MỤC LỤC
PHẦN I. PHÁT BIỂU KHAI MẠC VÀ BÁO CÁO ĐỀ DẪN
Liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc: Tạo động lực phát triển kinh tế .... 3
Phát biểu chào mừng của Lãnh đạo tỉnh Điện Biên ................................................. 6
Tham luận của Lãnh đạo Bộ Ngoại giao tại Hội nghị Liên kết phát triển du
lịch vùng Tây Bắc và gặp gỡ đoàn ngoại giao ........................................................... 10
Tiềm năng, lợi thế và định hướng phát triển du lịch vùng Tây Bắc .......................... 13
PHẦN II. PHÁT BIỂU CỦA CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC TẾ
Liên kết phát triển Du lịch vùng Tây Bắc của Việt Nam ....................................... 21
Bài phát biểu của Văn phòng Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản tại Việt
Nam ........................................................................................................................................... 24
PHẦN III. Ý KIẾN CÁC NHÀ QUẢN LÝ, NGHIÊN CỨU VÀ CÁC DOANH
NGHIỆP
Vai trò của Hiệp hội Du lịch Việt Nam và các Doanh nghiệp trong liên kết
phát triển Sản phẩm Du lịch vùng Tây Bắc ............................................................... 27
.
Đầu tư phát triển du lịch của Saigontourist tại khu vực Tây Bắc .............................. 31
Liên kết trong thực hiện Quy hoạch phát triển du lịch vùng Tây Bắc ............ 33
Liên kết trong phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng Tây Bắc ...................... 38
PHẦN IV. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC TỈNH VÙNG TÂY BẮC
Tỉnh Cao Bằng ....................................................................................................................... 45
Tỉnh Hà Giang ........................................................................................................................ 51
Tỉnh Lạng Sơn ....................................................................................................................... 57
Tỉnh Lào Cai ........................................................................................................................... 60
Tỉnh Điện Biên ...................................................................................................................... 66
Tỉnh Lai Châu ........................................................................................................................ 73
.
Tỉnh Sơn La ............................................................................................................................ 77
Tỉnh Yên Bái ........................................................................................................................... 82
Tuyên Quang ........................................................................................................................... 85
Tỉnh Bắc Kạn .......................................................................................................................... 90
Tỉnh Hòa Bình ....................................................................................................................... 95
Tỉnh Phú Thọ ......................................................................................................................... 98
Tỉnh Thanh Hóa ................................................................................................................. 101
Tỉnh Nghệ An ...................................................................................................................... 105
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
Liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc:
Tạo động lực phát triển kinh tế
Ban Chỉ đạo Tây Bắc
Năm 2014, Ban Chỉ đạo Tây Bắc xác định chủ đề công tác là “Liên kết phát triển
du lịch ‐ động lực phát triển kinh tế vùng Tây Bắc”. Với chủ đề này, Ban Chỉ đạo Tây
Bắc và Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ phối hợp nghiên cứu, đánh giá thực trạng,
đề xuất giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả liên kết trong phát triển du lịch, tạo
động lực phát triển kinh tế, xã hội bền vững vùng Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc ‐ phạm vi chỉ đạo trực tiếp của Ban Chỉ đạo Tây Bắc gồm 12 tỉnh
(Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang) và 21 huyện phía Tây của hai tỉnh Thanh Hóa và
Nghệ An. Chiếm 1/3 diện tích cả nước với gần 11 triệu dân, Tây Bắc là địa bàn chiến
lược đặc biệt quan trọng về kinh tế ‐ xã hội, quốc phòng ‐ an ninh và đối ngoại của Việt
Nam; có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ.
Bên cạnh đó, vùng Tây Bắc còn có tiềm năng, lợi thế về nông, lâm nghiệp, thủy
điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu; là vùng có nhiều đồng bào dân tộc sinh
sống gắn bó lâu đời; là căn cứ địa cách mạng, an toàn khu của các cuộc kháng chiến.
Xây dựng vùng Tây Bắc phát triển vững mạnh toàn diện vừa là yêu cầu, nguyện vọng
của đồng bào các dân tộc trong vùng, vừa là nhiệm vụ quan trọng đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đầu tư cho phát triển vùng Tây Bắc là nhiệm vụ luôn được Chính phủ ưu tiên,
đã góp phần làm cho bức tranh kinh tế ‐ xã hội vùng Tây Bắc hôm nay có những khởi
sắc mới. Tăng trưởng GDP bình quân toàn vùng giai đoạn 2005 ‐ 2012 đạt
11,16%/năm, năm 2013 đạt 9,4%; cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng tích
cực. Xu thế giá trị gia tăng qua các năm giảm ở ngành nông, lâm nghiệp, tăng ở ngành
công nghiệp ‐ xây dựng, tăng mạnh ngành dịch vụ, du lịch. Tỷ lệ hộ nghèo hàng năm
giảm từ 3 ‐ 4%, đến cuối năm 2013 còn 22,5%. Bản sắc văn hóa truyền thống trong
vùng được bảo tồn, tôn tạo và phát huy...
Tuy nhiên, Tây Bắc vẫn còn là vùng nghèo nhất trong cả nước, khoảng cách về
thu nhập của vùng so với các vùng khác chưa được thu hẹp. Các địa phương trong
vùng hầu hết chưa có khả năng tự cân đối ngân sách. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn
chậm, lúng túng, hiệu quả thấp, thiếu vững chắc. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn
nhiều yếu kém. Đời sống nhân dân các thôn, bản vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó
khăn. Năm 2013, thu nhập bình quân đầu người đạt 21,5 triệu đồng, thấp hơn nhiều
so với bình quân chung của toàn quốc. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 21.028 tỷ đồng,
trong khi đó chi ngân sách 97.944 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Tây Bắc đang phải đối mặt với
rất nhiều khó khăn, vướng mắc ‐ là những rào cản trong phát triển kinh tế, xã hội. Liên
kết giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng Tây Bắc với các trung tâm phát triển,
trước hết là cho các lĩnh vực phát triển vùng chuyên canh gắn với công nghiệp chế
biến nông, lâm sản; liên kết kinh tế giữa các khâu (sản xuất ‐ chế biến ‐ tiêu thụ sản
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
3
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
phẩm); giữa các yếu tố (đất đai, sức lao động, vốn đầu tư, công nghệ); giữa hộ nông
dân với doanh nghiệp, nhà khoa học, Nhà nước... hiệu quả chưa cao.
Nhiều tiềm năng, thế mạnh chưa được đầu tư khai thác có hiệu quả. Rừng vốn
là nguồn tài nguyên cơ bản, tuy tỷ lệ che phủ tăng, nhưng chất lượng rừng nhìn chung
còn thấp, lợi ích đem lại cho chủ rừng không cao và thiếu bền vững. Tình trạng lấn
chiếm, phá rừng vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho bảo vệ
rừng, phòng chống cháy rừng còn nhiều bất cập. Tăng trưởng công nghiệp chủ yếu
dựa vào khai thác tài nguyên và đầu tư các dự án thủy điện, lợi ích đem lại cho cư dân
sở tại chưa nhiều nhưng đã xuất hiện những ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường
thiên nhiên và điều kiện sinh sống. Thương mại, xuất nhập khẩu, kinh tế cửa khẩu
hiệu quả chưa cao. Tiềm năng du lịch sinh thái, lịch sử, văn hóa... chưa được đầu tư,
khai thác tốt.
Xuất phát từ vị trí, vai trò, ý nghĩa chiến lược và tiềm năng, thế mạnh của vùng,
hàng năm, Ban Chỉ đạo đều xác định nhiệm vụ trọng tâm, chủ đề công tác của năm
cần tập trung thực hiện nhằm góp phần phát triển nhanh và bền vững vùng Tây Bắc.
Từ năm 2009, Ban Chỉ đạo Tây Bắc tập trung thực hiện: Tăng cường chỉ đạo,
kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, xây dựng hệ thống chính trị, các
chương trình, dự án trên địa bàn; tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, đề xuất cơ
chế, chính sách. Trong đó tập trung vào những khâu đột phá: Phát triển mạnh hệ
thống cơ sở hạ tầng. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Triển khai thực hiện an
sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Việc xác định chủ đề công tác hàng năm góp phần đổi mới và nâng cao chất
lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo. Qua các chủ đề công tác trọng tâm, Ban Chỉ đạo Tây
Bắc đã tổ chức nghiên cứu, đánh giá, từ đó có cơ sở đề xuất, tham mưu cho Bộ Chính
trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ trên nhiều lĩnh vực mang tính chuyên sâu,
chuyên đề về phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, công tác dân
tộc, tôn giáo, xây dựng hệ thống chính trị. Điểm lại, năm 2011, với chủ đề “Củng cố hệ
thống chính trị cơ sở”, Ban Chỉ đạo Tây Bắc đã tổ chức xây dựng và hoàn thiện trình
Chính phủ Đề án “Tăng cường cán bộ dân tộc Mông trong hệ thống chính trị cơ sở các
xã địa bàn trọng yếu vùng Tây Bắc”.
