Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa - Nghệ thuật Tôn giáo Kinh pháp hoa huyền tán. đại sư khuy cơ. ht. thích chân thường dịch...

Tài liệu Kinh pháp hoa huyền tán. đại sư khuy cơ. ht. thích chân thường dịch

.PDF
1478
219
146

Mô tả:

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN Đại Sư Khuy Cơ biên soạn Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường Biên soạn: Giáo sư Trương Đình Nguyên Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2005 Lời Giới Thiệu Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là bộ kinh ẩn chứa nhiều nghĩa lý sâu sắc, vượt tầm tư duy và suy luận của đời thường. Để giúp mọi người có thể lãnh hội được triết lý cũng như tính thực tiển 1 của nó, nhiều tác phẩm nghiên cứu, luận giải, trước tác rất công phu và có giá trị đã ra đời. Pháp Hoa Huyền Tán của Đại sư Khuy Cơ là một trong số ấy. Ở Việt Nam, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc học và hành trì lời Phật dạy, vì đa số Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Với tâm nguyện giúp đỡ Phật tử Việt Nam thực hành đúng tôn chỉ và mục đích của Pháp Hoa, Cố Hòa thượng Thích Chân Thường, một bậc cao tăng thạc đức, đặc biệt dành nhiều thời gian và tâm lực để chuyển dịch tác phẩm Pháp Hoa Huyền Tán từ chữ Hán ra chữ Việt. Tuy nhiên, do điều kiện và hoàn cảnh khách quan, bản dịch này chưa có nhân duyên ấn hành sâu rộng. Để hoàn thành tâm nguyện của bậc Tôn sư, hàng môn đồ pháp quyến của Cố Hoà thượng đã dày công biên tập, hiệu đính và kết hợp với Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam để in ấn tác phẩm nghiên cứu có giá trị này. Nay, chúng tôi kính giới thiệu đến chư Tăng Ni, Phật tử và các độc gỉa bộ Pháp Hoa Huyền Tán này. Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam Lời Dịch Giả 2 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh đại thừa thậm thâm vi diệu của Phật giáo. Đã có nhiều bộ kinh sớ giải như : • Pháp Hoa Huyền Nghĩa của ngài Pháp Vân đời Lương. • Pháp Hoa Tam Đại Bộ của ngài Thiên Thai Trí Khải Đại sư đời Tùy. • Pháp Hoa Nghĩa Sớ – Pháp Hoa Huyền Luận – Pháp Hoa Lược Sớ – Pháp Hoa Dụ Ý – Pháp Hoa Luận Sớ của ngài Gia Tường Đại sư Cát Tạng đời Tùy. • Pháp Hoa Kinh Yếu Giải của ngài Giới Hoàn đời Tống. Song đặc biệt vẫn là bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán của ngài Khuy Cơ – Từ Ân Đại sư biên soạn đời Đường. Bộ kinh luận này gồm 10 quyển, mỗi quyển chia làm hai phần : Bản và Mạt. Nhằm giải thích ý nghĩa thậm thâm vi diệu của bộ kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Trong phẩm Pháp Sư, đức Phật dạy rằng : “Này Dược Vương ! Kinh điển của ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, đương nói, sẽ nói mà trong đó Kinh Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu… Sau khi Như Lai diệt độ người nào có thể biên chép, thụ trì đọc tụng cúng dàng, vì người khác mà nói, thời được Như Lai lấy y trùm cho, lại được các đức Phật hiện tại ở phương khác hộ niệm cho. Người đó có sức tin lớn, sức trí nguyện và sức căn lành, phải biết người đó cùng Như Lai ở chung, được Như Lai lấy tay xoa đầu”. 