tư sản xuất mà cũng có những hoạt động quan
trọng, là sống còn của Doanh nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dù hoạt động
đó cho năng suất cận biên thấp.
Chu kỳ sản phẩm
Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kỳ sống
của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới;
giai đoạn sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Akamatsu
Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở
nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu rathị trường nước ngoài. Tại
nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản
địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm
nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài(giai
đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị
trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai đoạn sản
phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình
thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai
đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản
phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải
tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó
dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp
chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp
hơn.
Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman
A. A. (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những
lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những
trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có
các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc
thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công
nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường
là thị trường tiêu thụ tiềm năng... ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc này!
Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương
mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do
4
Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại
trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp
vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu
Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư
trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và
châu Âu.
Tiếp cận và chuyển giao công nghệ
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát
triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước
tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ,
các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng
các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không
chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có
chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung
Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc
gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận
công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc)
trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCLThompson Electroincs,
việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu
lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào
những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài lớn đầu tiên củaNhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của
Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự.
2.
Hình thức đầu tư
a.
Phân theo bản chất đầu tư
Đầu tư phương tiện hoạt động
Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua
sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình
thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
Mua lại và sáp nhập
5
Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có
vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể
đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh
nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới
tăng khối lượng đầu tư vào.
b. Phân theo tính chất dòng vốn
Vốn chứng khoán
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do
một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào
các quyết định quản lý của công ty.
Vốn tái đầu tư
Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ
Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể
cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
c. Phân theo động cơ của nhà đầu tư
Vốn tìm kiếm tài nguyên
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào
ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá
thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn
nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như
các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của
nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài
nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.
Vốn tìm kiếm hiệu quả
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước
tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như
điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh
doanh rẻ, thuế suất ưu đãi,điều kiện pháp lí v.v...
Vốn tìm kiếm thị trường
6
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị
đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận
dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu
vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu
vực và toàn cầu.
3. Lợi ích của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế
VN từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản
xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào VN trong một số ngành kinh tế quan trọng
của đất nước như viễn thông, khí hòa dầu,tin học, ô tô.....
Trước hết ta phải khẳng định là: Đầu tư nước ngoài đem lại nhiều lợi ích cho
thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là những nước đang phát triển như VN.
Đem lại nguồn vốn để phát triển kinh tế: Trong các lí luận về tăng
trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế
muốn tăng trưởng nhanh hơn,nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn
trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước
ngoài, trong đó có vốn FDI. VN là một trong những nước đang phát
triển, vì vậy mà chúng ta rất cần ngồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Việc huy động, thu hút vốn từ nước ngoài sẽ giúp nước ta có ngồn
vốn để sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, tận dụng và khai
thác hiệu quả các nguồn lực của đất nước như: tài nguyên thiên
nhiên, khí hậu,…
Khi thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chúng ta còn có thể
thu hút được khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới: điều đó góp
phần nâng cao năng suất lao động, phát triển kinh tế trong nước, thu
hút được các chuyên gia nước ngoài vào làm việc, từ đó tạo điều
kiện cho đội ngũ kĩ sư trong nước có điều kiện học hỏi, trau dồi
kiến thức, kinh nghiệm tiến tới làm chủ công nghệ.
7
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể
huy động được phần nào bằng” chính sách thắt lưng buộc bụng”.
Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lí thì không thể có được
bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp
một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lí kinh
doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và
bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công
nghệ và bí quyết quản lí đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ
thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là ở các vùng kinh
tế còn kém phát triển: từ đó góp phần nâng cao mức sống của
người dân, tránh lãng phí nguồn lực lao động (nước ta lại là một
nước có cơ cấu dân số trẻ có nguồn lực lao động dồi dào). Vì một
trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt
được chi phí sản xuất thấp, nên công ty có vốn đầu tư nước ngoài
sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ
phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào
tăng trưởng kinh tế của địa phương. Thu nhập của một bộ phận
dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào
tạo các kĩ năng nghề nghiệp mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ
và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được công ty
cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kĩ năng cho
nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường mà cả các
nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi
dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ở VN, bình quân trong thời kì 20052010 khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đã tạo việc làm thêm cho khoảng 16 vạn việc làm mỗi
năm. Ngoài ra khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra
khoảng vài triệu lao động gián tiếp trong 6 năm qua.