Năm 2012, với chủ đề “Phát triển giao thông vùng Tây Bắc”, Ban đã phối hợp
với Bộ Giao thông Vận tải xây dựng phương hướng, kế hoạch phát triển kết cấu hạ
tầng giao thông vận tải vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2015, định hướng
đến năm 2020. Bên cạnh các mục tiêu lâu dài, chiến lược các hệ thống đường cao tốc,
đường quốc lộ, đường tuần tra biên giới, đường giao thông nông thôn được đẩy
nhanh tiến độ, có nhiều giải pháp, cơ chế đầu tư được các địa phương triển khai có
hiệu quả.
Năm 2013, với chủ đề “Xúc tiến đầu tư và An sinh xã hội”, Ban Chỉ đạo Tây Bắc
đã phối hợp với một số bộ, ngành trung ương, địa phương tổ chức thành công hai hội
nghị: Hội nghị xúc tiến đầu tư và an sinh xã hội vùng Tây Bắc tại tỉnh Tuyên Quang và
Hội nghị chuyên đề “Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và thu hút các dự án
ODA, NGO vào vùng Tây Bắc” tại tỉnh Phú Thọ. Ban Chỉ đạo Tây Bắc đã thường xuyên
kiểm tra, đôn đốc, các doanh nghiệp, địa phương thực hiện công tác an sinh xã hội,
nhất là đối với việc cam kết ủng hộ, giúp đỡ các tỉnh trong vùng thực hiện xóa nhà dột
nát, giúp đồng bào phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên
tai, ổn định cuộc sống.
4
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
Năm 2014, đánh dấu 10 năm xây dựng và phát triển của Ban Chỉ đạo Tây Bắc,
ban đã lựa chọn và xác định chủ đề công tác là “Liên kết phát triển du lịch ‐ động lực
phát triển kinh tế vùng Tây Bắc”. Cũng trong năm 2014, Ban Chỉ đạo Tây Bắc đăng cai
tổ chức hội nghị giao ban các Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ để cụ thể
hóa nội dung liên kết vùng trong phát triển du lịch.
Liên kết là xu hướng phát triển tất yếu trong phát triển kinh tế, xã hội, trong đó
có du lịch, liên kết sẽ làm nổi bật và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
vùng.
Tây Bắc là vùng có tiềm năng, thế mạnh về phát triển du lịch. Là nơi sinh sống
của hơn 30 dân tộc anh em với một không gian văn hóa rất rộng lớn và phong phú.
Đây là vùng đất có nhiều nét văn hóa dân tộc rất đặc trưng, có cảnh quan hùng vĩ, hệ
sinh thái phong phú; quê hương của những điệu xòe; miền đất dịu ngọt của những
điệu hát then, hát lượn; nhiều điểm du lịch sinh thái, du lịch lịch sử nổi tiếng gắn với
các lễ hội, phong cảnh đẹp, như: Điện Biên Phủ (Điện Biên); Đền Hùng (Phú Thọ); Tân
Trào (Tuyên Quang); Pắc Bó (Cao Bằng); khu nghỉ mát Sa Pa, khu bảo tồn thiên nhiên
Hoàng Liên Sơn (Lào Cai); hồ Thác Bà (Yên Bái); khu nghỉ mát Mẫu Sơn (Lạng Sơn);
Vườn Quốc gia Pù Mát (Nghệ An); suối khoáng Kim Bôi (Hòa Bình); Công viên địa chất
toàn cầu ‐ cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang)...
Phát triển du lịch vùng Tây Bắc có những nét đặc thù riêng so với các vùng,
miền khác trong cả nước, đòi hỏi sự liên kết, hợp tác du lịch giữa Tây Bắc với cả nước
và quốc tế. Phát triển du lịch gắn với làng nghề sản xuất các sản phẩm truyền thống
phù hợp với bản sắc văn hóa của từng địa phương sẽ tạo việc làm, xóa đói giảm
nghèo, tăng thu nhập và đầu ra của sản phẩm cho đồng bào các dân tộc trong vùng.
Thực tế hiện nay, phát triển du lịch vùng Tây Bắc chưa tương xứng với tiềm
năng, đang gặp nhiều lực cản, nổi bật là khó khăn về nguồn nhân lực, hạ tầng du lịch,
thu hút đầu tư, mức đầu tư thấp, hiệu quả phát triển loại hình du lịch cộng đồng chưa
cao… Du lịch Tây Bắc mới trong giai đoạn đầu phát triển nên rất cần định hướng quy
hoạch, đầu tư, hỗ trợ của Chính phủ, nhất là sự hỗ trợ liên kết, kêu gọi đầu tư hạ tầng
để tạo đà cho kinh tế phát triển.
Từ năm 2014, Ban Chỉ đạo Tây Bắc và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tăng
cường công tác phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo nhằm đánh giá thực trạng và
giải pháp liên kết phát triển bền vững du lịch vùng Tây Bắc. Đồng thời tổ chức các hoạt
động, diễn đàn kêu gọi các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu
tư phát triển du lịch Tây Bắc. Tổ chức các hoạt động văn hóa, du lịch mời gọi du khách
đến với Tây Bắc gắn với tổ chức kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954
‐ 7/5/2014).
Ban Chỉ đạo Tây Bắc tin tưởng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước và nỗ lực của các địa phương, suj ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức, đơn vị
trong và ngoài nước, du lịch Tây Bắc sẽ phát triển bền vững, góp phần xây dựng Tây
Bắc thành “Hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc”./.
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
5
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
Phát biểu chào mừng của Lãnh đạo tỉnh Điện Biên
Hôm nay, trên mảnh đất Điện Biên Phủ anh hùng; hòa chung với không khí thi
đua sôi nổi của toàn Đảng, toàn quân và nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên đang ra
sức thi đua phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2014 đã đề ra,
lập thành tích chào mừng các ngày kỷ niệm lớn của đất nước, đặc biệt là kỷ niệm 60
năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 ‐ 07/5/2014).
Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao phối hợp
với tỉnh Điện Biên tổ chức Hội nghị "Liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc năm
2014 và gặp gỡ Ngoại giao Đoàn". Với mục đích giới thiệu, tuyên truyền, quảng bá
những tiềm năng, lợi thế, các chính sách thu hút đầu tư phát triển du lịch khu vực Tây
Bắc với các nhà đầu tư, doanh nghiệp, Đoàn Ngoại giao... nhằm trao đổi kinh nghiệm,
thiết lập quan hệ hợp tác, liên kết đầu tư phát triển du lịch, nâng cao vị thế, phát huy
tiềm năng du lịch vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng.
Thay mặt cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Điện Biên tôi xin nhiệt liệt chào mừng
đồng chí Nguyễn Xuân Phúc ‐ Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng
Ban Chỉ đạo Tây Bắc; các đồng chí Lãnh đạo: Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao; các đồng chí Lãnh đạo UBND các tỉnh vùng Tây Bắc;
Lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố: Hà nội, Hồ Chí Minh, Đà nẵng, Hải Phòng, Quảng
Ninh.