3 Nhận thấy lợi ích lớn lao như vậy, tôi không quản tài sơ trí hẹp, thành tâm phiên dịch bộ kinh này ra nghĩa tiếng Việt với bản nguyện “Phục vụ chúng sinh tức cúng dàng chư Phật”. Trong khi phiên dịch chắc chắn có nhiều phần khiếm khuyết, kính mong các bậc cao minh – thiện tri thức từ bi hoan hỷ phủ chính cho. Champigny, mùa Phật đản năm Quý Dậu Phật lịch 2537 Tỳ Kheo Chân Thường khể thủ MẤY LỜI GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán này là do Đại sư Khuy Cơ đời Đường biên soạn ra. Đại sư vốn tục danh là Uất Trì Hồng Đạo, người ở Trường An (nay thuộc thành phố Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc), xuất gia làm đệ tử ngài Huyền Trang (tục gọi là Đường Tam Tạng), theo học tông chỉ của Du Già, Duy Thức. Ngài là bậc Cao Tăng, một vị đại Luận sư đã viết tất cả 100 bộ luận để giải thích kinh Phật, đặc biệt là kinh điển đại thừa. Do vậy, Ngài được người đương thời gọi là Bách bản Luận sư. Trên đường vân du thuyết pháp, ngài thường 4 dùng 3 cỗ xe, nên còn được gọi là Tam xa Pháp sư. Ngài đã từng theo ngài Huyền Trang dịch kinh tại Phiên Kinh viện ở chùa Từ Ân thuộc Trường An, ở đó ngài rất siêng trong công việc trước tác, dịch thuật. Các tác phẩm của ngài từ đây truyền đi được gọi là Từ Ân giáo, sau được tôn là Pháp tướng – Hiển lý tông. Ngài đã viết sớ giải cho nhiều bộ kinh, như các Kinh Di Lặc Thượng Sinh, Diệu Pháp Liên Hoa v.v… Sớ giải của Kinh Pháp Hoa chính là bộ sách Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán này. Sách này còn gọi là Pháp Hoa Huyền Tán, có chỗ còn gọi là Pháp Hoa Kinh Sớ, là một trong những bộ sớ giải quan trọng nhất, nổi tiếng nhất về Kinh Pháp Hoa. Mọi người học Phật điều biết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thường gọi tắc là Kinh Pháp Hoa, là một trong số kinh điển quan trọng nhất của Phật giáo đại thừa. Cho nên ở các nước theo Phật giáo đại thừa, ngoài việc phiên dịch kinh này ra ngôn ngữ bản quốc, các vị Cao Tăng thạc học đều viết các sách sớ giải về kinh này. Để giải thích Kinh Pháp Hoa, ta thấy ngoài bộ Huyền Tán này, ở Trung Quốc còn có rất nhiều bộ luận sớ khác như Pháp Hoa Huyền Luận, Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Cát Tạng đời Tùy, Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Triù Khải đời Tùy, Pháp Hoa Kinh Hội Nghĩa của Trí Húc đời Minh v.v…. 5 Ở Việt Nam ta, ngoài bản diễn Nôm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của ngài Huyền Cơ Thiện Giác, sách Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh của Lão Thiền Diệc Ngu ra, còn có một số sách sớ giải về Kinh Pháp Hoa như thời Minh Mạng triều Nguyễn có bộ Pháp Hoa Đề Cương của Minh Chính thuyền sư, hoặc như thời nay có Pháp Hoa Đề Cương Yếu Nghĩa của Hòa thượng Thích Từ Thông … Các sách nói trên, mỗi bộ mỗi vẻ, đều nhằm giải thích Kinh Pháp Hoa, đều giúp cho việc tìm hiểu nghĩa lý sâu xa của