8
Giúp tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà Nước: Đối với nhiều
nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các
xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách
quan trọng. FDI cũng đã giúp VN có một bước tiến lớn hơn vào các
thị trường quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của VN. FDI
chiếm một tỉ lệ đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của
VN, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong ngành may mặc
và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện
Học tập được kinh nghiệm quản lí, lãnh đạo điều hành doanh
nghiệp công ti chuyên nghiệp của các nước tiên tiến hơn. Từ đó góp
phần nâng cao năng lực quản lí, điều hành của các nhà lãnh đạo
trong nước
Tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trong nước: khi thu hút FDI từ các công ty đa
quốc gia, không chỉ công ty có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia
mà ngay cả các công ty khác trong nước có quan hệ làm ăn với công
ty cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì
vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất
toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
Tạo đà phát triển cho kinh tế trong nước: việc Việt Nam đã công
nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang ngày càng đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam trên nhiều
phương diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả năng thanh toán quốc
tế, phát triển xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế,…FDI
đã hỗ trợ VN một cách tích cực trong việc mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại để VN gia nhập ASEAN, kí kết thỏa thuận chung với
EU, bình thường hóa và thỏa thuận thương mại song phương với
Mỹ.
Trong những năm gần đây, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã
tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường vốn cũng đồng nghĩa với
việc Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực, nhất là khi khả năng hấp thụ
9
vốn của nền kinh tế Việt Nam là chưa cao. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có
nhiều tác động tích cực, nhưng tác động đó không tự nhiên xảy ra.
4.
Bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mặc dù FDI đã mang lại nhiều lợi ích cho nước trực tiếp nhận đầu tư, nhưng
nó cũng có không ít những bất lợi gây thua thiệt ảnh hưởng xấu cho họ. Trong
quá trình thu hút và quản lý FDI, các nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có thể phải đối điện với những bất lợi sau:
Thứ nhất, thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư này chỉ
thực sự tích cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm
tăng cung những hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết
bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm lực xuất
khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu
ngân sách cho nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá
tiền tệ thực tế. Ngược lại, nếu thiên về khuynh hướng kích
thích nền kinh tế bong bóng, kích thích và thoả mãn những tiêu
dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết
của nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho
các nguồn lực tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân
đối tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực lạm phát
tương lai của đất nước.
Thứ hai, nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn
phần “mềm”) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển
giao những công nghệ lạc hậu, thì mặc nhiên “những lợi thế
tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ bị tước bỏ – đó là một
mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện
được tình trạng công nghệ, khả năng xuất khẩu, mà còn phải
chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ “bất
cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn
phải kể thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác nước
ngoài về kinh tế – kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư
kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ không
10
như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ
nhà bỏ ra, cả về chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức
“một tiền gà, ba tiền thóc”.
Thứ ba, để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính
toán của các chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có
sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn.
Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng lượng
cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng.
“Hợp lực” của những yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm
phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra.
Thứ tư, cần tính đến tác động kinh tếxã hội và môi trường tổng
hợp của các dự án FDI, nhất là các dự án dùng nhiều đất nông
nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là nguồn phát thải, gây ô
nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự án xây
dựng sân golf ở đồng bằng, vùng đất màu mỡ và những dự án
“bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ
làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai.
Thứ năm, các nước nhận đầu tư có thể phải tiếp nhận những
công nghệ và kĩ thuật lạc hậu, từ đó có thể gây ra rất nhiều
những thiệt hại cho nước sở tại về môi trường, chất lượng sản
phẩm, chi phí sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường. Các chủ đầu tư nước ngoài thường tính giá cao hơn
hoặc tối thiểu bằng với mặt bằng giá quốc tế cho các nhân tố
đầu vào như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,… từ đó gây ra
những thua thiệt cho nước nhận đầu tư. Nước nhận đầu tư phải
áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài như giảm
thuế, miễn thuế,… từ đó có thể tạo ra những bất lợi cho các
doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước trong quá trình cạnh tranh.
Đôi khi các sản phẩm, hàng hóa được sản xuất và bán ra không
thích hợp đối với các nước kém phát triển.
II.
Liên hệ Việt Nam
- Xem thêm -