Đặc biệt là sự có mặt của 60 đại biểu đại diện cho các Đoàn Ngoại giao và hơn
40 doanh nghiệp, nhà đầu tư, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch trong và ngoài
nước; các cơ quan truyền thông của Trung ương và địa phương, cùng toàn thể các quý
vị đại biểu về dự Hội nghị. Xin kính chúc toàn thể các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc,
chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
Điện Biên là một tỉnh miền núi biên giới phía Tây Bắc Việt Nam, một tỉnh duy nhất
có chung đường biên giới với 2 quốc gia Lào và Trung Quốc dài trên 400 km (trong đó
giáp với các tỉnh Bắc Lào là 360 km; giáp với tỉnh Vân Nam ‐Trung Quốc là 40 km), có vị trí
địa lý kinh tế, quốc phòng đặc biệt quan trọng trong khu vực Tây Bắc Việt Nam. Diện tích
tự nhiên toàn tỉnh là 9.562 km², dân số trên 52 vạn người gồm 19 dân tộc. Toàn tỉnh có
10 đơn vị hành chính với trung tâm hành chính là thành phố Điện Biên Phủ nơi ghi dấu
những chiến tích hào hùng làm lên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu cách đây 60 năm về trước.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Nhà nước;
được sự quan tâm giúp đỡ có hiệu quả của các Bộ, ngành Trung ương, các địa phương
trong cả nước, sự hợp tác có hiệu quả của các nhà đầu tư; sự quyết tâm của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, các mặt kinh tế, văn hóa xã hội, quốc
phòng an ninh của tỉnh Điện Biên đã và đang có bước phát triển ổn định, mang dấu ấn
của một giai đoạn phát triển mới trong xu thế hội nhập – hợp tác và phát triển.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2008 – 2013 ước đạt 10,63%, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng xác định. Đến năm 2013, GDP bình quân đầu người
ước đạt 20,41 triệu đồng, (tăng gần 2,6 lần so với năm 2008), lương thực bình quân
6
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
đầu người đạt 420 kg, ngoài mục tiêu đáp ứng nhu cầu lương thực trên địa bàn, bước
đầu đã tạo ra những sản phẩm có chất lượng và giá trị cao như: gạo Điện Biên, ngô,
đậu tương.... Tiềm năng phát triển các ngành công nghiệp bước đầu đã được khai
thác với các dự án đầu tư như: Nhà máy Xi măng Điện Biên, các công trình thủy điện
Nà Lơi, Thác Trắng, Nậm Mức, Nậm He....và các dự án khai thác chế biến khoáng sản
chì, kẽm, vàng, đồng được triển khai thực hiện góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Lợi thế về du lịch, dịch vụ và kinh tế
cửa khẩu bước đầu được khai thác và phát huy có hiệu quả, hàng năm đã thu hút
được trên 370 ngàn lượt du khách (trong đó khách Quốc tế trên 65 ngàn lượt) đến Điện
Biên tham quan, du lịch. Hoạt động đầu tư đã có nhiều chuyển biến tích cực với sự
tham gia của các thành phần kinh tế, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn từ
năm 2008 – 2013 đạt trên 30 nghìn tỷ đồng, trong đó năm 2013 đạt khoảng 6,9 nghìn
tỷ đồng.
Đến hết năm 2013, toàn tỉnh đã có 125/130 xã, phường có đường ô tô đến trung
tâm xã với 108/130 xã đi lại được quanh năm; 100% xã, phường có điện thoại và điểm
bưu điện văn hoá xã; trung tâm các khu đô thị, thị tứ đã được phủ sóng điện thoại di
động; 126/130 xã, phường có điện lưới quốc gia đến trung tâm xã, 88% dân cư thành
thị được sử dụng nước sạch và 72,6% dân cư nông thôn được cấp nước sinh hoạt. Các
mặt đời sống văn hoá tinh thần, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được quan tâm, quốc
phòng an ninh được tăng cường và ổn định, quan hệ đối ngoại và hợp tác với các nước
ngày càng được mở rộng và tăng cường. Đó là những tiền đề quan trọng, tạo đà cho sự
phát triển vững chắc của tỉnh trong những năm tiếp theo.
Mặc dù đạt được những thành tựu nêu trên, nhưng đánh giá tổng thể Điện
Biên vẫn là một tỉnh chậm phát triển so với các tỉnh thành khác trong cả nước, đời
sống nhân dân vẫn còn rất khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn trên 35 % (năm 2013); thu hút
đầu tư còn hạn chế cả về số lượng và quy mô dự án dẫn đến nhiều tiềm năng lợi thế
của địa phương chưa được khai thác sử dụng có hiệu quả.
Để tăng tốc phát triển trong giai đoạn tới, nhất là khi Việt Nam đã chính thức
trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO; Đảng bộ tỉnh Điện Biên đã
xác định những mục tiêu đến năm 2015 và những năm tiếp theo là “Nâng cao tốc độ
và chất lượng tăng trưởng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; đảm bảo an sinh xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện giảm nghèo bền vững gắn với phát triển sự
nghiệp y tế, giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Giữ vững ổn định chính trị,
bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái” để thực hiện được mục tiêu đó thì giải pháp về thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế để thực hiện các mục tiêu về tăng
trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất hàng hóa tập trung, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế ‐ xã hội và phát triển nguồn hàng xuất khẩu có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, quyết định đến việc thực hiện thắng lợi mục tiêu kế hoạch 5 năm giai
đoạn 2011‐2015.
Với tinh thần đó, tại Diễn đàn này, tỉnh Điện Biên giới thiệu tổng quan về tiềm
năng, lợi thế của tỉnh Điện Biên, những cơ chế chính sách ưu đãi nhà đầu tư được
hưởng khi đầu tư vào Điện Biên; đồng thời khẳng định chủ trương nhất quán của
Đảng bộ, chính quyền tỉnh Điện Biên luôn sẵn sàng đón nhận và cam kết tạo những
điều kiện thuận lợi nhất để các nhà đầu tư tìm hiểu cơ hội và xúc tiến các hoạt động
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
7
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
đầu tư trên địa bàn tỉnh, nhất là những lĩnh vực được xác định là tiềm năng, lợi thế
trên tinh thần hợp tác cùng phát triển. Cụ thể là:
‐ Về tiềm năng du lịch, dịch vụ: Tỉnh Điện Biên có Quần thể di tích chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ, có nhiều danh thắng cảnh; có các vùng sinh thái tự nhiên khá lớn
như: hồ Pa Khoang, hồ thủy điện Sơn La, rừng nguyên sinh Mường Nhé, Mường Phăng,
động Pa Thơm, các điểm suối khoáng nóng Hua Pe, U Va (Điện Biên), bản Sáng (Tuần
Giáo)... là những điểm du lịch hấp dẫn; tỉnh có sân bay Điện Biên Phủ và hệ thống các
tuyến đường quốc lộ đang được đầu tư nâng cấp đồng bộ, có các cửa khẩu với Lào và
Trung Quốc, trong đó cửa khẩu Tây Trang đã được nâng cấp thành cửa khẩu Quốc tế
là những điều kiện rất thuận lợi để khai thác tiềm năng du lịch, dịch vụ, thương mại và
kinh tế cửa khẩu với các nước trong tiểu vùng.
Mang đậm bản sắc văn hóa độc đáo của 19 dân tộc: Mỗi dân tộc đều có những
nét văn hóa đặc trưng riêng, gồm cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể; những
thiết chế văn hóa xã hội truyền thống của từng dân tộc như: thiết chế Bản mường của
người Thái dựa trên lãnh thổ công, thiết chế Lang đạo của người Mường, thiết chế
dòng họ của người H’Mông...; những phong tục tập quán trong sản xuất, sinh hoạt và
trong tín ngưỡng, lễ hội của mỗi dân tộc, cùng với những món ăn đặc sản mang đậm
nét của vùng Tây Bắc....đây là những tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn đối với du
khách, nhất là các du khách quốc tế.
‐ Về sản xuất nông, lâm nghiệp: Với điều hiện khí hậu ưu đãi, thổ nhưỡng
phong phú cộng với quỹ đất chưa sử dụng trên 175 nghìn ha, chiếm 18 % tổng diện
tích tự nhiên là điều kiện rất thuận lợi để phát triển sản xuất gắn với công nghiệp chế
biến như: chế biến gạo đặc sản xuất khẩu gắn với canh tác trên cánh đồng Mường
Thanh, chế biến các sản phẩm từ gỗ gắn với phát triển rừng nguyên liệu, chê biến các
loại cây công nghiệp lâu năm như chè, cà phê, cao su, cây cọc rào, trồng rừng sản xuất
và các loại cây công nghiệp ngắn ngày như: ngô, đậu tương, bông...