bộ kinh này. Riêng bộ Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Khuy Cơ (còn gọi là Đại sư Từ Ân) được coi là quan trọng bậc nhất, bởi lẽ sách này ngoài việc nêu ra các nghĩa lý tinh yếu của Kinh Pháp Hoa, còn giải thích cặn kẽ đến từng câu từng chữ của kinh này thông qua bản Hán dịch, đồng thời còn giải thích văn tự của bản Hán dịch. Pháp Hoa Huyền Tán còn chỉ ra một số từ dịch sai so với nguyên bản gốc Phạm. Có thể nói những ai muốn hiểu thấu nghĩa lý thâm diệu của Pháp Hoa, không thể không đọc sách này. Sách này chia thành 10 quyển. Mỗi quyển lại chia thành hai phần : Bản và Mạt (trước, sau). Về bố cục, sách này đại thể có thể chia làm hai phần : • Phần đầu tác giả giải thích một cách tổng quát về Kinh Pháp Hoa từ tên gọi, tông chỉ của bộ kinh này cho đến tính xác tín và vị trí của kinh này trong Phật giáo đại thừa. 6 • Phần sau tác giả giải thích kinh văn lần lượt từng phẩm theo thứ tự sắp xếp trong Kinh. Khi giải thích mỗi phẩm, đầu tiên tác giả cũng nêu lên và giải quyết các vấn đề có tính chất tổng quát của phẩm đó, theo phương pháp mà tác giả đặt tên là :“Tam môn phân biệt”. “Tam môn phân biệt” nhằm giải quyết 3 vấn đề : 1. Lai ý : dụng ý của phẩm đó, hoặc vì sao mà có phẩm đó. 2.Thích danh : giải thích tên gọi của phẩm đó, thông qua việc giải thích tên phẩm nêu lên nội dung cơ bản của phẩm đó. 3.Giải phương : giải đáp các thắc mắc quanh phẩm đó. Sau phần này, tác giả lần lượt giải thích từng phần, từng đoạn, từng câu kinh văn trong phẩm, bằng cách đầu tiên dẫn kinh văn, sau đó giải thích. Khi dẫn kinh văn, để khỏi rườm rà tác giả chỉ nêu lên mấy chữ đầu và mấy chữ cuối của đoạn được dẫn, phần bị tỉnh lược ở giữa được thay bằng chữ “chí” (tới). Cách dẫn kinh cụ thể theo công thức sau : [-Kinh văn : “XXX” chí “XXX” ], X là chữ được dẫn. Phần giải thích được mở đầu bằng : “Tán viết” (Tán rằng), cũng có khi được mở đầu bằng “Luận vân” (Luận rằng). 7 Chính là qua phần giải thích này, mà người đọc có thể hiểu được ý nghĩa thâm diệu của Kinh Pháp Hoa. Hơn nữa, qua phần giải thích này còn có thể giúp cho người tu Phật có được các tri thức phong phú về Phật giáo đại thừa, vì trong phần này tác giả đã viện dẫn rất nhiều kinh điển đại thừa. Đối với người tu Phật, bộ Pháp Hoa Huyền Tán này có thể coi là bộ sách giáo khoa về Kinh Pháp Hoa, về Phật giáo đại thừa. Đối với người giảng kinh, có thể coi đây là bộ giáo án quý báu để giảng kinh này. Đối với người nghiên cứu, có thể coi đây là bộ sách tham khảo rất có giá trị. Tóm lại, nói theo ngôn ngữ của nhà Phật, bộ sách này đem lại lợi ích to lớn trong việc hoằng pháp lợi sinh. Chính vì nhận thấy ý nghĩa hoằng pháp vô cùng to lớn của bộ Pháp Hoa Huyền Tán này, mà cố Hòa thượng Thích Chân Thường, một vị chân tu có nhiều công đức trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, người đã từng phiên dịch, tổ chức phiên dịch ấn tống nhiều bộ kinh điển nhà Phật, cũng là người sau khi đã làm nhiều công đức hoằng pháp tại quê hương lại cùng một số Cao Tăng Việt Nam khá,c đem Phật giáo sang truyền bá tại Châu Âu và là người xây dựng lên chùa Quan Âm ngay tại Paris, thủ đô nước Pháp. Khi còn tại thế, Ngài đã từng có tâm nguyện tha thiết là muốn phiên dịch và ấn tống bộ sách này để lợi lạc quần sinh. tiếc thay công việc chưa xong thì người đã vội về cõi 8 Phật. Nay các Pháp tử, Pháp tôn cùng Pháp quyến của người, tuân theo lời di huấn của người, đã nối tiếp và hoàn thành công việc to lớn khó khăn đang còn dang dở đó của người. Công quả ấy đã viên thành, người ở cõi Cực Lạc hẳn đã mãn nguyện. Tôi là người từ lâu đã để tâm vào việc nghiêm cứu Phật học, đã từng được đọc sách này, nay lại được may mắn là người đầu tiên được đọc bản thảo bản dịch ra tiếng Việt. Tôi vô cùng tán thán công đức to lớn của cố Hòa thượng Chân Thường và những vị nối chí người bởi lẽ phiên dịch, tổ chức phiên dịch, ấn tống bộ sách này là một công việc vô cùng to lớn vô cùng khó khăn. (To lớn vì sách này rất đồ sộ, gần bằng nửa bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, việc biên dịch in ấn phải tốn nhiều sức người, sức của. Khó khăn vì ngôn ngữ văn bản rất khó, phạm vi tri thức Phật học mà tác giả đề cập đến, hoặc viện dẫn từ Kinh Luật Luận rất rộng). Vậy mà nay công việc ấy đã được hoàn thành. Tuy nhiên, tôi thiển nghĩ cũng như mọi công việc to lớn khác trong thiên hạ, việc phiên dịch in ấn bộ sách lớn như thế này dù đã hoàn thành song khó có thể nói là đã “Vạn vô nhất thất”. Những mong đọc giả đọc bản dịch sách này với thiện tâm tùy hỉ sẽ góp phần giúp cho bản dịch sách này được hoàn thiện hơn, bởi lẽ bất cứ một sự hoàn thành nào đó đều chỉ là tương đối, cũng như trong kinh Dịch, sau quẻ Ký tế áp cuối tượng trưng cho sự hoàn thành, đến quẻ 9 Vị tế là quẻ cuối cùng tượng trưng cho sự vẫn chưa hoàn thành. Hà nội, ngày 2 tháng 9 năm 1995 Giáo sư Trương Đình Nguyên SƠ LƯỢC TIỂU SỬ DỊCH GIẢ THÍCH CHÂN THƯỜNG (1912 – 1993) • Đạo hiệu : Thích Chân Thường, pháp húy Bản Như. • Thế danh : Trần Đức Ký, sanh năm Nhâm Tý 1912. • Quê quán : làng Trà Trung, tổng Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. • Xuất gia : năm Canh Thìn, lúc 38 tuổi. • Sơn môn : đầu Phật với Tổ Trà Trung – Linh Ứng. • Thụ giới : thụ Cụ túc giới năm 1950 tại bản tự. • Học đạo : Tổ Tuệ Tạng, chùa Vọng Cung, Nam Định. Hành đạo: năm Giáp Ngọ 1954, vào Sài Gòn, chuyên tu pháp môn Tịnh độ và bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh ở đây. Kiến tạo : năm Mậu Tuất 1958, kiến tạo chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, quận Nhất, Sài Gòn. Ngoài ra, ngài 10 còn kiến tạo 2 Tịnh xá, một ở Biên Hòa và một ở Thủ Dầu Một. Tham học: • Năm 1961, sang nước Cao Miên nghiên cứu giáo lý Theravàdà. • Năm 1968, sang Ấn Độ nghiên cứu Mật giáo. • Năm 1972, sang Trung Quốc nghiên cứu Cổ bản. • Hoằng dương : Là người khai sáng 2 ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên đất Pháp : • Năm Giáp Thìn 1964, sang Pháp khai sáng chùa Linh Sơn, ở Joinville Bon, ngoại ô