‐ Về sản xuất công nghiệp: Tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản khá đa dạng về
chủng loại như: nước khoáng, than mỡ, đá vôi, đá đen, đá granit, quặng sắt và kim loại
màu. Có nguồn nước mặt tập trung theo 3 hệ thống sông chính là sông Đà, sông Mã và
sông Mê Kông cùng với địa hình, độ dốc dòng chảy lớn, lưu lượng dòng chảy mạnh,
thuận lợi cho xây dựng phát triển các công trình thủy điện kết hợp thủy lợi để cung
cấp nguồn điện cho lưới điện quốc gia và tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp; bên
cạnh những dự án được các nhà đầu tư khảo sát lập dự án để xúc tiến hợp tác đầu tư,
Tỉnh đang tiến hành khảo sát lập bổ sung quy hoạch thủy điện để cung cấp những
thông tin chính xác cho các nhà đầu tư; tiềm năng về khoáng sản, mặc dù được đánh
giá có nhiều loại khoáng sản song do công tác khảo sát mới chỉ dừng ở mức sơ bộ,
hiện nay đã có nhiều nhà đầu tư đang tiến hành thăm dò, đánh giá trữ lượng những
tài nguyên quý còn ẩn dấu trong lòng đất nhằm mở ra khả năng hợp tác đầu tư, liên
doanh liên kết trong khai thác, chế biến khoáng sản.
* Về cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư: Điện Biên thuộc địa
bàn đặc biệt ưu đãi đầu tư. Do vậy, các dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh được hưởng cơ
chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư ở mức cao nhất theo qui định của
Luật đầu tư. Ngoài ra, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào địa bàn tỉnh
Điện Biên được cung ứng miễn phí trích lục bản đồ địa chính khu đất cho thuê; hướng
dẫn lập hồ sơ xin thuê đất và ký hợp đồng thuê đất; lập phương án đền bù giải phóng
8
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
mặt bằng đối với trường hợp thuê đất ngoài khu công nghiệp; hỗ trợ xây dựng hoặc
xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào cơ sở sản suất kinh doanh của doanh
nghiệp; hỗ trợ vận chuyển sản phẩm từ Điện Biên Phủ đến Hà Nội đối với các dự án
trồng rừng gắn với chế biến ...
Cùng với chính sách hỗ trợ, khuyến khích đặc biệt ưu đãi đầu tư theo Luật đầu
tư, việc giải quyết thủ tục đăng ký đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư nhanh chóng,
được thực hiện theo cơ chế một cửa liên thông; Nhà đầu tư chỉ cần làm việc trực tiếp
với Sở Kế hoạch và Đầu tư Điện Biên để nhận Giấy chứng nhận đầu tư và triển khai các
thủ tục thực hiện dự án trong thời gian nhanh nhất.
Với tiềm năng và cơ hội đầu tư còn rất lớn, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến
khích đầu tư nhất quán, điều kiện đầu tư ngày càng thuận lợi hơn cùng với sự trọng
thị của các cấp, các ngành, tỉnh Điện Biên mong muốn rằng, trong thời gian tới sẽ có
cơ hội được hợp tác với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để đầu tư khai thác tiềm
năng, thế mạnh của địa phương nhất là trong các lĩnh vực du lịch, thủy điện, sản suất
vât liệu xây dựng, trồng và chế biến nông lâm sản, xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ
tầng khu công nghiệp, khu du lịch, chợ, trung tâm thương mại và khách sạn .... (Những
thông tin cụ thể của từng dự án được cung cấp tại địa chỉ Website của Sở Kế hoạch và
Đầu tư Điện Biên http://www.dienbiendpi.gov.vn và địa chỉ chuyên mục Điện Biên
tiềm năng và cơ hội đầu tư trên báo Điện Biên Phủ điện tử
http://www.baodienbien.info.vn).
Đất Điện Biên rất rộng, người Điện Biên thân thiện mến khách và đặc biệt
nhiều tiềm năng, lợi thế của tỉnh Điện Biên chưa được đầu tư, khai thác và phát huy
có hiệu quả, đang hứa hẹn những cơ hội đầu tư lớn. Tỉnh Điện Biên mong muốn sau
Hội nghị này tỉnh Điện Biên sẽ có nhiều nhà đầu tư đến và tìm hiểu kỹ hơn, cụ thể hơn
về những tiềm năng sẵn có của Điện Biên để chúng tôi được đón tiếp quý vị với tư
cách là các Chủ dự án trên địa bàn tỉnh.
Xin trân trọng cảm ơn các quý vị đại biểu!
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
9
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
Tham luận của Lãnh đạo Bộ Ngoại giao tại Hội nghị Liên kết
phát triển du lịch vùng Tây Bắc và gặp gỡ đoàn ngoại giao
Trước hết, thay mặt Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành tới Lãnh đạo Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Lãnh đạo tỉnh Điện Biên, đặc biệt là đồng chí
Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ
đạo Tây Bắc đã hết sức quan tâm, ủng hộ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho việc
tổ chức “Hội nghị liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc và gặp gỡ Đoàn Ngoại giao”
do Ban Chỉ đạo Tây Bắc phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
UBND tỉnh Điện Biên tổ chức. Tôi cũng xin cảm ơn các Ngài Đại sứ, Đại biện, Trưởng
đại diện các Tổ chức Quốc tế, đại diện các Bộ, ban, ngành đã nhiệt tình hưởng ứng và
tham dự Hội nghị tại thành phố Điện Biên, nơi cách đây 60 năm đã ghi danh vào lịch
sử anh hùng của đất nước Việt Nam.
Theo chương trình Hội nghị, sau đây tôi xin trình bày tham luận của Bộ Ngoại
giao về hoạt động hợp tác quốc tế của các tỉnh vùng Tây Bắc trong những năm qua.
Do điều kiện thời gian có hạn, tôi xin tập trung phát biểu một số vấn đề chính.
Nằm ở vị chiến lược quan trọng của đất nước, vùng Tây Bắc có những nguồn
lực tự nhiên về tài nguyên khoáng sản, các tiềm năng lợi thế cho phát triển kinh tế ‐ xã
hội; đồng thời là nơi sinh sống của đông đảo đồng bào dân tộc ít người với đời sống
văn hoá, phong tục tập quán hết sức đa dạng và giàu bản sắc. Trên cơ sở những điều
kiện đặc thù đó, trong những năm qua các tỉnh vùng Tây Bắc đã đẩy mạnh khai thác
các tiềm năng, phát huy lợi thế, về cơ bản đã duy trì được tình hình kinh tế ‐ xã hội và
tăng trưởng ổn định, thực hiện được nhiều mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Đây là
thành quả của những nỗ lực không mệt mỏi của chính quyền và nhân dân các tỉnh Tây
Bắc nói chung, trong đó có sự đóng góp quan trọng của công tác đối ngoại và hợp tác
quốc tế của các tỉnh, là sự hợp tác quý báu của các cơ quan đại diện ngoại giao nước
ngoài và các tổ chức quốc tế tại Việt Nam mà nhiều vị đại biểu đã không quản đường
xá xa xôi đến với Điện Biên dự Hội nghị hôm nay.
Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối đối ngoại chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế, thời gian qua các tỉnh vùng Tây Bắc đã đẩy mạnh triển khai các hoạt động
hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực đối ngoại trụ cột về chính trị, kinh tế, văn hóa
và công tác người Việt Nam ở nước ngoài và đã đạt được những kết quả rất đáng
phấn khởi.
Bức tranh hợp tác quốc tế cho thấy, các tỉnh Tây Bắc đã và đang tăng cường
mở rộng, phát triển quan hệ với nhiều đối tác nước ngoài và các tổ chức quốc tế,
trong đó nổi bật là mối quan hệ truyền thống hữu nghị, hợp tác với các nước bạn láng
giềng Lào và Trung Quốc tiếp tục duy trì, phát triển tích cực. Quan hệ đoàn kết gắn bó
với các tỉnh bạn Lào không ngừng được củng cố; trong điều kiện còn những khó khăn,
các tỉnh Tây Bắc vẫn tiếp tục nhiều hoạt động hợp tác, giao lưu, hỗ trợ bạn phát triển.
Với các đối tác nước bạn láng giềng Trung Quốc, các tỉnh biên giới phía Bắc đã đẩy
mạnh hợp tác trong khuôn khổ các cơ chế uỷ ban công tác 4+1 với tỉnh Vân Nam và
10
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, tổ chức thành công các kỳ họp luân phiên
định kỳ và đưa các chương trình hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu.