Paris. Sau này giao lại cho Hòa thượng Thích Huyền Vi kế nhiệm. • Năm Mậu Thân 1968, khai sáng chùa Quán Âm, ở Champigny sur Marne, ngoại ô Paris. • Thành lập Hội Phật giáo Quán Âm Paris, trụ sở tại chùa Quan Âm, đó cũng là trụ xứ hoằng đạo của Ngài trên đất Pháp cho đến lúc cuối đời. Sự nghiệp phiên dịch và ấn hành : Chư kinh Nhật tụng. (biên soạn) Kinh A Di Đà. (phiên dịch) Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. (phiên dịch) Kinh Đại Bát Niết Bàn. (biên soạn) Kinh Pháp Hoa Huyền Tán. (phiên dịch) Thế giới An Lập Đồ, (phiên dịch) Kinh Địa Tạng. (biên soạn) 11 Kinh Phổ Môn. (phiên dịch) Kinh Vô Lượng Thọ. (phiên dịch) Phổ Đà sơn dị truyện. (phiên dịch) Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. (biên soạn) Công đức viên mãn : Ngài viên tịch ngày 18 tháng 12 năm 1993 (tức ngày 6 tháng 11 năm Quý Dậu) tại chùa Quan Âm Paris, Pháp Quốc. Trụ thế : Ngài thụ mệnh 82 tuổi đời và có 42 tuổi đạo. QUYỂN THỨ NHẤT (PHẦN TRƯỚC) Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn. O . DẪN NHẬP Từng nghe : Đấng Chí Giác khéo khai quyền hiển thực, nhân cơ duyên của muôn vật mà trình bày về sự tướng, bậc thánh nhân nhiều phương pháp diệu mầu theo phẩm loại của chúng sinh mà giảng giải về nội dung. Rung núi dung hòa mà làm đẹp cho cả cõi đại thiên. Dâng biểu ủy thuận mà làm bến làm bờ hàng tám vạn. Rợp mây từ mà che rộng, đổ mưa pháp để mát xa. Tưới hai cây cho cây được nở hoa, nhuần ba cỏ để cỏ càng tươi tốt. Song vì lũ lái trẻ đã mệt vì đường xa hiểm trở, nên ngài mới dẫn dụ dần dần tới lối hóa thành; Đàn con thơ quen nghịch với xe dê, nên ngài cuối cùng đã phải giảng giải cho để chúng tấn tới dùng xe trâu lớn. 12 Do vậy, bậc thánh vương từng đánh bại mười quân đã cởi hạt châu sáng trong búi tóc, đấng y vương từng lập ra bát đế đã trao cho liều thuốc hay ở trong tay. Lời văn hay ra ngoài sự lý, nghĩa sâu sắc vượt cả trăm tông. Tóm cả thất địa mà chỉ đẹp cửu phần, đứng đầu ngũ thừa mà riêng nỗi ngàn thuở. Lớn lao thay ! Nêu một thực mà bao trùm cõi thái hư, rung hai quyền để tóm thâu cả vạn tượng. Há có thể dùng các mỹ từ bao la, cao diệu để hình dung tông chỉ cao xa sâu sắc của kinh này được ! Để dẫn vào nhân duyên Phật thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, đó là phần Tổng luận. I. PHẦN TỔNG LUẬN A . GIẢI THÍCH KINH PHẨM Đầu tiên nêu tên Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đó là nêu tóm tắt ý nghĩa cao lớn tuyệt vời, nêu lên tên gọi chung của cả một bộ kinh. - Tự phẩm đệ nhất : đó là để soi tỏ các tiêu đề to lớn về nghĩa loại, nói rõ các mục có ý nghĩa khác nhau. - Pháp : bao hàm ý nghĩa phép tắc đường lối để noi theo. Vì bao gồm mọi điều tốt lành nên gọi là Diệu. - Hoa : chỉ chung cho các loại hoa, nhưng nêu Liên (là hoa sen) lên, vì hoa này gồm đủ mọi vẻ đẹp của các loại hoa (trong kinh này). Thể và nghiệp đều được trình bày, pháp 13 và dụ đều được nêu lên. Đường bán, mãn khi đã hiểu rồi, lối thủ xả mới được nổi rõ. - Kinh : là Thường là Pháp, là Nhiếp là Quán. Thường, là đường lối cho trăm vua; Pháp, để đạo đức cho ngàn thuở. Nhiếp, là tập hợp mọi đạo lý nhiệm mầu; Quán, để điều phục các chúng sinh dung tục. Những mong cho tất cả đều lìa bến khổ, cuối cùng được lên bờ giác. - Tự : là do là thủy, trình bày nhân do giáo khởi, làm bước mở đầu để pháp được hưng sùng. - Phẩm : là loại là biệt, để khu biệt các loại khác nhau của tông chỉ huyền diệu, để phân tích các ý nghĩa khác biệt của giáo nghĩa sâu xa. Kinh có 28 phẩm loại nhằm nói rõ chân tông. Phẩm này về thứ tự thì đứng đầu, nên gọi là đệ nhất. Đệ là thứ, chỉ ngôi vị. Nhất là cao nhất, là đứng đầu. B . GIẢI THÍCH BẰNG SÁU MÔN Trước khi đi vào giải thích kinh văn, đầu tiên là dùng sáu môn mà phân thích: I. Duyên khởi của kinh. II. Tông chỉ của kinh. III. Tên gọi của kinh phẩm. IV. Việc đặt bỏ kinh phẩm. V. Thứ tự của kinh phẩm. VI. Bố cục và Giải thích kinh văn. I . DUYÊN KHỞI CỦA KINH 14 Nhân duyên Phật thuyết Kinh Pháp Hoa được trình bày tóm lược qua năm nghĩa : Một là để thù đáp nhân thỉnh. Hai là để phá nghi chấp. Ba là để nêu rõ ký hành. Bốn là để lợi ích cho bấy giờ và mai sau. Năm là để nêu bật thời cơ. I. 1- THÙ ĐÁP NHÂN THỈNH Trong thù đáp nhân thỉnh có hai nghĩa : A. THÙ NHÂN B. THÙ THỈNH. A. THÙ NHÂN Thù nhân có sáu nhân : 1. Thù hành nhân. 2. Thù nguyện nhân. 3. Thù cầu nhân. 4. Thù trì nhân. 5. Thù tướng nhân. 6. Thù thuyết nhân. Phật quả chẳng có thể tự dưng mà thành, mà phải do nghiệp hành mới được. Hành chẳng khởi lý lẽ, ắt vì nguyện lợi sinh. Hạnh nguyện khi tự khởi lên, nhưng không có duyên thì chẳng thể một mình mà gặp được. Dẫu gặp duyên để cầu trọng, nhưng không thể khinh xuất mà thành quả được. Phải do tu trì học tập, mới có thể đắc quả được. Đắc quả đã viên mãn rồi, thì sẽ trình bày để đáp ứng yêu cầu của ngoại vật. Muốn nêu rõ tính chất thâm diệu của tông chỉ kinh văn, thì trước hết thể hiện cái nhân đại tướng. 15 Đại tướng đã tỏ, lý phải phô trần, cho nên nêu rõ Phật vốn xuất thế là một việc lớn vậy. Do đó thù nhân có đủ sáu nghĩa này. 1) Thù hành nhân : Trong phẩm Phương Tiện đã bàn luận, giải thích về tám pháp thậm thâm, nói rằng: Phật đã từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, thực hành hết thảy vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tiến, danh tiếng vang khắp, thành tựu được pháp thậm thâm (rất sâu) chưa từng có. Các pháp khó hiểu, Như Lai biết được tùy nghi mà thuyết ý nghĩa khó hiểu, đó là pháp mà các hàng Thanh văn, Bích chi Phật chẳng thể biết được. Tám pháp thậm thâm gồm : một là thụ trì đọc tụng thậm thâm, hai là tu hành, ba là quả hạnh, bốn là tăng trưởng công đức tâm, năm là khoái diệu sự tâm, sáu là vô thượng, bảy là nhập, tám là bất cọng Thanh văn, Bích chi Phật sở tác chủ trì thậm thâm. Kinh chỉ có sáu pháp, không có pháp thứ bảy thứ tám, tới dưới sẽ biết. Đạo pháp chư Phật đã thực hành hết rồi, tu hành đầy đủ cái nhân của Nhất thừa chủng trí, mới được Phật quả. Cho nên nay thù nhân mà thuyết diệu pháp này để khuyến tu nhân hành. 