Thời gian qua, các tỉnh Tây Bắc cũng đã đẩy mạnh mở rộng quan hệ với các đối
tác Nhật Bản và Hàn Quốc, tích cực trao đổi kinh nghiệm, từng bước thiết lập quan hệ
hợp tác phục vụ phát triển trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, chế biến nông lâm sản,
trồng rừng… Với châu Âu, tích cực mở rộng quan hệ song phương với nhiều đối tác
tiềm năng (Đức, Thụy Sĩ) và tham gia cơ chế hợp tác phi tập trung Việt – Pháp. Một số
chương trình, dự án hợp tác cụ thể với các đối tác châu Âu đã cho kết quả khả quan,
góp phần đi sâu khai thác tốt thế mạnh của vùng.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, các tỉnh đã đẩy mạnh thực hiện kế hoạch hành
động tăng cường công tác ngoại giao kinh tế, triển khai các chương trình xúc tiến đầu
tư, thương mại và du lịch; một số tỉnh chủ động đề xuất và tích cực phối hợp với các
Bộ, ngành TW tổ chức khảo sát kinh tế biên mậu, tổ chức thành công các hội chợ, hội
thảo quốc tế, đẩy mạnh công tác vận động và phối hợp chặt chẽ trong quản lý và sử
dụng các nguồn vốn nước ngoài.
Điều đáng nói là, các nỗ lực hợp tác quốc tế đã góp phần mang lại những
nguồn lực phát triển quan trọng cho các tỉnh Tây Bắc. Số liệu cho thấy nguồn vốn ODA
cho khu vực Tây Bắc đến cuối năm 2013 đạt xấp xỉ 2,6 tỷ USD; FDI đến tháng 3/2014
đạt 8,168.50 triệu USD với 461 dự án; viện trợ PCPNN tăng đều từng năm trong hơn
10 năm qua, từ chưa đầy 10 triệu USD vào năm 2003 lên 50 triệu USD năm 2013. Dẫu
các con số trên chưa thật lớn, nhưng các nguồn lực hợp tác này đã phát huy kết quả
quan trọng trong việc xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm
nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái…
Các hoạt động hợp tác quốc tế cũng đã góp phần tôn vinh giá trị văn hoá,
quảng bá hình ảnh và giúp thế giới biết đến Tây Bắc như một địa bàn sở hữu nhiều di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Những năm qua đã chứng kiến các di sản Cao
nguyên đá Đồng Văn, Hát xoan Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Ca trù,
Quan họ, Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được UNESCO công nhận. Những giá trị văn hóa
này đã góp phần tô màu tươi sắc bức tranh kinh tế ‐ xã hội toàn vùng và phát huy tác
dụng quý báu trong việc giới thiệu hình ảnh, tiềm năng và sức hấp dẫn của các địa
phương Tây Bắc tới du khách nước ngoài.
Bộ Ngoại giao đánh giá cao ý chí quyết tâm và thống nhất của lãnh đạo các cấp
địa phương trong cả nhận thức và hành động, đã góp phần quyết định vào kết quả
thắng lợi nói trên trong công tác đối ngoại của các tỉnh Tây Bắc. Chúng tôi cũng rất vui
mừng nhận thấy, các tỉnh Tây Bắc thời gian qua đã tích cực đẩy mạnh các mối liên hệ,
trao đổi tiếp xúc với Đoàn Ngoại giao tại Việt Nam. Trong đó, nhiều tỉnh đã chủ động
mời và đón các đoàn Đại sứ quán và tổ chức quốc tế tại Hà Nội lên thăm làm việc, tìm
hiểu địa phương, qua đó tranh thủ xúc tiến đầu tư, vận động các nguồn tài trợ cho
tỉnh, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề lãnh sự phát sinh trên địa bàn.
Mặc dầu vậy, phải thẳng thắn nhìn nhận là những kết quả trên còn khiêm tốn
so với tiềm năng và triển vọng phát triển. Chúng ta hiểu rõ thực tế những khó khăn
khách quan của các tỉnh Tây Bắc, về điều kiện giao thông cách trở, đường xá xa xôi,
kết cấu hạ tầng thấp, nguồn lực hạn chế... là những thách thức to lớn; mặt khác,
chúng tôi cho rằng, trong bối cảnh đó, công tác đối ngoại sẽ có vai trò ngày càng quan
trọng trong nỗ lực phát huy, khai thác tiềm năng, thế mạnh kết hợp huy động nguồn
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
11
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
lực bên ngoài cho sự nghiệp phát triển kinh tế ‐ xã hội của các địa phương. Theo đó,
chúng tôi xin trao đổi một số ý kiến (mang tính chất khuyến nghị) đối với công tác đối
ngoại, hợp tác quốc tế của các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh quán triệt, nâng cao nhận thức của các ngành các
cấp địa phương về chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, trên cơ sở đó làm rõ các
yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế phù hợp với điều kiện
từng địa phương để phục vụ có kết quả nhất các mục tiêu phát triển. Điều này đã và
sẽ tiếp tục là nhân tố cơ bản nhất trong công tác đối ngoại của các địa phương.
Thứ hai, việc tăng cường phối hợp, liên kết không chỉ quan trọng đối với các
chương trình, kế hoạch phát triển liên vùng ‐ trong đó nổi bật là ngành du lịch ‐ nhằm
phát huy, khai thác một cách tối ưu tiềm năng, thế mạnh, mà đồng thời cũng rất cần
thiết đối với các chương trình, kế hoạch hoạt động đối ngoại của các địa phương trong
vùng nhằm nâng cao hiệu quả và tính thiết thực trong triển khai thực hiện, nhất là tổ
chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, vận động viện trợ phi chính phủ
nước ngoài...
Thứ ba, bên cạnh duy trì chặt chẽ các mối quan hệ hợp tác đã thiết lập, cần tích
cực tiếp cận, phát triển quan hệ với các đối tác mới, đa dạng hoá hình thức hợp tác;
đồng thời, hết sức chú trọng phương châm hiệu quả, thực chất (tránh hình thức)
trong các quan hệ hợp tác cấp địa phương, bảo đảm bằng các chương trình, danh mục
hợp tác cụ thể, thiết thực, khả thi và đi vào chiều sâu.
Thứ tư, tích cực và chủ động thúc đẩy, mở rộng quan hệ và trao đổi, tiếp xúc
với các cơ quan đại diện ngoại giao và các tổ chức phát triển nước ngoài tại Việt Nam
nhằm tranh thủ tối đa sự hợp tác, giúp đỡ của bạn bè quốc tế trong tìm kiếm, vận
động nguồn lực đầu tư phát triển.
Cuối cùng, thường xuyên củng cố, kiện toàn cơ quan ngoại vụ địa phương (tổ
chức bộ máy, nhân sự, điều kiện vật chất, kỹ thuật) nhằm xây dựng cơ quan tham
mưu, chuyên trách đối ngoại của tỉnh thật sự vững mạnh; đầu tư thỏa đáng công tác
đào tạo, bồi dưỡng (kiến thức, nghiệp vụ đối ngoại, ngoại ngữ) nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ đối ngoại ngày càng chuyên nghiệp, tinh thông, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm
vụ ngày càng nặng nề, phức tạp của thời kỳ hội nhập quốc tế.
Tôi tin rằng cuộc gặp gỡ ngày hôm nay là dịp tốt để chúng ta trao đổi và chia sẻ
ý kiến, đồng thời là cơ hội mở mang, phát triển những quan hệ mới, tăng cường kết
nối hợp tác sâu rộng vì lợi ích của tất cả các bên, góp phần thiết thực thúc đẩy các liên
kết nhằm phát triển vùng Tây Bắc nói chung và ngành du lịch Tây Bắc nói riêng. Những
liên kết và hợp tác này, như từng xẻng đất bền bỉ đào hầm công sự của chiến sỹ Điện
Biên năm xưa, sẽ xây những hành lang kết nối Tây Bắc với thế giới, giúp Tây Bắc phát
huy tiềm năng, tạo đà cho sự nghiệp phát triển kinh tế ‐ xã hội chuyển mình vững
chắc. Trong tiến trình đó, Bộ Ngoại giao đã, đang và sẽ luôn sát cánh, đồng hành nhiệt
tình cùng các tỉnh Tây Bắc trong từng bước phát triển.
Chúc Quý vị đại biểu sức khỏe, hạnh phúc./.
12
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
Tiềm năng, lợi thế và định hướng phát triển du lịch vùng Tây Bắc
Đề dẫn Hội nghị
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Những năm qua, Đảng và Nhà nước không ngừng quan tâm chăm lo và có
nhiều chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế‐xã hội Vùng Tây Bắc.
Tuy nhiên, đến nay kinh tế Tây Bắc vẫn còn nghèo, điều kiện hạ tầng còn nhiều khó
khăn; đời sống, an sinh xã hội của đại bộ phận dân cư còn ở mức thấp. Mặc dù có
nhiều tiềm năng, lợi thế về tài nguyên tự nhiên và nhân văn nhưng du lịch Tây Bắc vẫn
chưa phát triển xứng tầm cả về quy mô và tính chất, vẫn kém sức cạnh tranh so với
các vùng du lịch khác trong cả nước.
Hội nghị Liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc sẽ tập trung bàn về khai thác
tiềm năng, lợi thế và hướng phát triển du lịch vùng Tây Bắc nhằm tìm kiếm những giải
pháp phù hợp tạo đột phá từ chính sách vĩ mô cho tới các chương trình hành động
đầu tư và liên kết thúc đẩy phát triển du lịch vùng Tây Bắc.
1. Tiềm năng, tài nguyên và điều kiện phát triển du lịch vùng Tây Bắc
Trước hết phải khẳng định Tây Bắc được thiên nhiên ban tặng một vẻ đẹp hùng
vĩ, độc đáo về địa hình, khí hậu, địa chất, cảnh quan và hệ sinh thái có giá trị và sức
hấp dẫn du lịch đặc biệt. Địa hình trùng điệp, hệ sinh thái đa dạng, độc đáo, có nhiều
phong cảnh đẹp, sơn thủy hữu tình như Cao nguyên đá Đồng Văn, Mù Căng Chải, đỉnh
Phansipan, đèo Mã Pì Lèng, đèo Pha đin, hồ Pa Khoang, hồ sông Đà, hồ Thác Bà, hồ Na
Hang, hồ Núi Cốc, Thác Bản Giốc, hang Pắc Pó, động Ngườm Ngao...; vườn quốc gia có
giá trị về đa dạng sinh học cao như như: Hoàng Liên, Ba Bể, Xuân Sơn, Pù Mát... các
nguồn khoáng nóng giá trị cho sức khỏe như: Kim Bôi, Thanh Thủy, Mỹ Lâm, Uva..; các
khu khí hậu ôn hòa tốt cho nghỉ dưỡng như Sapa, Mộc Châu, Mẫu Sơn, Sìn Hồ...
Những giá trị về cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, đa dạng và độc đáo là lợi thế và tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh du lịch vùng Tây Bắc.
Sự đặc sắc về văn hóa vùng Tây Bắc, là nơi cội nguồn đa sắc màu văn hóa các
dân tộc Việt Nam với bản sắc văn hóa, truyền thống, lối sống, nghệ thuật, ẩm thực,
làng nghề và niềm tự hào dân tộc. Hiện có trên 32 dân tộc anh em chung sống: Tày,
Nùng, Thái, Mường, Mông, Dao, Kinh, Hoa, Khơ Mú, La Ha, Xinh Mun, Lào, Lự, Hà Nhì,
Kháng, La Hủ, Si La, Phù Lá, Bố Y, Mảng, Giáy.. với nét sinh hoạt truyền thống và lễ hội
vô cùng phong phú đặc sắc, phản ánh sinh động lịch sử dân tộc và đời sống tâm linh,
tư tưởng cũng như bản sắc văn hóa Việt Nam. Tây Bắc cũng nổi tiếng với nhiều điệu
múa sạp, múa xòe, hát then, đàn tính, múa khèn... và các sản phẩm thủ công độc đáo,
dệt thổ cẩm, chợ phiên vùng cao; các lễ hội độc đáo như lễ hội Lồng Tồng, Chợ tình
Khâu Vai... Đặc biệt, Tây Bắc có hai di sản văn hóa phi vật thể của thế giới là Hát Xoan
và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Các sinh hoạt truyền thống với nền văn hóa đặc
sắc đa dân tộc cùng với các di tích lịch sử làm cho Tây Bắc vô vùng hấp dẫn du khách
tìm hiểu và thưởng ngoạn.
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
13
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
Đặc biệt hình ảnh Tây Bắc luôn gắn với những giá trị hào hùng về lịch sử dựng
nước và giữ nước. Di tích Đền Hùng, bãi đá cổ Sa Pa, Xín Mần chứng minh lịch sử dân
tộc từ thủa sơ khai dựng nước trên 4 nghìn năm đến ngày nay trở thành những giá trị
cội rễ bất diệt, linh thiêng và hào hùng của dân tộc. Âm vang Điện Biên nhắc tới chiến
công lừng lẫy năm Châu, trấn động địa cầu có thể tìm thấy ở quần thể di tích lịch sử
Điện Biên Phủ; sự hiển hách của lịch sử cách mạng gắn với các cuộc kháng chiến như
Tân Trào, ATK Định Hóa, Bắc Mê...cùng với hệ thống di tích lịch sử đã làm cho Tây Bắc
có giá trị đặc biệt hấp dẫn du lịch.
Vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, sự độc đáo đa sắc màu văn hóa và sự
hào hùng, linh thiêng của lịch sử tạo cho Tây Bắc sự giầu có, đa dạng và hấp dẫn về tài
nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Tất cả tiềm năng đó cùng với vị trí thông thương
qua các cửa khẩu biên giới Việt‐Trung và Việt‐Lào trở thành lợi thế và điều kiện tốt để
có thể đầu tư phát triển du lịch.
2. Tình hình hoạt động du lịch Vùng Tây Bắc
a) Những kết quả nổi bật
Những năm qua, theo báo cáo của các tỉnh trong Vùng, hoạt động du lịch ở tất
cả các tỉnh đều có sự tăng trưởng về lượng khách du lịch quốc tế và nội địa, với tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 10%. Năm 2013, số lượt khách quốc tế đến
Tây Bắc đạt khoảng 1,23 triệu lượt (chiếm 16 % trong 7,57 triệu lượt khách quốc tế
đến Việt Nam), tăng gần 3 lần so với năm 2005; lượng khách nội địa đạt trên 6,5 triệu
lượt (trong tổng số 35 triệu lượt khách du lịch nội địa cả nước) và tổng thu du lịch đạt
trên 7.200 tỷ đồng (chiếm 3,6% trong 200.000 tỷ đồng tổng thu du lịch cả nước); với
trên 115.000 lao động trong đó 35.000 lao động trực tiếp du lịch.
Tuy lượng khách du lịch tăng qua các năm, nhưng thấp hơn nhiều so với các
vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ hay Duyên hải Nam Trung Bộ; Hiện tại có
307 cơ sở lưu trú được xếp hạng với 8.831 buồng, trong đó chưa có cơ sở 5 sao; có 3
cơ sở 4 sao, 13 cơ sở 3 sao, 94 cơ sở 2 sao và 197 cơ sở 1 sao; công suất sử dụng
buồng trung bình đạt xấp xỉ 60%. Chỉ có 34 doanh nghiệp lữ hành quốc tế được cấp
phép (trong tổng số trên 1.300 doanh nghiệp lữ hành toàn quốc). Những địa bàn
trọng điểm thu hút và phân phối khách chủ yếu ở Lào Cai, Lạng Sơn, Phú Thọ. Sản
phẩm du lịch chủ yếu là du lịch tham quan tìm hiểu văn hóa, du lịch tâm linh với thời
gian lưu lại trung bình rất ngắn (dưới 1,5 ngày); du lịch nghỉ dưỡng cao cấp chiếm tỷ
trọng không đáng kể.
Công tác quản lý nhà nước về du lịch ở các địa phương được quan tâm và tăng
cường. Các tỉnh trong Vùng đã có quy hoạch tổng thể phát triển du lịch và ra nghị
quyết của Hội đồng nhân dân hoặc Nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển du lịch.
Hoạt động xúc tiến quảng bá, liên kết phát triển sản phẩm du lịch, đặc biệt là
du lịch dựa vào cộng đồng được chú trọng những năm gần đây, đang trong quá trình
hình thành và định vị các điểm đến. Từ năm 2006, ba tỉnh Lào Cai‐Yên Bái‐Phú Thọ đã
liên kết xây dựng tuyến du lịch về cội nguồn và đã tạo được tiếng vang; Chương trình
du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” triển khai từ 2009 gắn kết 6 tỉnh Cao Bằng‐
Bắc Kạn‐Lạng Sơn‐Thái Nguyên‐Tuyên Quang‐Hà Giang. Đặc biệt từ năm 2008, chương
trình liên kết hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc (Hà Giang‐Lào Cai‐Yên Bái‐Phú Thọ‐Lai Châu‐Điện
Biên‐Sơn La‐Hòa Bình) đã hình thành nhóm hợp tác và khung chương trình hành động
giai đoạn 2010‐2015 với nhiều nội dung thiết thực và hiệu quả.