2) Thù nguyện nhân : có nghĩa là trong phẩm Phương Tiện nói rằng : “này Xá Lợi Phất ! hãy nghe cho kỹ, ta vốn đặt lời thệ nguyện muốn khiến cho hết thảy chúng sinh đều được bằng ta không khác. Như điều nguyện xưa kia nay đã đầy đủ, hóa độ hết thảy chúng sinh khiến họ ngộ nhập Phật đạo”. Phẩm Thọ Lượng viết rằng: “ta thường tự nghĩ như 16 vầy : làm cách nào để khiến chúng sinh được nhập Phật đạo, mau chóng thành tựu Phật thân. Dù trong các nhân xưa kia hay ở quả ngày nay, ta đều luôn luôn phát nguyện khiến cho chúng sinh được giống như thân ta, được nhập Phật đạo”. Cho nên thù đáp bản nguyện mà thuyết kinh này, cũng là khiến chúng sinh cùng phát nguyện này, để hạnh và nguyện phù hợp với nhau, đạt tới mức xuất thế. 3) Thù cầu nhân : có nghĩa là như phẩm Thiên Thụ nói: “ta trong thời quá khứ cầu Kinh Pháp Hoa không hề lơ là mỏi mệt, ở trong nhiều kiếp thường làm quốc vương cầu đạo Bồ đề, chẳng hề thoái chuyển, đánh trống ra lệnh cho khắp bốn phương. Bấy giờ có vị tiên đến bạch với quốc vương rằng : “ta có kinh Đại thừa gọi là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu chẳng trái ý ta, ta sẽ tuyên thuyết cho”. Quốc vương nghe tiên nói thế, thì vui mừng phấn khởi, liền nghe theo tiên cung cấp mọi thứ cần dùng cho tiên, thậm chí lấy thân mình làm giường làm ghế, thân tâm chẳng mỏi, phụng sự tiên đó trải hàng ngàn năm, vì mục đích cầu pháp mà khiến tiên không thiếu thốn thứ gì. Quốc vương thời đó nay là thân ta đấy. Vị tiên thời đó nay là Đề Bà Đạt Đa. Vì Phật quá khứ nguyện hạnh sở dĩ thành ắt do duyên hội, hằng trọng kinh này. Ở nơi thiện hữu, chuyên sự cầu kinh này, cho nên ta nay tuyên thuyết khiến mọi người sinh tâm cầu trọng 4) Thù (ứng) trì nhân : có nghĩa là như trong tám pháp thậm thâm ở đằng trước : - Thứ nhất là Phật đã từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số 17 chư Phật, gọi là thụ trì đọc tụng thậm thâm. Đầu tiên y Bồ tát cúng năm hằng sa Phật. - Thứ hai y Bồ tát cúng sáu hằng sa Phật. - Thứ ba y Bồ tát cúng bảy hằng sa Phật. - Thứ tư y Bồ tát cúng tám hằng sa Phật; gặp nhiều thiện hữu, thụ trì lâu dài. Thêm nữa, Thích Ca Như Lai thời quá khứ tự thân là Thường Bất Khinh Bồ tát, sau khi Uy Sơn Vương Phật nhập diệt, ngài tu hành hạnh bất khinh, lúc lâm chung nghe trong hư không thuyết hai mươi ngàn vạn ức bài kệ của Kinh Pháp Hoa, ngài đều thụ trì được cả, được sáu căn thanh tịnh, lại tăng thêm thọ mệnh hai trăm tám vạn ức nado-tha tuổi, giảng rộng kinh này, sau lúc mệnh chung được gặp hai ngàn ức Phật đều gọi là Nhật Nguyệt Đăng Minh, ngài thường trì kinh này, nhờ nhân duyên ấy lại gặp hai ngàn ức Phật cùng gọi là Vân Tự Tại Đăng Vương. Ngài cùng ở trong pháp chư Phật này mà thụ trì kinh này, thường được sáu căn thanh tịnh. Vị Bồ tát Thường Bất Khinh đó chính là thân ta đấy, vì thời xưa thường trì kinh này, cho nên nay ta thuyết kinh này khuyên thường thụ trì. 5) Thù (đáp) tướng nhân : sau khi thành Phật rồi, lúc sắp thuyết kinh này, trước tiên Phật thuyết Kinh