14
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
b) Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân
Đến nay du lịch Tây Bắc vẫn là vùng chũng, chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng và lợi thế vốn có về tài nguyên du lịch. Do điều kiện hạ tầng còn nhiều khó
khăn, địa hình đồi núi gập nghềnh, nhiều đèo dốc hiểm trở, thường xuyên có lũ quyét,
sạt nở đất làm cho đầu tư tốn kém; hệ thống đường bộ ở một số tuyến chính như
quốc lộ 1, 2, 3, 4, 6, 32, 70, 279... tuy đã được nâng cấp những năm gần đây nhưng
vẫn thiếu đồng bộ; mạng lưới đường sắt ở các tuyến chủ yếu Hà Nội‐Lào Cai, Hà Nội‐
Lạng Sơn, Hà Nội‐Thái Nguyên chậm đổi mới về hạ tầng và dịch vụ, đặc biệt tuyến Hà
Nội‐Lào Cai đang quá tải; giao thông đường không rất hạn chế chỉ có sân bay Điện
Biên Phủ có mở tuyến bay thường xuyên nhưng lưu lượng khách ít. Sân bay Nà Sản
chưa khai thác phục vụ du lịch. Điều kiện giao thông đường bộ đến các cửa khẩu còn
khó khăn, chưa cải thiện nhiều. Vì vậy, việc đi lại di chuyển dòng khách du lịch giữa các
địa phương, giữa các điểm du lịch vẫn còn vất vả và mất nhiều thời gian.
Hiệu quả kinh tế du lịch còn khiêm tốn, chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế
địa phương. Nguyên nhân chủ yếu do sản phẩm du lịch còn đơn sơ, kém hấp dẫn,
hàm lượng giá trị gia tăng thấp, chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng chuẩn yêu cầu, chưa
có thương hiệu để cạnh tranh thu hút thị trường khách cao cấp. Cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch và dịch vụ còn thiếu đồng bộ do không thu hút được đầu tư phát triển.
Hệ thống cơ sở lưu trú, nghỉ dưỡng, ăn uống, giải trí còn thiếu thốn và thấp cấp, phần
lớn chưa đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn dịch vụ.
Hoạt động lữ hành với số lượng doanh nghiệp kinh doanh lữ hành ít và năng
lực hạn chế, thường bị động và phụ thuộc. Vì vậy, việc khai thác thị trường thu hút
khách vẫn trông chờ vào các hãng lữ hành gửi khách từ Hà Nội và các trung tâm du
lịch khác.
Hoạt động liên kết trong quản lý và xúc tiến, phát triển sản phẩm du lịch mặc
dù đã có nhiều cố gắng nhưng nguồn lực hạn chế, nghèo nàn về ý tưởng dẫn tới triển
khai chưa tới đích, chưa mang lại hiệu quả thiết thực, vẫn còn nặng hình thức vì vậy
chưa tạo ra những đột phá trong phát triển sản phẩm du lịch.
Công tác đào tạo, phát triển nhân lực du lịch chưa được đầu tư thích đáng.
Trong Vùng chưa có cơ sở đào tạo chuyên nghiệp du lịch thực thụ mà chủ yếu dựa vào
đào tạo tại chỗ doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo đa ngành như Đại học Thái Nguyên,
Đại học Tây Bắc, Cao đẳng Văn hóa, Nghệ thuật và Du lịch Việt Bắc, Lạng Sơn. Lực
lượng nhân lực du lịch do vậy thiếu chuyên nghiệp, chưa thực sự sẵn sàng đáp ứng
yêu cầu chuyển dịch theo cơ cấu dịch vụ và du lịch; nhận thức về du lịch chuyển biến
còn chậm vẫn mang nặng thói quen tư duy kinh doanh tự phát và chờ đợi vào sự hỗ
trợ của Nhà nước.
Nhìn chung, Tây Bắc được xem là vùng đất giàu tiềm năng, phong phú và đa
dạng về tài nguyên du lịch nhưng đến nay vẫn chưa được khai thác phát triển. Những
năm qua, du lịch các tỉnh Tây Bắc đã có bước tăng trưởng ở trình độ sơ khai ban đầu,
có đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm và góp phần xóa đói,
giảm nghèo. Tuy vậy, điều kiện hạ tầng còn nhiều khó khăn, hoạt động du lịch còn
manh mún, nhỏ lẻ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, thấp cấp; sản phẩm du lịch
còn đơn sơ, rời rạc, chất lượng thấp, chưa hấp dẫn, chưa có thương hiệu, chưa thu
hút được thị trường khách cao cấp lưu trú dài ngày; lực lượng nhân lực du lịch thiếu
chuyên nghiệp và hiệu quả kinh doanh du lịch còn khiêm tốn. Nút thắt của vấn đề
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
15
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
chính là ở chỗ chưa huy động được nguồn lực và khuyến khích sáng tạo để đầu tư,
liên kết khai thác phát huy tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch.
3. Định hướng phát triển du lịch Tây Bắc
a) Quan điểm phát triển
Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, xác định hệ thống quan điểm
phát triển du lịch, trong đó nhấn mạnh:
(1) Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế‐xã hội;
(2) Phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm;
chú trọng phát triển theo chiều sâu, đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định
thương hiệu và khả năng cạnh tranh;
(3) Phát triển đồng thời cả du lịch nội địa và du lịch quốc tế;
(4) Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh, quốc phòng,
trật tự an toàn xã hội; đảm bảo hài hòa tương tác giữa khai thác phát triển du lịch với
bảo vệ giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn;
(5) Phát triển du lịch dựa trên phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế quốc gia về yếu
tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền trong cả nước;
tăng cường liên kết, xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước cho
đầu tư phát triển du lịch.
Quan điểm phát triển du lịch đối với vùng Tây Bắc:
Cụ thể hóa 5 quan điểm phát triển chiến lược chung nêu trên phù hợp với đặc
điểm, tính chất và điều kiện đặc thù của Vùng. Trong quá trình phát triển, các chương
trình hành động cần phải xử lý tốt mối quan hệ giữa phát triển với bảo tồn các giá trị
văn hóa dân tộc; sản phẩm du lịch Tây Bắc phải chứa đựng sâu sắc những giá trị văn
hóa các dân tộc bản địa; phát triển du lịch xanh, có trách nhiệm, tạo việc làm và góp
phần xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, cải thiện đời sống thiết thực cho đồng bào
các dân tộc trong Vùng.
b) Mục tiêu phát triển
Mục tiêu phát triển du lịch Tây Bắc trở thành vùng du lịch đặc trưng, là điểm đến
có thương hiệu với những giá trị trải nghiệm đặc sắc về văn hóa, lịch sử và sinh thái
cảnh quan hùng vĩ; du lịch Tây Bắc sẽ đóng góp quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và phát triển kinh tế‐xã hội của Vùng.
Đến năm 2015 vùng Tây Bắc sẽ đón 1,5 triệu lượt khách quốc tế, 9 triệu lượt
khách nội địa, với 1.250 cơ sở lưu trú và 26.000 buồng lưu trú, phấn đấu tổng thu du
lịch đạt 11.000 tỷ đồng;
Đến năm 2020 vùng Tây Bắc sẽ đón 2,3 triệu lượt khách quốc tế, 14 triệu lượt
khách nội địa, với 1.900 cơ sở lưu trú và 40.000 buồng lưu trú; tổng thu du lịch đạt
22.000 tỷ đồng.
16
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
c) Những định hướng và giải pháp chủ yếu
Nhằm đạt được mục tiêu phát triển với tầm nhìn dài hạn nêu trên cần có sự
quyết tâm cao của Chính phủ cùng với chính quyền các tỉnh trong Vùng, huy động
được sự tham gia các bên liên quan, các nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp để
tìm bước đi thích hợp, có chính sách mở đường, tháo gỡ khó khăn, khuyến khích sáng
tạo, phát huy tiềm năng, lợi thế, huy động mọi nguồn lực đầu tư tạo động lực thúc
đẩy phát triển du lịch Tây Bắc.
(1) Quy hoạch và đầu tư phát triển 12 khu du lịch quốc gia (Cao nguyên đá
Đồng Văn; Thác Bản Giốc; Mẫu Sơn; Hồ Ba Bể; Tân Trào; Hồ Núi Cốc; Sa Pa; Hồ Thác
Bà; Đền Hùng; Mộc Châu; Điện Biên Phủ‐Pá Khoang; Hồ Hòa Bình); 4 điểm du lịch
quốc gia (TP.Lào Cai; Pác Bó; TP.Lạng Sơn; Mai Châu); hình thành các địa bàn trọng
điểm du lịch tạo ra những cực hút và điểm nhấn tập trung đồng thời liên kết phát
triển các điểm du lịch trong Vùng; quản lý phát triển những điểm đến mang thương
hiệu Tây Bắc như Sa Pa, Đồng Văn, Mộc Châu, Điện Biên Phủ, Thác Bà, Ba Bể...
(2) Thu hút nguồn lực đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ khu vực tư nhân; đẩy mạnh
liên kết Công‐Tư, xã hội hóa để huy động nguồn lực. Về hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ
thuật tập trung đầu tư vào 12 khu du lịch quốc gia và 4 điểm du lịch quốc gia và các
tuyến du lịch kết nối các khu, điểm du lịch, địa bàn trọng điểm; Đầu tư nâng cấp hệ
thống đường bộ đến các điểm du lịch; nâng cấp triệt để hạ tầng giao thông đường sắt
tuyết Hà Nội‐Lào Cai‐Côn Minh; Hà Nội‐Thái Nguyên; Hà Nội‐Lạng Sơn‐Nam Ninh, đầu
tư cho hệ thống nhà ga, tiện nghi dịch vụ và năng lực vận chuyển; phát triển giao
thông đường không, đầu tư xây dựng sân bay tại Quản Bạ, Hà Giang, tại Lai Châu...
Nhà nước có chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư, ưu đãi đối với đầu tư vào địa
bàn có nhiều tiềm năng nhưng còn khó khăn; tăng cường đầu tư cho bảo tồn, tôn tạo,
bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch.
(3) Tập trung phát triển sản phẩm du lịch đặc thù vùng Tây Bắc, sản phẩm độc
đáo, có chất lượng và có giá trị gia tăng cao, phát triển du lịch xanh dựa trên những
giá trị văn hóa đặc sắc các dân tộc gắn với danh lam thắng cảnh và những giá trị môi
trường sinh thái đa dạng còn tương đối nguyên sơ. Các sản phẩm du lịch đặc sắc nổi
trội đó là: du lịch nghỉ dưỡng núi gắn với tìm hiểu văn hóa các dân tộc vùng cao (Sapa,
Mẫu Sơn, Mộc Châu, Mai Châu, Sìn Hồ, hồ Thác Bà, Núi Cốc, Ba Bể, Na Hang, hồ sông
Đà); du lịch sinh thái và khám phá cảnh quan độc đáo: nóc nhà Đông Dương
Phansipan, vườn quốc gia Hoàng Liên, Xuân Sơn, Pù Mát, Cao nguyên đá Đồng Văn,
Mèo Vạc, Thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao...; du lịch dựa vào cộng đồng; du lịch văn
hóa lịch sử gắn với các di tích Điện Biên Phủ, Đền Hùng, Tân Trào, ATK Định Hóa, Pắc
Pó...; du lịch về nguồn, du lịch tâm linh gắn với Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương, lễ
hội, làng nghề truyền thống, ẩm thực và chợ phiên vùng cao...; du lịch mua sắm,
thương mại gắn với cửa khẩu.
Phát triển sản phẩm liên kết giữa các địa phương trong Vùng, hình thành các
tuyến du lịch độc đáo: (1) Hà Nội‐Phú Thọ‐Yên Bái‐Lào Cai; (2) Hà Nội‐Bắc Giang‐Lạng
Sơn; (3) Hà Nội‐Thái Nguyên‐Tuyên Quang‐Hà Giang‐Đồng Văn; (4) Hà Nội‐Thái
Nguyên‐Bắc Cạn‐Cao Bằng; (5) Hà Nội‐Hòa Bình‐Sơn La‐Điện Biên‐Lai Châu; (6) Lào
Cai‐Sapa‐Điện Biên‐Lai Châu; (7) Lào Cai‐Bắc Hà‐ Xín Mần‐Hà Giang‐Đồng Văn‐Mèo
Vạc‐Cao Bằng‐Thác Bản Giốc.
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
17
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG TÂY BẮC VÀ GẶP GỠ ĐOÀN NGOẠI GIAO
(4) Xúc tiến, quảng bá, phát triển thương hiệu du lịch vùng Tây Bắc: đầu tư cho
nghiên cứu thị trường, hình thành cơ sở dữ liệu, thông tin chung về du lịch Tây Bắc;
thực hiện các chương trình xúc tiến du lịch đối với điểm đến chung Tây Bắc trong
chương trình xúc tiến du lịch quốc gia. Hàng năm tổ chức các sự kiện, diễn đàn phát
triển du lịch Tây Bắc gắn với thu hút thị trường khách từ Hà Nội và vùng Đồng Bằng
sông Hồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ và phụ cận. Đồng thời tăng
cường đầu tư phát triển thương hiệu du lịch Tây Bắc trên cơ sở thương hiệu các sản
phẩm đặc thù Tây Bắc và các điểm đến nổi bật như Sa Pa, Mộc Châu, Điện Biên Phủ,
Đền Hùng, Mẫu Sơn, Hồ Núi Cốc, Sìn Hồ, Đồng Văn... khuyến khích hình thành chuỗi
cung ứng dịch vụ có thương hiệu trong Vùng, chẳng hạn như chuỗi khách sạn Mường
Thanh.
(5) Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng Tây Bắc: Nhà nước ưu tiên
và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch
vùng Tây Bắc; tập trung phát triển kỹ năng nghề du lịch đi liền với tăng cường năng
lực, chuyển giao quản lý; đầu tư nâng cao nhận thức về du lịch cộng đồng, du lịch sinh
thái, du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm. Về đào tạo nhân lực du lịch, Nhà nước hỗ
trợ đầu tư xây dựng các trường/trung tâm đào tạo chuyên nghiệp du lịch tại Lào Cai,
Thái Nguyên, Sơn La, Phú Thọ, Lạng Sơn, Hà Giang; đồng thời có chính sách, biện pháp
khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đào tạo nhân lực tại chỗ và đẩy mạnh
công nhận kỹ năng nghề du lịch theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam (VTOS)
và cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch VTCB.
(6) Đẩy mạnh liên kết trong nước và quốc tế để phát triển du lịch: Liên kết giữa
các địa phương trong việc kết nối các điểm đến tạo ra những tuyến du lịch độc đáo;
Tổng cục Du lịch tiếp tục hợp tác với các bên liên quan tại khu vực Tây Bắc và đánh giá
cao sự hỗ trợ của Dự án Chương trình Phát triển Năng lực Du lịch có Trách nhiệm với
Môi trường và Xã hội (do Liên minh châu Âu tài trợ). Dự án EU thúc đẩy việc đưa các
dịch vụ du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội trở thành một phần của chiến
lược du lịch quốc gia; phát huy kết quả liên kết 8 tỉnh Tây Bắc, 6 tỉnh Việt Bắc, hình
thành cơ chế liên kết đảm bảo lợi ích thiết thực tăng sức cạnh tranh cho du lịch Vùng;
Tăng cường liên kết quốc tế tạo thuận tiện du lịch qua các cửa khẩu với Trung Quốc và
Lào, đặc biệt khai thác hành lang kinh tế Côn Minh‐Lào Cai‐Hà Nội‐Hải Phòng; Nam
Ninh‐Lạng Sơn‐Hà Nội; Luang Phabang‐Điện Biên Phủ‐Sơn La‐Hòa Bình.
Kết luận
Để tiếp sức cho du lịch Tây Bắc có đà phát triển, đây là thời điểm thích hợp
nhất đang mở ra những cơ hội to lớn cho những nhà đầu tư vào du lịch Tây Bắc, cơ
hội liên kết giữa các doanh nghiệp trong Vùng với các trọng điểm kinh tế cả nước và
quốc tế. Với tiềm năng, lợi thế về tài nguyên du lịch hầu như còn nguyên sơ chưa khai
thác đang hứa hẹn sức bật tăng trưởng đột phá cho du lịch Tây Bắc trong thời gian tới.
Hướng tới hiện thực hóa các mục tiêu phát triển du lịch vùng Tây Bắc cần có sự
quyết tâm cao độ của Chính phủ, Ban Chỉ đạo Tây Bắc cùng các cấp chính quyền địa
phương trong việc đổi mới, tháo gỡ những khó khăn, rào cản và mở đường về cơ chế,
chính sách khuyến khích, tạo động lực thu hút các nhà đầu tư và cộng đồng doanh
nghiệp tìm giải pháp đột phá trong đầu tư và liên kết thúc đẩy du lịch Tây Bắc phát
triển./.
18
Điện Biên Phủ, 6/5/2014
- Xem thêm -