Vô Lượng Nghĩa cho Bồ tát, sau đó nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ tam muội. Trời mưa bốn hoa, đất rung sáu loại, bốn chúng chiêm ngưỡng, tám bộ hoan hỉ. Ngài phóng hào quang thấu suốt 18 xa rộng, chúng thấy thế rồi sinh nghi. Di Lặc phát vấn, Văn Thù bảo rằng : “cứ như ta suy đoán thì nay Phật Thế tôn định thuyết đại pháp, mưa mưa đại pháp, thổi loa đại pháp, khua trống đại pháp, diễn nghĩa đại pháp. Ta thời quá khứ đã từng thấy điềm lành này. Chư Phật phóng hào quang này rồi thì thuyết đại pháp, thậm chí thuyết rộng. Ngày nay Như Lai hẳn sẽ thuyết kinh đại thừa gọi là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chư Phật ba đời lúc sắp thuyết kinh này, ắt trước tiên có bấy nhiêu tướng lớn, chẳng giống kinh khác, vì các kinh khác không có tướng lớn ban đầu này. Tướng đã phi thường, nên cần phải nói rõ điều này, tức là sắp thuyết kinh này thì trước tiên thị hiện tướng lớn, trước tiên thị hiện tướng lớn chính là để thuyết kinh này. 6) Thù (đáp) thuyết nhân : như kinh phần dưới nói rằng, chư Phật Như Lai chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời, cho tới thuyết rộng ra : không có đệ tử Thanh văn, chỉ giáo hóa Bồ tát, cứu cánh khiến họ được Nhất thiết chủng trí. Cho nên chư Phật ba đời thành đạo, cứu cánh ắt thuyết nhất thừa, đều là phương tiện thú cầu trong nhân. Tu học tuy mãn, chưa từng diễn thuyết. Ngày nay cơ hội không thể bỏ uổng, nên theo nhân cũ mà thuyết diệu pháp này. Nghĩa loại như trên kinh văn nêu rất nhiều, vì e rộng dài, nên chỉ lược thuật qua. B. THÙ THỈNH Thù thỉnh có nghĩa là thù đáp lời cầu thỉnh. Trong kinh nói 19 : “Bồ tát mới sanh ra đã bước bảy bước, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương nhìn xem bốn phía, làm tiếng sư tử gầm mà thuyết kệ rằng: Ta sinh thai phần hết, Đây là thân cuối cùng. Ta đã được giải thoát, Sẽ lại độ chúng sinh.” Thề như vậy rồi thân dần khôn lớn, ra chơi bốn cửa thấy tướng già, ốm, chết, và tướng Sa môn. Đã hỏi biết rồi liền muốn bỏ thân thuộc, cầu quả vô thượng. Nửa đêm quan sát thấy các kỹ nhân, hậu phi, thể nữ dáng như xác thối rất đáng chán ngán. Liền sai Xa Nặc thắng ngựa Kiền Đệ. Chư thiên nâng chân, nửa đêm ra khỏi thành, đi mười bốn do tuần tới trong rừng nơi vị tiên Bạt Già Bà ở, lấy dao gọt tóc, đem áo đẹp báu đổi lấy áo da hươu, sai Xa Nặc trở về báo với vua cha, rồi ở chỗ lục sư ngoại đạo cạnh sông Ni Liên để hàng phục họ. Ngài đã phải sáu năm khổ hạnh, cần cù khổ sở hơn họ, hằng ngày phải ăn vừng ăn lúa mạch. Sau, ngài chán vì họ chẳng tu đúng đạo, bèn ăn cháo sữa, nhận cỏ Cát tường, tới cây Bồ đề, ngồi tòa Kim cương, dùng lực trí tuệ hàng phục quân ma, chứng đại Bồ đề mãi mãi vượt ra khỏi ba cõi. Bấy giờ chúa của tam thiên đại thiên giới cùng chư thiên khác kéo đến chỗ Phật thỉnh chuyển pháp luân. Hóa Phật tán dương, khuyên hãy tạm dùng cách quyền nghi mà thuyết. Thời cơ chưa chín, hãy thuyết phương tiện, chưa thuyết thực pháp. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan